Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

(Luận văn thạc sĩ) truyện ngắn ma văn kháng thời kỳ đổi mới nhìn từ góc độ văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (640.7 KB, 90 trang )

Đại học quốc gia Hà Nội
Tr-ờng đại học khoa học xà hội và nhân văn
.......................................................

Lê Văn Khải

Truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kì đổi mới

nhìn từ góc độ văn hoá
Chuyờn ngnh : Văn học Việt Nam
Mó s : 60 22 34
Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS Hà

văn đức

Hà Nội 2010

1


Phần mở đầu
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài.
Diện mạo của một nền văn học dân tộc tr-ớc hết là sự góp mặt của những
tên tuổi lớn. Trong văn học đ-ơng đại Việt Nam, Ma Văn Kháng là một nhà
văn có vai trò không nhỏ trong hành trình đổi mới t- duy nghệ thuật.
Sự nổi tiếng của ông là một điều không phải bàn cÃi. Gần 50 năm hoạt
động sáng tạo chi chút nh- con ong làm mật, từ truyện ngắn đầu tiên đến nay
ông đà có một vốn liếng khá lớn về tiểu thuyết và truyện ngắn, trong đó có
những tác phẩm đóng dấu trong lòng bạn đọc .


Có thể nói, dù viết truyện ngắn từ những năm 1960 nh-ng phải đến
những năm tám m-ơi của thế kỉ tr-ớc, Ma Văn Kháng mới thật sự thành công
về sáng tác truyện ngắn, đặc biệt là từ sau năm 1986.
Phố cụt là tác phẩm mở đầu cho nghiệp viết truyện ngắn của ông.Truyện
ngắn này đ-ợc in trên trang nhất của Tuần báo văn nghệ 1961.Đây là tác
phẩm có cốt truyện đơn giản, khám phá những cuộc đời lao động mới bằng
những trang văn trong sáng, nóng hổi hơi thở cuộc sống.Từ đó ông tr-ởng
thành dần và liên tiếp gặt hái thành công trong thể loại này. Ông đoạt giải cao
nhất cuộc thi truyện ngắn 1967 1968 của Tuần báo văn nghệ. Sau đó, ông
cho ra đời liên tiếp 5 tập truyện ngắn từ 1969 đến 1972. Từ 1986, truyện ngắn
Ma Văn Kháng bứt phá, sung sức, nở rộ. đề tài và chủ đề mở rộng.t- duy đa
chiều về cuộc sống và con ng-ời. đến nay ông đà có 17 tập truyện ngắn, 10
tiểu thuyết, 3 truyện nhi đồng. ông tiếp tục đoạt giải th-ởng cho tác phẩm Xa
phủ (tr-ớc 1986), Cây bút vàng cho truyện ngắn San Cha Chải trong cuộc thi
truyện ngắn và kí 1996 1998 do Bộ công an và hội nhà văn tổ chức. Tập
truyện Trăng soi sân nhỏ (1994) đ-ợc giải th-ởng hội đồng văn xuôi hội nhà
văn 1995 và năm 1998 giải th-ởng văn học Đông Nam á. Năm 2001 ông nhận
giải th-ởng nhà n-ớc về văn học nghệ thuật đợt 1. Năm 2009 ông cho xuất
bản tiểu thuyết Một mình một ngựa và hồi kí Năm tháng nhọc nhằn năm tháng

2


nhớ th-ơng, cuốn tiểu thuyết Một mình một ngựa đ-ợc nhận giải th-ởng của
hội nhà văn Hà Nội.
Với một nội lực mạnh mẽ và một cá tính sáng tạo, nhà văn Ma Văn Kháng
đà và đang chiêm nghiệm, nhập cuộc, lùi xa, đứng trên dòng chảy đất n-ớc
những năm chuyển động dữ dội và thời kì đổi mới để có một th-ơng hiệu
truyện ngắn Ma Văn Kháng. Ông nhận ra những cơn vật và của toàn xà hội và
chấn thươngcủa trạng thái nhân thế. Ông đi vào bản chất của cuộc đấu tranh

nội bộ thời hậu chiến với những m-u toan, quyền lực, chuyên quyền, a dua,
nịnh bợ, với những cái ác, cái xấu hiện hình.
Với một cây bút có nhiều trải nghiệm và in dấu trong lòng độc giả qua
nhiều chặng đ-ờng sáng tác nh- vậy, với một tài năng truyện ngắn v-ợt trội,
cần có một góc nhìn đa chiều hơn về văn ch-ơng của ông, nhất là mảng truyện
ngắn viết trong thời kỉ đổi mới đến nay. Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn
hoá hiện đang là xu h-ớng tiếp cận toàn diện và sâu sắc về văn học. Chúng tôi
chọn đề tài này để thấy đ-ợc những biểu hiện văn hoá trong sáng tác truyện
ngắn Ma Văn Kháng thời kì đổi mới và sự ảnh h-ởng tác động qua lại giữa
văn hoá thời kì này đến thế giới nghệ thuật truyện ngắn của ông.
2. Lịch sử vấn đề
Ma văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh ngày 1/12/1936 tại Hà
Nội. Bút danh Ma Văn Kháng gắn liền với quê h-ơng thứ hai của ông- Lào
Cai. ông từng đi qua thời thiếu sinh quân, giáo viên dạy văn, hiệu tr-ởng cấp
2, cấp 3 phổ thông Lào Cai, làm báo, làm th- kí cho bí th- tỉnh uỷ Lào Cai.
Năm 1974 ông chính thức trở thành hội viên hội nhà văn Việt Nam. Sau một
thời kì dài gắn bó với Lào Cai, Ma Văn Kháng trở về Hà Nội mở ra một giai
đoạn mới với t- cách nhà văn chuyên nghiệp. Hiện nay ông là là uỷ viên ban
chấp hành hội nhà văn Việt Nam.
Nh- trên đà nói, sáng tác của ông đa dạng ở thể tài và nhất là những tập
truyện ngắn ngày càng gây tiếng vang tõ sau 1986.

3


Lịch sử nghiên cứu về truyện ngắn Ma Văn Kháng đà đặt ra từ rất sớm.
Năm 1961 truyện ngắn Phố cụt đ-ợc in báo, gần hai năm sau trong một cuộc
họp ở viện văn học, phó viện tr-ởng Nguyễn Minh Tân đà nói: Cây bút trẻ
Ma Văn Kháng in nhiều truyện ở các báo đ-ợc giới văn học và bạn đọc chú
ý( theo An ninh thế giới, ngày 26/9/2007)

Đầu những năm 70, các cây bút phê bình nghiên cứu tập trung bàn về tập
truyện Xa Phủ của Ma Văn Kháng, tác phẩm viết về cuộc sống và con ng-ời
miền Tây, theo các nhà phê bình thì Xa Phủ vẫn là cảm hứng sử thi của văn
học lúc bấy giờ, dạng truyện vừa trữ tình vừa có cốt truyện
Từ sau 1986 đến nay Ma Văn Kháng liên tiếp cho ra mắt những tập truyện
ngắn gây tiếng vang rộng rÃi: Ngày đẹp trời (1986), Vệ sĩ Quan Châu (1988),
Trái chín mùa thu (1988), Heo may gió lộng (1992), Trăng soi sân nhỏ
(1994), Ngoại thành (1996), Vòng quay cổ điển (1997), Ngày hội phố ph-ờng
(2004), Đầm sen (2006), Trốn nợ (2008)Những ng-ời quan tâm đến truyện
của Ma Văn Kháng đều phát hiện ra đó là những trang văn triết luận đời sống
hết sức nhất quán. Triết luận của Ma Văn Kháng là lấy tính ng-ời, tình ng-ời
và sự hồn nhiên làm mẫu số để nhà văn trò chuyện về con ng-ời và cuộc đời.
Những truyện hay nhất của Ma Văn kháng là nói về dòng đời, mạch sống.
Các tập truyện trên đây của Ma Văn Kháng đà đ-ợc phê bình trên các
trang báo, các bài tham luận cũng nh- các công trình nghiên cứu. Phê bình về
tập truyện Ngày đẹp trời, tác giả Bùi Việt Thắng phát hiện ra tính chất dự báo
những vấn đề cốt yếu của cuộc sống, khai thác những chuyện đời th-ờng.
Tác giả Nguyễn Đăng Hiệp nhận xét về Đầm sen là đời th-ờng, đầy ắp
hơi thở của sự sống, nhân vật phụ nữ đời hơn cả.
Đọc Heo may gió lộng, tác giả Trần Bảo H-ng cho đó là lối viết đ-ợm tình
yêu th-ơng, thế giới tâm linh huyền bí với những nghiệp căn số mệnh
Cái nhìn toàn diện về truyện ngắn Ma Văn Kháng phải đến năm 1999 với
các tác giả LÃ Nguyên, Nguyễn Ngọc Thiện, Phong Lª…

4


Tác giả LÃ Nguyên phát hiện truyện ngắn Ma Văn kháng ở các cấp độ:
Những kẻ mông muội nơi miền rừng núi ; những cảm khái thành thị với nhịp
sống hiện đại nghiêng về tình ng-ời nhân văn; tính dục trào lộng .

P.G.S, nhà văn Nguyễn Ngọc Thiện - một ng-ời bạn mà gần nh- tác phẩm
nào của Ma Văn Kháng cũng đọc đà nói: Chả lúc nào ông ấy không có
truyện trong ngăn kéo đâu, cứ đến xin khéo may là được đấy. Nhà văn
Nguyễn Ngọc Thiện bàn nhiều về đời sống tâm linh bí ẩn để đặt con ng-ời
đúng chỗ trên trần thế, về dục vọng nh- mét thc tÝnh cđa con ng-êi trong
trn ng¾n cđa Ma Văn Kháng.
Năm 2008 tập truyện mới nhất của Ma Văn Kháng có tên Trốn nợ ra đời.
Trốn nợ là chủ đề của cuộc hội thảo tại trụ sở hội nhà văn Việt Nam- cuộc hội
thảo nằm trong khuôn khổ hoạt động của lớp bồi d-ỡng lí luận phê bình khoá
1 do trung tâm bồi d-ỡng viết văn tổ chức. Tại hội thảo này, T.S Nguyễn
Thanh Tú đà khẳng định : Ma Văn Kháng vẫn viết những điều mình biết và
chiêm nghiệm, ngồn ngộn những chi tiết. Nhà phê bình Văn Vinh đánh giá Ma
Văn Kháng thể hiện một bút lực sung mÃn, c-ờng tráng. Nhà phê bình
Nguyễn Chí Hoan cho rằng: Hầu hết các tác phẩm đều gói chặt vào những
không gian nhỏ bé, để lại d- vị bức bối. Có một thế giới cũ kĩ đang bàng
hoàng tr-ớc những đổi thay của cuộc sống.
Nh- vậy nghiên cứu về sáng tác truyện ngắn Ma Văn Kháng đà có một
quá trình lịch sử từ những nhận định lẻ trên các tờ báo, đến những bài viết
công phu, những tham luận có giá trị tại các hội thảo, tất cả đều tập trung
khám phá sức sáng tạo đồi dào của truyện ngắn Ma Văn Kháng từ sau 1986.
Ông đà chuyển đổi từ cách viết t- duy sử thi sang đời t- thế sự với những vấn
đề nổi cộm về dòng đời, mạch sống, về luân lí đạo đức và giá trị con ng-ời
trong vòng quay cổ điển của cuộc sống hiện đại.
Những năm gần đây xuất hiện một số đề tài Khoa học ngữ văn nghiên cứu
về Ma Văn Kháng nh-: Thi pháp truyện ngắn Ma Văn kháng ( luận văn thạc
sĩ của Nguyễn Tiến Lịch), Nghệ thuật tự sự trong sáng tác Ma Văn Kháng (
5


luận án của nghiên cứu sinh Đỗ Ph-ơng Thảo)Đây là những công trình

khoa học có giá trị, dù mới chỉ dừng lại ở nghệ thuật sáng tác của Ma Văn
Kháng nh-ng sẽ là những gợi ý quý báu cho chúng tôi tiếp cận truyện ngắn
của Ma Văn Kháng trong luận văn này.
Chúng tôi chọn vấn đề: Truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kì đổi mới từ góc
nhìn văn hoá là một cách tiếp cận mới mẻ, toàn diện. Không xuất phát từ quan
điểm xà hội học đơn giản, cũng không xuất phát từ quan điểm nghệ thuật
thuần tuý của nhà văn, công trình luận văn này muốn đạt tới một hiệu quả từ
góc nhìn văn hoá để tìm hiểu, phát hiện và khẳng định chiều sâu giá trị những
truyện ngắn Ma Văn Kháng trong một thời kì biến động .
3. Phạm vi nghiên cứu.
Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi chủ yếu lấy truyện ngắn Ma Văn
Kháng từ sau 1986 để làm đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu, trong đó sẽ giải
quyết vấn đề lớn sau đây:
Thiên nhiên, con ng-ời và nghệ thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng
thời kì đổi mới đ-ợc thể hiện từ chiều sâu kiến thức, vốn sống, tài năng của
Ma Văn Kháng( tầm vóc văn hoá của nhà văn).Ba vấn đề này sẽ đ-ợc soi
chiếu từ các góc nhìn văn hoá chứ không phải phân tích thi pháp thông
th-ờng.
Với hàng chục tập truyện ngắn thời kì đổi mới của Ma Văn Kháng,
chúng tôi chỉ chọn những truyện hay tiêu biểu trong các tập :Heo May gió
lộng, Đầm sen, Ngày hội phố ph-ờng, Trăng soi sân nhỏ, Vòng quay cổ điển,
Trốn nợ, và đặc biệt là tập Truyện ngắn Ma Văn Kháng của nhà xuất bản hội
nhà văn năm 2008 để làm phạm vi nghiên cứu cho luận văn này.
Ngoài ra còn có một số truyện ngắn của ông thời kì tr-ớc 1986.
4. Ph-ơng pháp nghiên cứu.
4.1 Ph-ơng pháp hệ thống
Là ph-ơng pháp giúp ng-ời nghiên cứu hệ thống xâu chuỗi các vấn đề
trong một mối quan hệ biện chứng để có một cái nhìn toµn diƯn, tỉng thĨ vỊ
6



vấn đề. Ph-ơng pháp này giúp chúng tôi tìm ra một hệ thống luận điểm xoay
quanh việc khám phá truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kì đổi mới từ góc nhìn
văn hoá.
4.2 Ph-ơng pháp thống kê.
Ph-ơng pháp này giúp chúng tôi thống kê trên toàn bộ truyện ngắn Ma Văn
Kháng ®Ĩ cã mét kÕt ln khoa häc vỊ thiªn nhiªn, con ng-ời, các kiểu ng-ời
và tính cách, các trạng thái tâm lí, nghệ thuật đặc thù, thời gian và không gian
nghệ thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng.
4.3 Ph-ơng pháp so sánh
Ph-ơng pháp này giúp chúng tôi so sánh đối chiếu giữa truyện ngắn Ma Văn
kháng hai thời kì tr-ớc và sau 1986. So sánh truyện ngắn Ma Văn Kháng với
những cây bút truyện ngắn cùng thời để thấy đ-ợc nét đặc tr-ng từ góc nhìn
văn hoá.
4.4 Các ph-ơng pháp hỗ trợ khác.
5. Kết cấu luận văn.
Luận văn này gồm có ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận.
Phần nội dung có ba ch-ơng:
Ch-ơng 1: Con ng-ời trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kì đổi mới từ góc
nhìn văn hoá.
Ch-ơng 2: Thiên nhiên trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kì đổi mới từ
góc nhìn văn hoá.
Ch-ơng 3: Nghệ thuật truyện ngắn Ma Văn Kháng từ góc nhìn văn hoá.
Phần nội dung
Ch-ơng 1: Con người trong truyện ngắn Ma Văn Kháng
thời kỳ đổi mỡi từ góc nhìn văn hóa
1.1. Con ng-ời trong văn học thời kỳ đổi mới.
1.1.1. Thay đổi về nhận thức, t- duy.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân
tộc, đồng thời cũng đ-a tới một chặng đ-ờng mới của văn học Việt Nam. Tuy

nhiên, văn học thời kỳ đổi mới đ-ợc xác định từ 1986 ®Õn nay, g¾n liỊn víi
7


mốc lịch sử Đại hội VI của Đảng. Trong đại hội này đà xác định đ-ờng lối đổi
mới toàn diện, mở ra một thời kỳ mới cho đất n-ớc v-ợt qua thời kỳ khủng
hoảng, b-ớc vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Khi văn hóa xà hội có những
biến động, nó sẽ tạo ra những chuyển đổi sâu sắc, mạnh mẽ trong quan niệm
sống, cách nhìn nhận cuộc sống của mỗi ng-ời, đặc biệt là trong sáng tạo
nghệ thuật - văn học thời kỳ này ở trong trạng thái chuyển động dữ dội của
một cuộc trở dạ. Tr-ớc hết là trở dạ về nhận thức. Các nhà văn có nhu cầu
nhận thức lại thực tại xà hội, nhìn thẳng vào sự thật, quan tâm tới đời sống
ngổn ngang, bề bộn của thì hiện tại. Nhận thức, quan niệm của nhà văn về
hiện thực cũng đ-ợc mở rộng hơn. Hiện thực không chỉ là những biến cố lịch
sử và đời sống cộng đồng mà đó còn là cái hằng ngày với những quan hệ thế
sự vốn dĩ đa đoan, phức tạp. Hiện thực, đó còn là đời sống cá nhân của mỗi
con ng-ời với những vấn đề riêng t-, thầm kín nhất. Cũng trong không khí đó,
một t- duy nghệ thuật mới đà hình thành. Văn học chuyển biến từ t- duy sư
thi sang t- duy tiĨu thut, tõ c¶m høng cao cả, hào hùng sang cảm hứng thế
sự, đời t- gắn với những chiêm nghiệm, suy t-. T- duy văn học mới hình
thành, làm thay đổi các quan niệm về chức năng văn học, mối quan hệ giữa
văn học và đời sống, nhà văn và bạn đọc, sự tiếp nhận văn học, quan niệm
nghệ thật về con người
1.1.2. Quan niệm và các góc nhìn về con ng-ời trong văn học thêi kú ®ỉi
míi.
Më réng quan niƯm vỊ hiƯn thùc ®i liỊn víi ®ỉi míi quan niƯm nghƯ
tht vỊ con ng-êi. Tr-ớc 1975, văn học sử thi đặt ra những vấn đề mang tầm
vóc lịch sử, liên quan tới vận mệnh và sự sống còn của dân tộc. Con ng-ời
đ-ợc lý t-ởng hóa, thần thánh hóa trong cảm hứng sử thi cao cả, hào hùng.
Con ng-ời chỉ đ-ợc nhìn với cái nhìn một chiều và đ-ợc đo bằng chiều kích vĩ

mô, thành anh hùng, dũng sĩ. Sau 1975, đặc biệt là từ sau Đại hội VI của
Đảng, con ng-ời đ-ợc văn học nhìn nhận, soi chiếu ở nhiều bình diện, tầng
bậc, vị thế khác nhau. Con ng-ời không đ-ợc lý t-ởng hóa, lÃng mạn hóa mà

8


đ-ợc nhìn nhận nh- nó vốn có, d-ới sự tác ®éng ®a chiỊu, phøc t¹p cđa ®êi
sèng: con ng-êi víi x· héi, víi lÞch sư, con ng-êi víi phong tơc, víi thiªn
nhiªn, con ng­êi trong mèi quan hƯ víi ng­êi khác và với chính mình Con
ng-ời cũng đ-ợc văn học khám phá ở cả tầng ý thức và vô thức, đời sống tt-ởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả và dục vọng
tầm th-ờng. Văn học thời kỳ đổi mới đặc biệt quan tâm tíi con ng-êi nh- mét
c¸ thĨ, mét thùc thĨ sèng, trong đó chứa đựng cả phần nhân loại phổ quát. Nó
nói thật to những gì văn học tr-ớc 1975 th-ờng giÊu kÝn hay ch-a cã ®iỊu kiƯn
nãi ra vỊ con ng-ời. Vấn đề cái riêng trở thành mối quan tâm hàng đầu của
ng-ời cầm bút.
Nh- vậy, đổi mới văn học suy đến cùng là đổi mới quan niệm: quan
niệm về con ng-ời, về đời sống, quan niệm về chức năng của văn học nghệ
thuật. Trong văn học thời kỳ đổi mới, con ng-ời vừa là điểm xuất phát, là đối
t-ợng khám phá chủ yếu, vừa là cái đích cuối cùng của văn học, đồng thời
cũng là điểm quy chiếu, là th-ớc đo giá trị của mọi vấn đề xà hội. Và cũng vì
đ-ợc soi chiếu từ nhiều góc độ khác nhau nên con ng-ời trong văn học thời kỳ
đổi mới hiện ra đời hơn, thật hơn, toàn diện hơn nhiều so với tr-ớc đó. Đúng
nh- GS Trần Đình Sử đà nói :Sự đổi mới và đa dạng của văn học tr-ớc hết là
đổi mới và đa dạng trong quan niệm nghƯ tht vỊ con ng­êi”[42 ].
1.2. Con ng-êi trong trun ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới từ góc
nhìn văn hóa.
Ma Văn Kháng là cây bút văn xuôi tiêu biểu của văn học thời kỳ đổi
mới. Đặc biệt, truyện ngắn thời kỳ đổi mới của ông thể hiện một cái nhìn toàn
diện, thấu đáo và tri ân đối với con ng-ời. Bằng giọng điệu vừa thâm trầm, sâu

sắc, vừa trào lộng hài h-ớc, vừa chua chát, cay nghiệt lại vừa m-ợt mà, nhẩn
nha, Ma Văn Kháng đà say s-a kể với chúng ta về những mảnh đời, những số
phận ng-ời chịu ảnh h-ởng trực tiếp từ văn hóa thời đại họ sống. Từ góc nhìn
văn hóa, con ng-ời trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới hiện lên
thật đa diện.

9


1.2.1. Con ng-ời từ góc nhìn văn hóa ứng xử.
Trong dòng chảy của lịch sử, mỗi cộng đồng dân tộc đà sáng tạo cho
mình một nền văn hóa. Bản sắc văn hóa của cộng đồng đ-ợc l-u giữ từ đời
này qua đời khác. Văn học là một thành tố của văn hóa. Nó là sự tự ý thức văn
hóa của mỗi dân tộc. Các biến động của lịch sử, xà hội, t- t-ởng, quan niệm
mới của thời đại luôn tác động, chi phối cá tính sáng tạo của nhà văn. Trên
tinh thần đổi mới t- t-ởng, đổi mới t- duy, văn hóa Việt Nam thời kỳ đổi mới
và giao l-u, hội nhập đà in dấu ấn sâu đậm trong cách ứng xử của con
ng-ời.Văn hoá đổi mới tác động đến văn học. Hay nói nh- PGS.TS Đoàn Đức
Ph-ơng: Hình tượng con người trong văn học mang những phẩm chất gắn với
một nền văn hoá nhất định[41 ;tr 30].
Từ góc nhìn văn hóa ứng xử, con ng-ời trong truyện ngắn Ma Văn
Kháng thời kỳ đổi mới hiện lên vừa cao cả vừa đời th-ờng, vừa có cái đẹp, cái
thiện lại vừa có cái xấu, cái ác. Con người bị xóa nhòa khoảng cách sử thi
đ-ợc đặt trong dòng đời đa tập, trong những mối quan hệ chằng chịt. Chính vì
vậy, ngay trong cách ứng xử, con ng-ời trong truyện ngắn của ông cũng đ-ợc
khám phá từ nhiều chiều kích.
1.2.1.1. Cái đẹp và cái thiện.
Đọc truyện ngắn Ma Văn Kháng giữa những ngày hè nắng nôi oi bức,
tôi thật sự bị cuốn hút bởi thứ văn giàu chất đời, đầy ắp hơi thở của sự sống ấy.
Nhiều trang truyện làm ta cảm thấy ấm lòng bởi các nhân vật đà lấy cái đẹp

của tính ng-ời, tình ng-ời để đối nhân xử thế, để v-ợt lên nh-ng thói th-ờng
của cuộc đời trần tục, đa đoan. Những cái méo mó, nghịch dị, cái phàm tục,
dở dang cứ thu hút một số cây bút nào khác. Ma Văn Kháng là nhà văn của
cái đẹp trong dòng đời sinh hóa, bình dị, hồn nhiên, cái đẹp trong niềm hạnh
phúc đ-ợc làm ng-ời với ý nghĩa đích thực của nó chứ không phải là cái gì
khác [37;Tr 7].
Tr-ớc hết là cái đẹp trong ứng xử giữa con ng-ời với con ng-ời, cái đẹp
ấy càng trở nên ngời sáng khi nhà văn đặt nhân vật của mình vào những tình

10


huống oái oăm. Truyện ngắn Anh thợ chữa khóa xoay quanh nhân vật chính là
Thiều. Anh rong ruổi hành nghề chữa khóa, đi khắp nơi để kiếm sống và thỏa
chí bay nhảy của mình. Anh sống giữa đời nhẹ nhõm nh- một cuộc dạo chơi
vô t- lự. Bên cạnh chân dung của một ng-ời tài hoa giữa đời th-ờng, Ma Văn
Kháng còn h-ớng ng-ời đọc tới hai ng-ời đàn bà trong cuộc đời anh Thiều.
Họ ở vào tình cảnh chồng chung đâu dễ ai nhường cho ai.Vậy mà họ không
có những cuộc đánh ghen tàn hại. Phải chăng vì mất mát to lớn quá nên có sức
thanh lọc tâm hồn. Cái chết của anh Thiều trở thành sợi dây gắn kết những
con người xa lạ. Họ trở thành môn đệ chung một tôn giáo có giáo chủ là ông
chồng thợ khóa đà khuất của họ [16 ;Tr 282]. Ng-ời vợ cả dÃi dầu khổ ải
nh-ng tấm lòng thảo thơm. Trong sâu thẳm con ng-ời chị là bản năng bảo tồn
cái quan hệ máu mủ ruột rà thiêng liêng, là tình yêu sâu sắc, tẩm h-ơng phụng
thờ. Chính tình yêu đà hàn gắn đau th-ơng, xóa bỏ hận thù, khiến hai ng-ời
đàn bà có thể xích lại gần nhau hơn. Nếp trong Th- từ quê ra khi biết chồng
mình đà yêu một ng-ời con gái khác thì không vội ghen tuông mà tìm cách
hiểu kỹ về ng-ời con gái ấy. Chị biết rằng Nhung đến với Đ-ơng bằng một
tình yêu chân thành. Tr-ớc tình cảm bị sẻ chia, chị không chỉ nghĩ đến nỗi xót
xa, tủi phận cho mình, mà còn nghĩ đến chồng mình nửa đời chinh chiến, đến

già mà vẫn còn cô độc. Chị lấy tình nghĩa để lý giải và giải quyết vấn đề. Bức
th- gửi từ quê ra tràn đầy n-ớc mắt và nỗi xót đau, nh-ng mang sức nặng của
lòng vị tha. Chính cách c- xử ấy khiến Đ-ơng và Nhung càng phải suy nghĩ
để điều chỉnh lại hành vi của mình. Trong Trái chín mùa thu, ông Thụy, cô
Bừng đều là những con ng-ời có số phận éo le. Ng-ời thì vợ mất, ng-ời thì
chồng hy sinh. Hai mảnh đời vụn vỡ đà ghép lại thành đôi bằng chính sự đồng
cảm, sẻ chia đầy thiêng liêng, cao th-ợng. Nh-ng tình nghĩa quá khứ vẫn ch-a
thể phôi phai, ch-a thể nằm yên trong ngăn kéo vô tình. Họ đà chia tay nhau
sau một đêm Bừng nhìn ảnh mẹ Luyến, khóc th-ơng mẹ Luyến và th-ơng
ng-ời chồng ®· hi sinh cđa m×nh.

11


Nhiều nhân vật trong truyện ngắn của Ma Văn Kháng luôn ứng xử với
đời, với ng-ời bằng cái phông văn hóa và kinh nghiệm dày dặn của mình. Qua
cách hành xử của họ, ta thấy đ-ợc họ thật sự là những ng-ời xứng tầm. Ông
Bằng trong Chuyến tuần tra cuối cùng đà vào tuổi h-u trí. Chính ở cái tuổi tri
thiên mệnh này, ông lại hay mủi lòng, tài năng dự đoán phát triển đến độ
thăng hoa nhờ linh ứng tài tình kết hợp nhuần nhuyễn với sự trải nghiệm.
Chuyến tuần tra cuối cùng nh- chính ông linh cảm, đà diễn ra không hoàn
toàn thuận lợi. Chẳng phải vì ông không bắt đ-ợc tên c-ớp xe máy, mà vì tội
phạm hiện diện tr-ớc ông là một khuôn mặt non bấy, một g-ơng mặt học trò,
một g-ơng mặt của con ng-ời nơi đầu nguồn nhân cách, một khuôn mặt ch-a
vướng bụi trần ai. Ông bủn rủn hết cả chân tay, không quay đi mà đứng nhìn
trân trân vào g-ơng mặt kẻ tội phạm thiếu niên nọ, n-ớc mắt là chà tuôn rơi và
gào lên thống thiết: Trời ơi, sao lại đến nông nổi này hả, cháu ơi. Mày làm
tao buồn quá Hóa ra kinh nghiệm của cả một đời tao gom lại chỉ là để đối
phó với mày -, cháu ơi [27 ; tr 215]. Cách ứng xử của ông Bằng không giống
với cách ứng xử thông th-ờng giữa ng-ời thi hành nhiệm vụ và tên tội phạm,

không mang vẻ lạnh lùng, nguyên tắc mà thấm đẫm tinh thần nhân bản. Ông
sững sờ, đau xót tr-ớc một tên tội phạm là thiếu niên. Ông run rẩy, gào thét
tr-ớc vẻ non tơ, không dục niệm, tà vạy, ch-a hoen ám những ý t-ởng xấu xa
của nó. Phải chăng, vẻ đẹp của tình ng-ời, tính ng-ời nh- là căn cốt của cuộc
sống bình dị, hồn nhiên đà chi phối cách hành xử của ông Bằng. Cũng chính
vì thế mà thiên truyện không có cái căng thẳng của một cuộc tuần tra, nó đ-ợc
cân bằng, được chùng hóa nhờ những linh cảm, trực giác, tài năng và sự trải
nghiệm trong nghề nghiệp của ông Bằng.
Cái đẹp không chỉ đ-ợc thể hiện trong cách hành xử giữa ng-ời với
ng-ời, mà còn thể hiện trong mối quan hệ giữa con ng-ời với thiên nhiên. Bát
ngát trời xanh là truyện ngắn gửi gắm nhiều thông điệp của tác giả. Con chim
cu gáy do Thọ bạn văn ch-ơng vọng niên tặng ông Khang mỗi lần cất tiếng
là mỗi lần nó gợi nhớ tình quê, nó đưa ta về đồng ruộng, xóm thôn, mùa

12


màng, nó khiến ta r-ng r-ng một nỗi luyến nhớ xa xôi [27 ; tr 8]. Nh-ng
những âm thanh nuột nà vàng ngọc ấy thực chất chỉ là kết quả của một cuộc
đọa đầy, hành xác của con ng-ời, chỉ đơn thuần là tiếng lộng thổn thức của
một kẻ bị giam hÃm tù đày, bị cách ly đồng loại [27 ; tr 16]. Bị nhốt trong cái
lồng chật hẹp, tối tăm, hoàn cảnh sống bí bức, khổ sở khiến con chim phẫn mà
phát. Tiếng hót thể hiện nỗi nhớ trời xanh tự do, nhớ bầy, nhớ bạn, nhớ ruộng
đồng. Một tiếng chim mà thăm thẳm nỗi đau. Cuối cùng, thằng cháu ông
Khang mặc dù rất yêu quý con chim, đà thả nó về với bát ngát trời xanh. Hành
động ấy thể hiện vẻ đẹp của một con ng-ời còn ch-a vong thân xa cách cội
nguồn. Đó là sự hòa hợp với tự nhiên, thuận theo tự nhiên mà sống. Cách ứng
xử của đứa trẻ nhận được sự đồng tình của «ng nã. Bëi “nã ®· hiĨu, ®· ngé ra
mét ®iỊu hệ trọng bằng trực cảm hồn nhiên của tuổi thiếu niên vô t-. Nó
không cầm lòng đ-ợc khi thấy con chim gáy phải sống trong tình cảnh ngục

tù. Sự sung s-ớng, vui vẻ của ta rất không nên có trên nỗi đau tủi của kẻ khác
[27 ; tr 16].
Trong quan niệm của Ma Văn Kháng, cái đẹp tr-ớc hết là cái thiện, tính
thiện là cội nguồn của mọi cái đẹp. Quan niệm này hoàn toàn khác biệt với
Nguyễn Tuân. Trong Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân say s-a ca ngợi một
tên đao phủ, bởi hắn có một lối chém treo ngành rất ngọt. Ông nhìn con ng-ời
thuần túy từ ph-ơng diện thẩm mĩ chứ không soi chiếu từ góc nhìn đạo đức.
Cái đẹp trong ngòi bút Nguyễn Tuân nhiều khi lại chính là những ác hoa.
Ma Văn Kháng đi tìm cái đẹp ở những con ng-ời đời th-ờng, trong đời sống
bình dị, hồn nhiên, soi chiếu con ng-ời từ góc nhìn truyền thống. Trong không
gian núi rừng, Pao (San Cha Chải) sống nặng tình, nặng nghĩa, thật thà, chất
phác, nhân hậu. Cái đẹp trong một tâm hồn thiện ấy đang chuyển động, tự
khôn lớn dần để trở nên có ích. Năm năm trời kiên trì, bền bỉ với trách nhiệm,
Pao qua tuổi hai m-ơi từ lúc nào, nh-ng anh đà thực sự lớn khôn, thực sự có
ích cho đời. Quan niệm cái thiện là cái đẹp đặc biệt đ-ợc Ma Văn Kháng thể
hiện trong truyện Giàng Tả, kẻ lang thang, Giàng Tả đẹp, cái đẹp sức vóc,

13


khỏe mạnh và luôn làm việc thiện. Tính thiện vốn có trong con ng-ời đẹp về
thể xác đó. Đ-ợc đặt trong mối quan hệ với Liphigơ, tên biệt kích, tên xà đội
tr-ởng, tính thiện trong con ng-ời Giàng Tả càng trở nên nổi bật. Nhân vật
Giàng Tả là sự đối thoại của nhà văn về vấn đề tốt xấu. Giàng Tả tốt hồn
nhiên nh- bản năng hoang sơ mông muội của anh. Anh giúp kẻ địch mà
không biết là mình đang tiếp tay cho kẻ thù, sống ngây thơ hồn nhiên đến ngu
muội. Chính lòng tốt một cách hồn nhiên đà làm hại Giàng Tả.
Nh- vậy, bằng cái nhìn tri ân đối với con ng-ời, Ma Văn Kháng đà phát
hiện ra cái đẹp trong chính những con ng-ời bình th-ờng nơi cuộc đời trần
tục. Không phải anh hùng, vĩ nhân mới có cách hành xử đậm nét văn hóa,

không phải những con ng-ời to tát mới mang tâm hồn thiện. Cái đẹp, cái thiện
tiềm ẩn trong những con ng-ời bình dị. Trong một lần trả lời phỏng vấn, Ma
Văn Kháng đà từng tâm sự: Thôi thúc tôi viết là cái đẹp của cuộc sống [34].
Phải vậy chăng mà hầu hết các nhân vật trong truyện ngắn của ông đều là hiện
thân cho cái đẹp, sống và hành xử theo tiếng gọi của chân, thiện, mỹ. Văn
ch-ơng Ma Văn Kháng mang vẻ đẹp muôn đời nh- quan điểm của
Tsecn-sepxki : Cái đẹp là cuộc sống, một sinh thể đẹp là qua chúng ta nhìn
thấy cuộc sống hoặc làm cho chúng ta nghÜ ®Õn cuéc sèng” [8 ; tr 48 ].
1.2.1.2. Cái xấu và cái ác.
Không chỉ say s-a ca ngợi vẻ đẹp, tính thiện của con ng-ời, Ma Văn
Kháng, với cái nhìn thấu triệt còn phát hiện ra cái xấu, cái ác tồn tại ngay
trong cõi đời này. Ông xót xa, nhức nhối tr-ớc một nhân thế đang phai lạt
nhân tình, thói ghen ghét, đố kị, phản trắc, vong ân, bội tình lên ngôi, chiếm
chỗ, tạo thành một cặp bài trùng với cái đẹp, cái thiện. Bà Nhàn (Trung du
chiều m-a buồn) xuất thân lao động, thất học, sống l-u lạc, may nhờ chút
nhan sắc mà đ-ợc vinh thân phì gia. Giờ đà lên tới chức tr-ởng phòng nh-ng
cách ăn nói, ứng xử của bà vẫn không sao che nổi quá khứ xuất thân hèn kém.
Điều quan trọng hơn là sự đối xử tệ bạc, dửng d-ng, lạnh lùng của bà Nhàn
đối với vợ chồng ng-ời em khiến ng-ời ngoài cuộc cũng phải rùng mình ai

14


có thể sắt đá vô tình tr-ớc sự van nài, năn nỉ nghĩa tình sâu nặng nh- thế! Ai
có thể sau những lời chân thực đẫm n-ớc mắt lại đáp lại bằng giọng điệu kẻ
cả, hợm hĩnh, lố lăng liên tơc nh- thÕ” [16 ; tr 92). C¸i chÕt cđa em gái cũng
không đủ sức đánh động tâm linh bà. Tình máu mủ ruột thịt bị chối bỏ phũ
phàng tàn nhẫn. Trong khi đó, ông trời cũng còn nh- biết khóc, đổ m-a rả
rích, sụt sùi, tỉ tê. M-a phụ họa cùng ng-ời chết trong nỗi buồn thê thiết.
Sự suy thoái của tình ng-ời, sự xuống dốc của đạo đức, l-ơng tâm còn

đ-ợc tác giả thể hiện trong truyện ngắn Suối mơ. Nhàn là ng-ời đàn bà xấu cả
ng-ời cả nết. Gốc gác nông thôn nh-ng đua đòi tơ tuốt. Mụ đ-ợc chồng hết
sức cưng chiều, yêu thương. Nhưng đúng là công anh bắt tép nuôi cò. Cò ăn
cò lớn cò rò lên cây. Mụ đền đáp lại công ơn Êy b»ng c¸ch quay ra rØa rãi,
khinh bØ, coi th-êng anh là đồ quê kệch. Rồi mụ đi ngoại tình, để mặc chồng
ốm đau sắp chết. Đó còn là Sấn (Nhiên, nghệ sĩ múa). Mụ bị tạo hóa chơi
khăm cho cái hình hài tiên thiên bất túc, xấu xí lùn tẹt. Mụ ghen ghét những ai
hơn mình. Mụ lên quai xanh vành chảo bới bọn đàn bà con gái xa xẩn đến
phòng th-ờng trực gặp ông Diệc. Mụ cay nghiệt, bĩu mỏ với Nhiên, nghiến
răng tuyên bố: Đừng trêu mẹ m-ớp mà xơ có ngày. Hóa ra, cái xấu, cái ác
có thể nảy sinh trong mỗi con ng-ời một cách vô thức từ nhu cầu thiết yếu.
Chính Ma Văn Kháng đà từng lý giải thế này: Cũng như sự hèn nhát, lòng
hảo tâm, tình yêu mến, nỗi đau đời, niềm căm giận, thói đố kỵ ghen ghét, tính
ích kỷ thâm căn, khả năng không thể yêu th-ơng kẻ khác ngoài mình đều có
cái mầm nguyên thủy, đều là nghiệp căn trong tăm tối, bền dai nh- sự sống, vì
chính chúng đảm bảo cho sự sống an toàn của mỗi cá thể con người [26 ; tr
276]. Chiên, Sự (Thầy Khiển) xuất thân là những kẻ chèo đò, bán cháo lòng,
thế mà giờ đây hai anh em đều leo lên đ-ợc nấc thang địa vị cao vót trong xÃ
hội. Ng-ời làm chủ tịch, kẻ làm tr-ởng ty giáo dục. Bình mới nh-ng r-ợu cũ.
Những con ng-ời mang t-ớng mạo xấu xí, bần hàn ấy dù có đội lốt hào
nhoáng thế nào vẫn hiện nguyên hình tính cách đê tiện, lừa lọc, ghen ghét, đố
kỵ, hống hách, thích gây sự, hiếu chiến, tìm mọi cách vùi dập, hÃm hại ng-ời

15


khác. Cũng vậy, Chiến, thầy Ngọc Kim (Ng-ời đánh trống tr-ờng) cũng đều
là những con ng-ời nhỏ nhen, ti tiện, thấy thầy Huân hơn mình và tỏ ra bất
tuân phục thì nổ đom đóm mắt, tìm mọi cách hÃm hại, vùi dập, khiến thầy
Huân từ ng-ời say s-a với bục giảng, tận tâm với học trò giờ thành ng-ời mất

dạy, thành ng-ời đánh trống tr-ờng, cuối cùng tìm tới cái chết bi th-ơng:
Thầy tự treo cổ trên một cành si cạnh cái giếng nước ngôi đền thờ vị thánh
dâm đÃng, thiêng liêng [20 ; tr 134]. Cái xấu, cái ác xuất hiện nhan nhản
trong những trang truyện của Ma Văn Kháng. Đó là Kiến (Chọn chồng), tên
mèo mả gà đồng, ph-ờng buôn lậu, ma cô, quái kiệt về lừa bịp và tình dục, đÃ
hủy hoại cuộc đời ng-ời con gái vốn xuất thân trong gia đình có nề nếp. Đó
còn là thằng Nhớn, không làm mà muốn có ăn, bám váy mấy ả cave để h-ởng
nhàn. Bản chất tôi đòi ăn sâu vào căn cốt con ng-ời hắn, thanh niên trai tráng
mà cam phận sống tầm gửi vào mấy ả cave, nói năng thô lô, c- xử vô văn hóa
với người mẹ còng lưng làm lụng nuôi gia đình
Tuy nhiên, có những cái xấu ch-a hẳn là ác, ng-ợc lại có những cái ác
không đ-ợc xem là xấu nếu ta nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện. Trong
một số truyện ngắn nh- Vệ sỹ Quan Châu ; Cố Vinh, ng-ời xứ lạ Ma Văn
Kháng đà tập trung thể hiện cái ác nh- một bản năng hoang sơ, mông muội
của con ng-êi. Sïng Sư (Cè Vinh, ng-êi xø l¹) sèng thuần túy bằng bản năng
tàn bạo của núi rừng. Mọi hành động của hắn đều theo bản năng mà không hỊ
cã sù can thiƯp cđa lý trÝ. Cè Vinh chØ đơn thuần cho rằng Sùng Sử là một thể
nghiệm về cái bản năng bất di bất dịch mà không giáo lý nào có thể cải hóa
đ-ợc của ng-ời Mông. Ông không nhận thấy hiểm họa ẩn đắng sau bản năng
hoang sơ ấy. Cuối cùng, hại chúa chính là Juđa thân cận. Tên vệ sĩ nổi cơn
ghen, theo bản năng bất tư cè h÷u cđa y, giÕt chÕt Cè Vinh chØ vì ông động
vào con cái của hắn. ác một cách bản năng còn phải kể tới Khun (Vệ sĩ
Quan Châu) Khun chính là đại diện cho bản năng hoang sơ, mông muội nhất
của núi rừng. Bản năng chi phối đến cả hình hài của Khun khiến mỗi khi nhìn
hắn, ng-ời ta băn khoăn không hiểu là quỹ sứ hiện hình vµo Khun hay chÝnh

16


Khun là quỷ sứ cỡ siêu đẳng. Hắn bạo liệt, tàn nhẫn, u mê, không ý thức đ-ợc

hành động của mình. Khi đ-ợc hỏi tại sao lại thích giết ng-ời, lại trung thành
với lÃo Quan Châu, thì hắn lờ mờ nhớ rằng chỉ vì một bữa tiệc m-ời một món
mà hắn đ-ợc cho ăn khi đang đói. Khi còn là một đứa trẻ, Khun đà tàn bạo.
Nh-ng khi rơi vào tay của Quan Châu, bản năng tàn ác ấy đ-ợc nhân lên gấp
bội. Khun là sự hồi tổ, là sự lộn giống, là cái bản tính tàn bạo của đời sống
rừng rú, là cái hoang sơ của buổi khai thiên [26 ; tr 34). Nh÷ng con ng-êi
nh- Khun, Sïng Sư vừa đáng th-ơng vừa đáng giận. Th-ơng cho sự hoang sơ
mông muội và giận thay cho sự tàn bạo, man rợ. Ma Văn Kháng tỏ ra xót xa,
nhức nhối tr-ớc sự thực cái ác nh- ăn vào máu thịt của những con ng-ời sống
phần nhiều dựa vào cảm tính tự nhiên này.
1.2.1.3. Cái cao cả và cái tầm th-ờng.
Đi tìm cảm hứng ở cuộc sống đời th-ờng, gắn với những con ng-ời bình
dị, Ma Văn Kháng không chỉ phát hiện ra cái đẹp, cái thiện hay cái xấu, cái ác
trong văn hóa ứng xử của họ mà còn nhận thấy những cái bé nhỏ, vặt vÃnh, gai
góc, tầm th-ờng diễn ra ngày ngày trong không gian nhỏ bé, riêng t- là gia
đình. Chỗ này là cuộc xô xát giữa mẹ chồng và nàng dâu (Bồ nông ở biển,
Phép lạ th-ờng ngày), chỗ kia là sự xích mích giữa chị dâu và em chồng (Heo
may gió lộng), nơi nọ là những rạn vỡ khó có thể hàn gắn giữa chị em gái (Chị
em gái). Những ngày được nạm vàng của gia đình Đoan cũng nh- của chị
Thảo (Heo may gió lộng) đà qua đi cùng với hình ảnh ngọn gió heo may lồng
lộng và khoảng trời cuối thu tràn trề làn sáng phản quang niềm vui mùa màng.
Mùa heo may năm nay, đến hẹn lại lên, chị Thảo tay xách nách mang đồ quê
kiểng lên thành phố thăm gia đình ng-ời em ruột. Sau hai năm không gặp,
hiện diện tr-ớc Đoan bây giờ không còn là ng-ời chị gái t-ơi đẹp, óng ả năm
x-a mà là một bà lÃo quê mùa còm cõi, mệt mỏi và bất an, chứng tỏ một đời
sống lao lực quá mức và triền miên trong cắn rứt, dày vò. Vợ Đoan một ng-ời
cần kiệm, tính toán đến thành chắt bóp, hà tiện đà tỏ ra sốt ruột tr-ớc cuộc
viếng thăm ảnh h-ởng tới kinh tế gia đình. Cái vỏ lễ nghĩa trong giao tiếp

17



bong lở dần. Mỗi ngày, thị ứng xử với chị chồng thêm quá quắt, không đá
thúng đụng nia, móc máy xa gần thì cũng lầm lì một khối nặng trịch. Thị chì
chiết cay nghiệt, cạn tàu ráo máng, mất tình, mất nghĩa, phũ phàng tàn tệ đến
mức ng-ời chị chồng phải nuốt lệ ra đi. Hóa ra, cuộc sống vẫn tồn tại một thực
trạng là ruột thịt mà thích biệt lập, không muốn có quan hệ với nhau. Trong
Phép lạ th-ờng ngày mâu thuẫn lại diễn ra giữa mẹ chồng và nàng dâu. Bà
Đồng nh- tất cả những bà mẹ Việt Nam khác, vốn dạt dào tình th-ơng con
cháu và đức vị tha. Trong quan niệm của bà, nhất con, nhì cháu, thứ sáu ng-ời
d-ng. Nhặt che m-a, th-a che nắng, mọi việc bà đều chu toàn sau tr-ớc. ấy
vậy mà bà vẫn không đ-ợc lòng ng-ời con dâu tên Đào. Cơ thể Đào vào lúc
suy kiệt, giống nh- cái chuồng ọp ẹp không nhốt nổi cơn đau buồn, tức giận.
Sự rối rắm lúc nào cũng ăm ắp trong con ng-ời Đào. Than thân trách phận, so
bì, tị nạnh, đá thúng đụng nia, giận cá chém thớt tất cả đều đổ lên đầu bà
mẹ chồng và ng-ời chồng tội nghiệp của Đào. Cuộc sống th-ờng ngày không
còn phép lạ. Không gian gia đình nhỏ bé mà trở nên ngột ngạt. Đúng là nàng
dâu bắt chấy cho mẹ chồng bằng trong thÊy bå n«ng ë biĨn (Bå n«ng ë biĨn).
Trong trun ngắn Bồ nông ở biển giữa mẹ chồng và nàng dâu d-ờng nhđang tồn tại một trạng thái tâm thần. Những cuộc xô xát nảy lửa biến không
gian gia đình thành bÃi chiến tr-ờng, vùng sa mạc, chốn địa ngục, bà tha ma.
Lẽ nào tình nghĩa chỉ đ-ợc bảo l-u và nuôi d-ỡng trong môi tr-ờng nghèo
khổ? Già sinh tật, đất sinh cỏ. Mâu thuẫn tích tụ bắt đầu từ những cái bé nhỏ,
vặt vÃnh, tầm th-ờng. Ng-ợc lại, chị em gái nh- trái cau non, chị em gái, cái
nhân sâm. Thế mà cái liên minh tự nhiên ấy lại đà bị phá vỡ chỉ vì một thằng
ăn rong, ở lạc, ma cô thủ lợi, vờ vĩnh đóng vai nghĩa hiệp (Chị em gái). Cùng
là chị em, nh-ng ái đầm ấm, tròn trịa, nồng thắm. Còn Th-ơng đà sang tuổi
băm, mang cái đẹp sắc lạnh, khó gần. Hai chị em cùng đến với Hoàn, một tên
tợn tạo, đàng điếm. Mâu thuẫn đà xảy ra khi ái phát hiện ra chị mình đà lén lút
quan hệ với ng-ời yêu của mình. ¸i ®· x¸ch va li ra ®i, chÊm døt mèi liên minh
tự nhiên t-ởng nh- không bao giờ có thể đoản mạch ấy.


18


Bên cạnh cái bé nhỏ, vặt vÃnh, gai góc, tầm th-ờng, Ma Văn Kháng còn
phát hiện ra sự ấm áp, bình dị, cao cả của con ng-ời từ góc nhìn văn hóa ứng
xử. Tr-ớc sự ra đi vĩnh viễn của chồng mình, ng-ời vợ trong Giải nguyền đÃ
nhìn nhận lại, bao dung hơn về dì Th-ơng - ng-ời đàn bà vô tình đà lạc vào
cuộc đời ng-ời đà mất và phá tan hạnh phúc gia đình họ. Từ chỗ đối đầu, giờ
đà có thể đối thoại, từ chỗ thề độc sẽ băm vằm mổ xẻ ng-ời đàn bà h- hỏng,
giờ đà b-ớc qua lời nguyền. Phải chăng mọi lý sự đều trở nên vô nghĩa thảm
hại trước tình thương yêu. Tình cảnh bỗng dưng đà kéo hai người phụ nữ vào
chung một thân phận. Cả hai đều cảm thấy mình quá - nhỏ bé, khốn khổ,
trước cái khoảng hư vô mất mát [18 ; tr 250]. Vợ ng-ời quá cố đà sai con đi
cùng dì Th-ơng về quê dì xem hoàn cảnh thế nào, tính đến chuyện mời dì lên
ở cùng với gia đình cho đỡ buồn. Cách c- xử hợp tình hợp lý ấy khiến ng-ời ta
cảm thấy ấm lòng, và cũng công tâm, công bằng hơn với dì Th-ơng. Hay
trong Heo may gió lộng, đối lập với ng-ời mẹ luôn chì chiết, cay nghiệt bác
mình, Thúy lại luôn vỗ về, săn sóc. Thúy giữ vai trò cân bằng, san phẳng.
Không một lời phàn nàn, không một cử chỉ sơ suất, cần mẫn và tràn đầy tinh
thần trách nhiệm. Thúy đóng trọn vẹn vai cô hộ lý, ng-ời cấp d-ỡng, ng-ời
cháu gái tận tình với bác gái. Tr-ớc mọi điều chì chiết của mẹ, nó chỉ đọc một
câu bác bỏ rất ngây thơ, vững tin và không sao bắt bẻ đ-ợc: đâu mà. Chính sự
hồn nhiên và tình cảm chân thành của con ng-ời nơi đầu nguồn nhân cách đÃ
phần nào s-ởi ấm tâm hồn cô đơn, đau khổ của ng-ời bác gái. V-ợt lên trên
những thói đời phàm tục, những hơn thua, ngộ nhận, thị phi, một số nhân vật
trong truyện ngắn Ma Văn Kháng đà biết sống đẹp và thật sự cao cả trong ứng
xử của mình. Đó là ng-ời thợ cắt tóc làng, là nữ họa sĩ vẽ chân dung, là ng-ời
làm câu đối ở tỉnh nhỏ, là anh thợ chữa khóa những con người bình dị trong
cuộc sống đời th-ờng. Ông Sung (Thợ cắt tóc làng) từng có nhiều cống hiến

cho cách mạng, nh-ng cuối cùng cũng chỉ quay về hành nghề cắt tóc cái
nghề làm đẹp cho một góc của con ng-ời. Ông là con tốt hỉn, là kẻ vô danh.
Nh-ng đằm sâu trong ông là một nhân cách cao đẹp, là sự cao th-ỵng trong

19


øng xư cđa bËc chÝnh nh©n qu©n tư. Tr-íc sù cao giọng của một gà trai đến
cắt tóc mà thực chất là muốn tìm hiểu ngóc ngách đời ông, ông vẫn bình tĩnh
đối đáp: Con người phải ngay ngắn chỉnh tề, kể từ cái đầu tóc, gương mặt,
trang phục đến tâm hồn bên trong. Những nỗi buồn riêng t- phải biết nín nhịn
để sống cho ra con ng-ời. Ta không nên cá đối bằng đầu với cái xấu xa, tồi tệ,
rủi ro. Ta chống lại những cái nham nhở bằng chính sự chính trực, đ-ờng
hoàng, tử tế [27 ; tr 231]. Hay như Huê trong Nữ họa sĩ vẽ chân dung. Cô
không -a thái độ của Peter khi anh chàng này vừa đến thuê cô vẽ chân dung
lại đà nói tới chuyện thịt con chó của chủ nhân khi nó cùng chủ nhân ra đón
mình. Sự im lặng, lạnh lùng của cô tr-ớc thói tự tin thái quá, vênh vao cao
giọng của Peter chính là sự tích điện cho một lần bùng nổ mang tính đối thoại,
tranh biện văn hóa ở cuối tác phẩm: Anh biết mà chưa ngộ. Anh khoe mẹ anh
khuyên anh xin lỗi con kít nhà anh khi ca ngợi món thịt chó. Nghĩa là để biểu
lộ sự tôn trọng con kít. Còn ng-ời Việt chúng tôi, khi phải giết mổ một con
chó hay một con gà, đều nói: gà ơi, chó ơi, tao hóa kiếp cho mày. Kiếp sau
đ-ợc làm ng-ời chứ không phải làm gà, làm chó nữa nhé [27 ; tr 22].
Tóm lại, khơi nguồn cảm hứng từ cuộc sống đời th-ờng, Ma Văn
Kháng đà phát hiện ra những giá trị ng-ời từ góc độ văn hóa ứng xử. Con
ng-ời có cả xấu lẫn tốt, thiện lẫn ác, cao cả lẫn tầm th-ờng. Nh-ng âm điệu
chủ đạo trong mỗi trang văn của ông vẫn là sự ngợi ca cái đẹp, cái thiện, cái
cao cả. Cuộc sống đ-ợc tẩm thêm h-ơng hoa chính nhờ những giá trị ấy.
1.2.2. Con ng-ời từ góc nhìn văn hóa tính dục.
Rất nhiều truyện ngắn của Ma Văn Kháng đề cập tới vấn đề tính dục

của con ng-ời. Đây là một sự dũng cảm của chính ng-ời cầm bút. Bởi vì lâu
nay, đề tài này được coi là ngoài vùng phủ sóng, là miền đất chết của văn
học. Ma Văn Kháng không những dám đề cập mà còn đề cập một cách có hệ
thống, bằng cảm hứng trào lộng nghiêm trang tr-ớc vẻ đẹp của cuộc đời sinh
hóa hồn nhiên. Có thể nói ở ta, Ma Văn Kháng là nhà văn đầu tiên viết đ-ợc
những truyện ngắn khoái hoạt và hả hê nhất về lòng ái dục của con người [37

20


; tr 20). Nhà văn nhìn nhận dục vọng nh- mét thc tÝnh cè h÷u cđa con
ng-êi. Nã cã thĨ nàng đỡ con ng-ời lên tầm cao hay hạ thấp con ng-ời, hủy
diệt sự sống. Cách nhìn nhận và tiếp cận nh- vậy là khá mới mẻ và cởi mở,
phản ánh sự tự do, dân chủ của thời đại và độ tinh nhạy của ngòi bút nhà văn.
1.2.2.1. Những ng-ời đàn ông và khả năng tính dục.
Bàn tới vấn đề tÝnh dơc, tõ x-a ®Õn nay, sù chđ ®éng bao giờ cũng thuộc
về những ng-ời đàn ông. Ma Văn Kháng tập trung thể hiện sự sung sức và
c-ờng tráng của họ trong lĩnh vực này. Hơn ai hết, nhà văn là ng-ời nhạy cảm
với nhu cầu tự nhiên, tất yếu ấy của một nửa thế giới. Tuy vậy, ông không
miêu tả mặt sinh vật của nó mà coi đó là vấn đề cần đ-ợc cộng đồng chấp
nhận, nó là một phần của cuộc sống con ng-ời. Anh Thiều (Anh thợ chữa
khóa) rời quê lên thành thị kiếm sống để thỏa chí tự do, bay nhảy. Và anh thợ
chữa khóa tài hoa ấy đà dang tay mở khóa động đào. Vạch mây cho tỏ lối
vào thiên thai. Anh sống với Thoa, một người phụ nữ lỡ thì cô đơn. Nếu xét
từ quan điểm đạo đức thì đó là điều không thể chấp nhận đ-ợc, vì anh đà có vợ
con ở quê nhà. Nh-ng nếu xét từ lý lẽ trái tim, đó lại là điều rất đáng cảm
thông. Chính tác giả đà minh oan, chiêu tuyết cho anh như thế này: Thôi thì
các nhà đạo đức hÃy đại xá cho anh. Anh cũng nh- tôi, nh- mọi đấng bậc từ
x-a đến nay ®Ịu hay mđi lßng, ®Ịu thÝch sù chiỊu chng, vt ve, gần gũi
đều khoái những khoảng đời ngoài vòng luân lý [16 ; tr 274]. Ông Thực

trong Dao sắc nhờ cán yêu một học sinh từ khi cô còn học lớp 10. Người
phụ nữ ấy đến ở với ông ít lâu, gặp trắc trở chị lại bỏ ông đi. Nh-ng ông vẫn
yêu chị. Với ông, đà là tình yêu thì không thể có bất hạnh. Tình yêu của đàn
ông với đàn bà một khi là thật sự thì chính là dao có cán, cũng nh- là núi có
tiên, n-ớc có giao long, cuộc sống có linh hồn căn cốt [16 ; tr 625]. ChÝnh
ng-êi phơ n÷ cã phong t- léng lẫy, đài đệ khác th-ờng và thuần thục đ-ờng
phong tình ấy khiến ông thực nh- già thêm h-ng phấn, dồi dào thêm năng
l-ợng, sắc bén mạnh mẽ nh- l-ỡi dao có đ-ợc chỗ tựa là cán dao. ở ông luôn
cháy bùng ngọn lửa của lòng ham mê sáng tạo và niềm ái dục vô bờ, cái này

21


kích thích cái kia để cùng bốc cao ngùn ngụt Thân xác ông là mảnh ruộng
cằn khô, kiệt lực, đà gặp ng-ời đàn bà là trận m-a xuân t-ơi nhuần. Dòng ái
lực của ông khi đ-ợc chị khơi nguồn, dẫn dụ bỗng dạt dào tuôn chảy nh- suối
nguồn thời trai trẻ [16 ; tr 622]. Vì tính dục là một phần của đời sống con
ng-ời, nên dù cố c-ỡng lại nhu cầu tự nhiên, kìm chế tiếng nói bản năng để
phục vụ cho một lý t-ởng những mong cảm hóa đ-ợc cả một cộng đồng mông
muội, cuối cùng Cố Vinh (Cố Vinh, ng-ời xứ lạ) cũng hoàn toàn bất lực. Cha
không những không khai hóa được mà còn bị chính những kẻ mông muội ấy
giác ngộ. Cuối cùng, cha đành đầu hàng tr-ớc tiếng nói của bản năng vì nhận
ra thế giới bản năng đầy hấp dẫn. Vậy là trốn trời không khỏi nắng, con
ng-ời khó lòng mà c-ỡng lại ham muốn của chính mình: Tuy vậy, dù tràn đầy
sinh lực, dù không nguôi khát vọng, con ng-ời vẫn không thoát khỏi móng
vuốt thời gian. Sề Sào Lỉn (Móng vuốt thêi gian) cã tíi chÝn ng-êi vỵ nh-ng
d-êng nh- vÉn không chịu đóng khung cuộc giao l-u tình dục ở con số 9. Y
biết tìm khoái thú ở ngay thân thể mình và h-ớng về sự vui thú nơi trần gian.
Đời y là một cuộc chơi phàm tục, một cuộc chơi sinh thú, đầy ham mê. Nh-ng
y luôn ám ảnh mình bị chết, càng ám ảnh càng khát vọng chế ngự đ-ợc thời

gian để có thể h-ởng thụ nhiều hơn nữa. Cũng vì khát vọng ấy mà y chết sớm
hơn so với tử vi.
Trong quan niệm của Ma Văn Kháng, tính dục còn biểu hiện thái độ
văn hóa của con ng-ời xà hội. Ông quan tâm nhiều hơn tới thái độ văn hóa của
con ng-ời thông qua đời sống tình dục. Cùng một lòng ái dục, đắm dục,
nh-ng cuộc tình của những ng-ời nh- anh Thiều (Anh thợ chữa khóa), ông
Chính bà Hoài (Anh cả tôi, ng-ời sung s-ớng) thì tràn đầy h-ơng hoa văn
hóa. Còn có những kẻ nh- Hoàn ( chị em gái), Lực (Nợ đời), Khoản (Một mối
tình si), Lộc (Cái b-ớm tung tăng) thì lại tỏ ra thô lậu, tục tĩu, thậm chí bợm
bÃi, trụy lạc. Tình dục đi đến tận cùng lại tẩm h-ơng hoa, phô lộ đến điều cái
phong hoa tuyết nguyệt của nó. Ng-ợc lại, những kẻ đến với cái đẹp không
phải vì tình yêu mà vì một chữ dâm, vì sự chiếm đoạt thì chỉ hiện ra vẻ

22


nhếch nhác, bẩn thỉu. Đám con đực tầm th-ờng ấy xuất hiện không ít trong
truyện ngắn Ma Văn Kháng. Đó là Lộc (Cái b-ớm tung tăng), tửu sắc t-ơng
liên, r-ợu vào là đòi đè vợ ra ngấu nghiến, thua số đề cũng đòi đè vợ ra để giải
đen, bất chấp cả ban ngày ban mặt. Y th-ờng xuyên nổi cơn hứng dục. Không
thỏa dục là bất chấp, gây sự th-ợng cẳng chân hạ cẳng tay, khiến cuộc đời
ng-ời đàn bà nh- B-ớm trở nên khốn đốn vô cùng. Đó còn là lÃo Lực (Nợ
đời), cả đời lụn bại vì chuyện đàn bà. Con kiến mà leo cành đào leo phải
cành cụt leo vào leo ra. LÃo tự xây đài vinh quang rồi lại tự hủy hoại, bảy
m-ơi tuổi còn ám ảnh không nguôi chuyện chăn gối ái tình. Loại đàn ông hiếu
dục, bợm bÃi, tợn tạo ấy ta còn gặp ở những kẻ nh- Hoàn (Chị em gái). Hắn là
ma cô thủ lợi. Gặp đ-ợc hai chị em Th-ơng và ái, trí tò mò, tính hiếu thắng
của gà trai tỉnh lẻ lập tức bốc dậy, do có thêm sự phù trợ đắc lực của tính ma
ranh, phần du côn sẵn có trong y. Hắn tán tỉnh cô em, hắn thèm thuồng cô chị,
dẫn tới sự bất hòa giữa hai chị em. Hay gà nhân viên thuế vụ trong Suối mơ

với khuôn mặt đẹp trai lơ, đàng điếm vừa hầm hập nỗi khát thèm nhục thể.
Tiếng đàn măngđôlin của hắn gai gai gởn gởn một tâm tình cô độc, thèm
muốn thở than và quấy quả. Vốn nòi hiếu dục, lại sống độc thân nơi hẻm rừng,
hắn và Nhần đà công khai tằng tịu với nhau mà không cần quan tâm với lời
đàm tiếu của mọi ng-ời. Ngoài ra, xung quanh những ng-ời đẹp Seoly (Seoly,
kẻ khuấy động tình tr-ờng), Nhiên (Nhiên, nghệ sĩ múa) là một loạt những
tên đàn ông đa dục, coi đàn bà chỉ là thú tiêu khiển nơi trần gian. Hàng ngày,
Nhiên vẫn thường nhận được những lá thư gợi tình sống sượng hoặc khuôn
sáo một cách ngô nghê, hoặc mùi mẫn cải l-ơng rẻ tiền, với những câu viết
ch-a thành những con chữ vẹo vọ. Chúng không biểu hiện tình yêu, chúng
thuần là cơn si tình, là thói hứng dục của cánh đàn ông [16 ; tr 353]. Còn
Seoly (Seoly, kẻ khuấy động tình tr-ờng) lại là sản phẩm chín nục của yêu
đ-ơng mê mệt, của đàn ông háo sắc và các cơn đắm dục chứa chan. Bộ mặt
đạo đức giả của những tay cán bộ cấp xÃ, huyện, tỉnh bị lột phăng khi đứng
tr-ớc Seoly. Những ng-ời đàn bà đẹp nh- Uyển, Seoly, Nhiên đà dùng lỵi thÕ
23


của mình, từ bị động biến thành chủ động, trở thành những ng-ời chứng kiến
và đánh giá thái độ văn hóa của con ng-ời trong đời sống tình dục, vạch trần
những bộ mặt tham lam, giả dối, ngu dốt, háo dục.
Nh- vậy, bằng cái nhìn cởi mở, Ma Văn Kháng đà phát hiện ra tính dục
là nhu cầu tất yếu của con ng-ời, đặc biệt là với giới đàn ông. Song không thể
vịn vào đó mà ngụy biện cho những kẻ bợm bÃi, trụy lạc. Ông luôn chìa cái
nhìn giễu cợt, vào đám con đực tầm th-ờng này; vạch trần những bộ mặt giả
dối, ngu dốt và h-ớng con ng-ời tới những điều tốt đẹp hơn.
1.2.2.2. Những ng-ời phụ nữ và bản năng tính dục.
Một lực l-ợng khá đông đảo trong truyện ngắn của Ma Văn Kháng là
những ng-ời phụ nữ. Trong số họ, nhiều ng-ời lại mang vẻ đẹp phồn thực, tràn
trề sức sống cả về thể xác lẫn tâm hồn. Bản năng tính dục quá mạnh mẽ, thúc

đẩy hành động và chi phối tính cách của họ. Họ đòi hỏi và hành động để thực
hiện nhu cầu thiết yếu của mình là làm mẹ, làm vợ. Họ là gái có con, dù có
thể không chồng. Bởi họ không cam chịu số phận lỡ làng, tuổi trẻ đà để lại nơi
chiến tr-ờng, quay trở về với cuộc sống đời th-ờng, họ phải đ-ợc đền bù xứng
đáng. Họ còn là những ng-ời nh- Dự (Đất màu), Oanh (Một mối tình si) bị
hoàn cảnh xô đẩy dẫn tới vi phạm chuẩn mực đạo đức của xà hội Nhưng dù
thế nào, khi viết về họ, Ma Văn Kháng cũng tỏ ra nâng niu, trân trọng và cảm
thông.
Tr-ớc hết là phụ nữ với tình yêu. Nhiều ng-ời phụ nữ trong truyện ngắn
Ma Văn Kháng có thể tuẫn nạn bạo liệt vì tình, có thể chờ ng-ời yêu đến mức
thành vọng phu hóa đá. Đó là Huê (Nữ họa sĩ vẽ chân dung) chờ ng-ời yêu
gần 20 năm, chờ hết cả tuổi trẻ, nh-ng vẫn tin một ngày kia ng-ời con trai ấy
sẽ trẻ về. Bởi vì ng-ời trai ấy đà l-u giữ g-ơng mặt tuyệt đẹp trong ký ức vĩnh
viễn của Huê hay Nhiên (Nhiên, nghệ sĩ múa) nguyên vẹn, không sứt mẻ, thñy
chung nh­ nhÊt “ë cuèi cuéc chiÕn tranh võa qua, có một ng-ời con trai đÃ
hôn nàng khi chia tay víi hĐn -íc cïng nµng ngµy trë vỊ. Nµng chØ có một
mối tình duy nhất đó. Bây giờ vẫn vậy, nàng vô cảm tr-ớc mọi quyến rũ vì đÃ

24


quá mải mê và linh hồn đà đắm đuối đến kiệt lực [16 ; tr 365]. Ngay cả
những ng-ời phụ nữ đà xây dựng gia đình cũng còn thống thiết niềm hỉ xả với
người đàn ông mà mình đà gắn bó. Người vợ một nhà viết kịch trong Nợ đời
đẹp lộng lẫy cao sang, những đ-ờng cong mềm mại tinh tế và uyển chuyển
còn xôn xao niềm lạc thú cho thị giác trần gian. Chị yêu chồng hết mực, sẵn
sàng tuẫn nạn vì tình. Chồng chị là nhà viết kịch tài hoa nh-ng hiện thời ch-a
đ-ợc công nhận. Chị không quản nhọc nhằn tìm đ-ờng, khai lối, gõ cửa các vị
có chức sắc để cầu cạnh, van xin. Tình yêu, cơn đam mê vô hạn của nó đÃ
khiến chị có thể v-ợt qua mọi khổ nhục trần gian nhằm mang đến thành công

trong sự nghiệp của chồng. Cũng vậy, Oanh trong Một mối tình si không
những yêu chồng mà còn sùng kính chồng. Chồng là cuốn sách đáng x-ng
tụng duy nhất mà nàng hằng đọc mải mê, là ảnh t-ợng tôn thờ, là thế giới
nàng sống, là không khí nàng hít thở. Tình yêu của Oanh là một cơn say ngọt
ngào, là bảo hiểm tuyệt đối cho t- cách đàn bà của nàng. Nàng xa lạ với
những chuyện ngồi lê đôi mách, bình phẩm, chê bai chồng con. Chính vì yêu
chồng bằng tình yêu lý t-ởng tới mức thờ phụng nh- vậy nên sau này, khi
chồng gặp tai nạn, mất hết mọi thứ từ tiền tài, địa vị, sức khỏe, sự phong độ
đến cả khả năng quan hệ vợ chồng, nàng mới sụp đổ ghê gớm đến thế. Tình
yêu bao giờ cũng là một giấc ảo mộng. Cũng chính tình yêu luôn tuyển mộ
đ-ợc những tín đồ thiết tha với cái chết tử vì đạo nh- T-ơi trong Những ng-ời
đàn bµ. Chång nµng lµ mét nghƯ sÜ. Y lµ “khãi thuốc súng, nhờ chị là mồi lửa
mà bùng cháy, chiếu sáng, rồi tự huyễn hoặc mình trong một hào quang tự
kỷ [16 ; tr 259]. Nh-ng ng-ời đàn ông ấy đà cố tình quên chị, bỏ đi với một
ng-ời đàn bà khác. Chị tr-ớc sau vẫn một tấm lòng rộng l-ợng, một tinh thần
hỉ xả, một niềm đam mê bền bỉ nh- một thiên tính trời ban riêng cho đàn bà.
Ngày ngày, chị vẫn chờ anh trở về trong căn nhà quen thuộc. Nh-ng càng chờ
càng vô vọng mà thôi.
Phụ nữ luôn đắm đuối hết mình trong tình yêu. Nh-ng khi tình yêu của
họ không đ-ợc công nhận hay đền đáp, họ cũng sẵn sàng ngoại tình để thỏa

25


×