Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quá trình khai khẩn và canh tác ruộng bậc thang của các tộc người HMông, dao ở huyện sa pa, tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (834.6 KB, 84 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Đây là quy luật cơ bản chi phối tiến trình lịch sử tồn tại và phát triển của nhân
loại, được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin khái quát trên cơ sở
phân tích sự vận động và phát triển của xã hội lồi người. Vì vậy, việc nhận
thức, đặc biệt là sự vận dụng đúng và sáng tạo quy luật này trong hoạt động
thực tiễn của con người là vấn đề có ý nghĩa to lớn và rất cấp thiết cả về
phương diện lý luận lẫn thực tiễn.
Ở nước ta, trong những năm trước đổi mới, đã có lúc Đảng ta nhận thức
và vận dụng quy luật này chưa đúng và không phù hợp với thực trạng phát
triển của đất nước khi chủ trương cho rằng: Quan hệ sản xuất có thể “đi
trước” một bước để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Đây là quan
điểm không phù hợp bởi vì lực lượng sản xuất ở nước ta lúc đó cịn rất thấp
kém, quan hệ sản xuất như vậy là vượt quá xa so với trình độ của lực lượng
sản xuất. Sự khơng phù hợp đó dẫn đến việc kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất, làm cho toàn bộ nền sản xuất ở nước ta rơi vào khó khăn, trì
trệ, khủng hoảng. Tình hình đó sau này được Đảng ta tổng kết rút kinh
nghiệm, khẳng định lực lượng sản xuất bị kìm hãm khơng chỉ khi quan hệ sản
xuất lỗi thời, mà ngay cả khi có những yếu tố trong quan hệ sản xuất vượt quá
xa so với lực lượng sản xuất.
Xuất phát từ thực tiễn đất nước và trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin, tại Đại hội VI năm 1986, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi
mới trong đó thể hiện tư duy mới của Đảng về quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong điều kiện trình độ
lực lượng sản xuất ở nước ta còn thấp kém, để tạo ra một quan hệ sản xuất
phù hợp với lực lượng sản xuất đó, Đảng ta đã có những đổi mới quan trọng

1



trong nhận thức và xây dựng quan hệ sản xuất về cả ba nội dung sở hữu, quản
lý và phân phối. Thực tiễn đất nước sau hơn 20 năm qua đã chứng tỏ tính
đúng đắn của đường lối đổi mới nói chung, của những đổi mới trong nhận
thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất nói riêng.
Bên cạnh đó, cũng phải thấy rằng, q trình đổi mới quan hệ sản xuất
tuy đang đi đúng hướng, nhưng trong nhiều trường hợp nó vẫn cịn là nhân tố
cản trở quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, là nguyên nhân cơ bản dẫn
đến tình trạng: nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước chưa được huy động
và khai thác tốt. Hơn nữa, thực tiễn luôn vận động, lực lượng sản xuất phát
triển khơng ngừng, nó ln đặt ra những yêu cầu mới trong quá trình phát
triển. Do vậy, vấn đề này cần phải tiếp tục có những nghiên cứu mới sâu sắc
hơn nữa để đưa ra những giải pháp thiết thực đáp ứng yêu cầu giải phóng,
phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời rút ra được những bài học kinh
nghiệm quý báu, tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục
những hạn chế đã mắc phải, góp phần tạo ra những cơ sở khoa học cho quá
trình vận dụng đúng đắn quy luật này ở nước ta trong những giai đoạn hiện
nay.
Vì vậy, chúng tôi lựa chọn vấn đề “Nhận thức và vận dụng quy luật về
sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Là một trong những quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển
xã hội, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả, với
những mức độ và mục đích khác nhau.
Trong q trình nghiên cứu, chúng tơi nhận thấy đã có nhiều nghiên
cứu sinh chọn quy luật này làm đề tài luận án phó tiến sĩ, chẳng hạn như


2


Nguyễn Tĩnh Gia với “Biểu hiện đặc thù của quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Trương Hữu Hoàn với “Quy luật phù hợp của
quan hệ với lực lượng sản xuất và vấn đề nhận thức, vận dụng quy luật này ở
một số nước xã hội chủ nghĩa”, Nguyễn Trọng Tuấn với “Nhận thức và vận
dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất trong nông nghiệp nước ta thời kỳ đổi mới”. Những cơng trình này
có một điểm chung là nghiên cứu toàn bộ quy luật dưới góc độ lý luận, nhưng
phạm vi thực tiễn mà các cơng trình trên đề cập đến lại rất khác nhau, các số
liệu được đề cập đến cũng đã có phần lạc hậu (các cơng trình này được hồn
thành trong những năm từ 1987 đến 1996), do vậy cần tiếp tục nghiên cứu
mối quan hệ này theo những hướng mới với những số liệu mới.
Có những tác giả chỉ tiếp cận quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất dưới góc độ lý luận, chẳng hạn như
Phạm Văn Chung trong “Triết học Mác về lịch sử”, tác giả phân tích sâu sắc
và trình bày có hệ thống về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và mối quan
hệ biện chứng giữa chúng theo tiến trình hình thành và phát triển của chủ
nghĩa Mác. Nhưng do mục đích nghiên cứu nên tác giả chỉ dừng lại ở việc
nghiên cứu vấn đề này trên phương diện lý luận.
Nhiều tác giả không đề cập đến toàn bộ nội dung quy luật mà chỉ
nghiên cứu riêng quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay, chẳng hạn như Lê
Xuân Tùng với “Các thành phần kinh tế và cách mạng quan hệ sản xuất”;
Nguyễn Thị Quý với “Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở Việt
Nam”; Lương Xuân Quỳ với “Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội
chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam;... Các tác giả
này đã tập trung làm rõ quan hệ sản xuất ở nước ta hiện nay, mối quan hệ giữa
quá trình đổi mới quan hệ sản xuất và nền kinh tế nhiều thành phần, vấn đề

định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới quan hệ sản xuất,... Đây

3


là những cơng trình nghiên cứu rất có giá trị, là nguồn tài liệu tham khảo quý
báu đối với chúng tơi.
Bên cạnh đó, liên quan đến quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có những tác giả còn
nghiên cứu chi tiết hơn. Chẳng hạn như Nguyễn Trọng Chuẩn với “Đổi mới
quan niệm về chế độ sở hữu và ý nghĩa chiến lược của nó đối với sự phát triển
của Việt Nam hiện nay”, Phạm Văn Đức với “Đổi mới sở hữu ở Việt Nam:
một số cơ sở lý luận”, Vũ Văn Viên với “Cổ phần hóa - một phương diện
quan trọng để đa dạng hóa các hình thức sở hữu”, Đặng Hữu Toàn với “Sự
tồn tại đan xen các hình thức sở hữu - một tất yếu lịch sử, một yêu cầu bức
thiết trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Nguyễn
Đình Kháng với “Cơ sở để nhận thức về sở hữu và thành phần kinh tế trong
quá trình đổi mới ở Việt Nam”, Nguyễn Văn Thức với “Sở hữu: lý luận và
vận dụng ở Việt Nam”, Nguyễn Ngọc Hà với “Quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về vai trò động lực của chế độ sở hữu tư nhân trong điều kiện hiện
nay”,… Những tác giả này đã làm rõ cơ sở lý luận và tính tất yếu của việc đa
dạng hóa các loại hình sở hữu; vai trị của sở hữu nói chung, của các loại hình
sở hữu nói riêng đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện
nay.
Cũng nghiên cứu những vấn đề liên quan đến quy luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có tác giả
chỉ tập trung nghiên việc tổ chức, quản lý sản xuất. Điển hình là tác giả Từ
Điển với “Một số vấn đề về quản lý nhà nước trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Nguyễn Văn Hậu và
Nguyễn Thị Như Hà với “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa trong điều kiện Việt Nam là thành viên của tổ chức Thương mại
thế giới”, Phan Thanh Phố với “Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Vũ Đình Bách với “Kinh tế

4


thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Vũ Trọng Phúc với
“Nền kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”,...
Trong q trình bàn về vai trị của Nhà nước trong tổ chức, quản lý sản xuất,
các tác giả này đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của Nhà nước đối
với nền kinh tế; thực hiện việc tổ chức, quản lý sản xuất sao cho phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất và chế độ sở hữu ở nước ta trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội; các giải pháp hồn thiện hệ thống pháp luật, các cơ
chế, cơng cụ quản lý vĩ mô của nhà nước;... Tất nhiên, do phạm vi nghiên
cứu, nên các tác giả này không bàn đến toàn bộ mối quan hệ giữa quan hệ sản
xuất với lực lượng sản xuất mà chỉ tập trung bàn đến vấn đề nâng cao năng
lực quản lý của Nhà nước trong tổ chức, quản lý sản xuất; tạo ra các cơ chế
chính sách để giải phóng lực lượng sản xuất và huy động mọi nguồn lực vào
sản xuất kinh doanh.
Trong quan hệ sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm lao động cũng là
bộ phận rất quan trọng, nó chịu sự quy định của lực lượng sản xuất, đồng thời
chịu sự quy định của quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, nhưng
nó cũng tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của lực lượng sản xuất, cũng đã
có nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề này, tiêu biểu phải kể đến Lý Bân với “Lý
luận chung về phân phối dưới chủ nghĩa xã hội”, Trần Văn Đoàn với “Nhận
thức lại sự phê phán của C.Mác về công bằng trong phân phối”,... Những
đánh giá cao của tác giả Trần Văn Đoàn đối với Mác trong quan điểm về phân
phối cũng như những quan điểm của Lý Bân về phân phối dưới chủ nghĩa xã
hội rất có ý nghĩa quan trọng đối với chúng tơi trong quá trình thực hiện đề tài

của mình.
Như vậy, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất đã được nhiều tác giả nghiên cứu ở những góc độ, mức độ,
phạm vi khác nhau mà trên đây chỉ là một số cơng trình mang tính điển hình
mà chúng tơi có dịp tìm hiểu. Đây sẽ là nguồn tư liệu quý báu và gợi mở cho

5


chúng tơi nhiều vấn đề trong q trình nghiên cứu đề tài “Nhận thức và vận
dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: phân tích, làm rõ hơn sự nhận thức và vận
dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu: Thứ nhất, làm rõ hơn những vấn đề lý luận về
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Thứ hai, phân tích thực
trạng nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam. Thứ ba, xây dựng một
số kiến nghị, giải pháp nhằm phát triển và hoàn thiện quan hệ sản xuất trên cơ
sở phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện
nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu là quá trình Đảng Cộng sản Việt
Nam nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta từ năm 1986 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu
Cơ sở lý luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ yếu là quan

điểm về nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, các tài liệu, Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam,
các sách báo và tạp chí có liên quan đến đề tài.
Các phương pháp nghiên cứu chính bao gồm: phương pháp biện chứng
duy vật, đặc biệt là quan điểm về tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn,
quan điểm lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích tổng hợp,…

6


6. Đóng góp của luận văn
Luận văn bổ sung thêm một số ý kiến về nội dung quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, góp phần làm rõ
hơn q trình nhận thức và vận dụng quy luật này ở nước ta hiện nay. Luận
văn khi hồn thành có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu những
vấn đề liên quan.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 6 tiết:
Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về quy luật: sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Chương 2: Quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức và vận dụng
quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất trong thời kỳ đổi mới.

7


Chương 1


QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
VỀ QUY LUẬT: SỰ PHÙ HỢP CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT
VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

1.1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là một trong những khái niệm cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử, theo Mác, đây là biểu thị mặt thứ nhất của “mối quan hệ song
trùng” của bản thân sự sản xuất xã hội: “quan hệ của con người với tự nhiên
và quan hệ của con người với nhau” [52, tr.42]. Điều đó có nghĩa là nó biểu
hiện cho q trình con người tác động vào giới tự nhiên, cải biến và chinh
phục giới tự nhiên để sản xuất ra của cải vật chất, đảm bảo cho sự sinh tồn,
phát triển của con người và xã hội lồi người.
Trong q trình sản xuất, con người chinh phục tự nhiên bằng sức
mạnh hiện thực của mình, đó là sức mạnh cơ bắp và sức mạnh trí tuệ, Mác
viết: “Để chiếm hữu được thực thể của tự nhiên dưới một hình thái có ích cho
đời sống của bản thân mình, con người vận dụng những sức tự nhiên thuộc về
thân thể của họ: tay và chân, đầu và hai bàn tay” [57, tr.266]. Tổng hợp những
sức mạnh của con người trong quá trình chinh phục tự nhiên, tức là sức mạnh
của sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, được chủ nghĩa duy
vật lịch sử khái quát thành khái niệm lực lượng sản xuất.
Như vậy, những trình bày trên đây về lực lượng sản xuất có thể khái
quát lại như sau: Lực lượng sản xuất là một mặt của phương thức sản xuất,
biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất,
là tổng hợp sức mạnh hiện thực của con người (người lao động và tư liệu sản
xuất) trong quá trình chinh phục giới tự nhiên, thực hiện việc sản xuất xã hội.

8


Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục

tự nhiên của con người, thể hiện năng lực thực tiễn cải tạo tự nhiên của con
người. Thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là năng suất lao
động xã hội, đây chính là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá sự tiến bộ xã hội, nó
cũng là nguyên nhân cuối cùng quyết định sự thắng lợi của một chế độ xã hội.
Chính vì ý nghĩa lớn lao đó của năng suất lao động mà Lênin khẳng định:
“Nâng cao năng suất lao động là một trong những nhiệm vụ cơ bản, bởi vì
khơng có nó thì khơng thể chuyển hẳn lên chế độ cộng sản được” [44, tr.120].
Trong tiến trình lịch sử, lực lượng sản xuất phát triển từ trình độ thấp
lên trình độ cao, đó là sự phát triển có tính kế thừa. Con người dù muốn hay
khơng thì cũng khơng thể tự do lựa chọn lực lượng sản xuất cho riêng mình,
bởi vì “mọi lực lượng sản xuất đều là lực lượng được tạo ra, đều là sản phẩm
của hoạt động trước đó. Như thế, lực lượng sản xuất là kết quả của nghị lực
thực tiễn của con người, nhưng bản thân nghị lực ấy lại bị chế định bởi những
điều kiện mà con người được đặt vào, bởi những lực lượng sản xuất mà trước
đó đã có được, bởi một hình thức xã hội đã tồn tại trước khi có những lực
lượng sản xuất ấy, mà hình thức xã hội ấy lại được tạo ra không phải những
con người ấy, mà bởi thế hệ trước đó” [58, tr657].
Sự phát triển có tính kế thừa này của lực lượng sản xuất không chỉ diễn
ra ở tư liệu lao động mà cả ở trình độ của người lao động. Khi nói về nhiệm
vụ trước mắt của chính quyền Xơ Viêt, Lênin khẳng định: để phát triển lực
lượng sản xuất “đòi hỏi phải sử dụng ngay lập tức, một cách rộng rãi và trong
mọi lĩnh vực, các chuyên gia khoa học và kỹ thuật mà chủ nghĩa tư bản đã để
lại cho chúng ta, mặc dù họ phần nhiều không tránh khỏi bị nhiễm thế giới
quan và các thói quen tư sản” [44, tr.145].
Lực lượng sản xuất, trong quá trình phát triển của nó, cho dù thường
xuyên bị cản trở bởi những yếu tố khác nhau, đặc biệt là những quan hệ sản
xuất đã lỗi thời, nhưng nhìn chung thì lực lượng sản xuất vẫn tiến lên từng

9



bước theo quy luật của nó. Bản thân các lực lượng sản xuất không phải là sản
phẩm của riêng một thời đại nào, mà là sản phẩm của cả một quá trình phát
triển liên tục từ thấp tới cao qua các thời đại.
Về mặt cấu trúc, lực lượng sản xuất được cấu thành từ hai yếu tố cơ
bản là người lao động và tư liệu sản xuất.
Người lao động: với tính cách là một bộ phận của lực lượng sản xuất,
người lao động là những người có khả năng lao động, tức là phải có các phẩm
chất: sức mạnh trí tuệ, sức mạnh thể chất, kinh nghiệm và kỹ năng lao
động,…Ở những thời đại khác nhau, các phẩm chất trên cũng có những vai
trị khác nhau; trong các xã hội tiền tư bản, khi lực lượng sản xuất còn ở trình
độ thủ cơng, yếu tố thể chất nổi bật hơn cả; trong xã hội tư bản, yếu tố kinh
nghiệm và kỹ năng lao động trở nên đặc biệt quan trọng để phục vụ cho các
dây chuyền sản xuất công nghiệp, điều khiển các loại máy móc; hiện nay, khi
lực lượng sản xuất ngày càng hiện đại, tin học hóa, tự động hóa thì yếu tố tri
thức có vai trị đặc biệt quan trọng, lao động của con người ngày càng trở
thành lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ. Càng ngày hàm lượng trí tuệ
trong lao động càng cao, trong điều kiện của khoa học công nghệ hiện nay,
con người trở thành một nguồn lực đặc biệt của sản xuất, là nguồn lực đặc
biệt và vơ tận. Chính sức mạnh trí tuệ của con người đã đem lại những thành
tựu lớn lao trong nền sản xuất hiện đại. Tuy nhiên, theo Mác, “tiến bộ của tri
thức chỉ là một mặt, một dạng thức biểu hiện của sự phát triển mới của lực
lượng sản xuất của con người, còn lực lượng sản xuất vĩ đại nhất chính là giai
cấp cách mạng” [41, tr.27].
Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố giữ vai trò quyết
định, Lênin khẳng định: "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại
là công nhân, là người lao động" [45, tr.430]. Khẳng định người lao động giữ
vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất là vì: suy cho cùng thì các tư liệu
sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người, do người lao động tạo ra và


10


không ngừng đổi mới, cải tiến; giá trị và hiệu quả của các tư liệu sản xuất phụ
thuộc vào trình độ sử dụng và sáng tạo của người lao động (máy vi tính chỉ
đem lại hiệu quả khi người sử dụng có trình độ cao, với những người khơng
biết sử dụng thì có sở hữu những máy tính hiện đại thì nó cũng khơng thể phát
huy được tác dụng); về thực chất, tư liệu sản xuất, đặc biệt là công cụ lao
động chỉ là sự phản ánh trình độ của con người trong quá trình chinh phục tự
nhiên.
Tư liệu sản xuất: với tư cách là một trong hai yếu tố cơ bản tạo thành
lực lượng sản xuất, tư liệu sản xuất lại được cấu tạo nên từ hai yếu tố cơ bản
là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Mác khẳng định: “cả tư liệu lao
động và đối tượng lao động đều biểu hiện ra là tư liệu sản xuất” [57, tr.271].
Đối tượng lao động bao bồm những bộ phận của giới tự nhiên được
đưa vào trong sản xuất, nó có sẵn trong tự nhiên như đất đai, nguồn nước,
khoáng sản… Đối tượng lao động được Mác giải thích rất rõ như sau: “Đất
đai (theo quan điểm kinh tế, danh từ này bao gồm cả nước nữa) lúc ban đầu
đảm bảo cho con người thức ăn, những tư liệu sinh hoạt sẵn có - tồn tại với tư
cách là đối tượng lao động phổ biến của con người mà không cần sự tác động
nào của con người. Tất cả những vật mà lao động chỉ có việc bứt ra khỏi mối
quan hệ trực tiếp giữa chúng với đất đai, đều là những đối tượng lao động do
tự nhiên cung cấp” [57, tr267].
Ngồi những đối tượng lao động có sẵn trong tự nhiên, con người tạo ra
đối tượng lao động. Những đối tượng lao động do con người tạo ra được gọi
là nguyên liệu. Việc sáng tạo ra đối tượng lao động xuất phát từ nhu cầu con
người, khi mà những đối tượng lao động trong tự nhiên không cịn đáp ứng
được hoặc khơng đủ đáp ứng cho sự phát triển của sản xuất nữa. Đối tượng
lao động do con người sáng tạo ra cũng chính là những đối tượng lao động
trong tự nhiên nhưng đã qua sơ chế, nó mang dấu ấn của lao động. Mác phân

biệt hai loại đối tượng lao động này như sau: “Mọi nguyên liệu đều là đối

11


tượng lao động, nhưng không phải mọi đối tượng lao động đều là nguyên liệu.
Đối tượng lao động chỉ trở thành nguyên liệu sau khi đã trải qua một sự biến
đổi nào đó do lao động gây ra” [57, tr.268].
Trong quá trình sản xuất, để cải biến đối tượng lao động thành những
sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của mình, con người phải sử dụng tư liệu lao
động. Nếu đặt đối tượng lao động ở một cực, người lao động ở một cực thì tư
liệu lao động như là khâu trung gian giữa hai cực đó. Theo Mác, “nhờ những
tư liệu lao động, sự hoạt động của con người làm cho đối tượng lao động phải
biến đổi theo một mục đích đã định trước” [57, tr.271].
Vậy, tư liệu lao động là gì? theo Mác: “Tư liệu lao động là một vật, hay
là toàn bộ những vật mà con người đặt ở giữa họ và đối tượng lao động và
được họ đặt làm vật truyền dẫn hoạt động của họ vào đối tượng ấy” [57,
tr.268]. Với ý nghĩa như vậy, tư liệu lao động gồm những yếu tố cơ bản sau:
các công cụ lao động, những phương tiện vận chuyển hàng hóa, các loại vật
dụng để bảo quản những đối tượng lao động, nhà xưởng, bến cảng, đường
xá,... Theo Mác, “Trong bản thân các tư liệu lao động, thì những tư liệu lao
động cơ khí mà tồn bộ có thể gọi là hệ thống xương cốt và bắp thịt của sản
xuất - lại cấu thành những dấu hiệu đặc trưng tiêu biểu cho một thời đại sản
xuất xã hội nhất định” [57, tr.270].
Công cụ lao động là yếu tố động nhất, quan trọng nhất trong tư liệu sản
xuất, tác động đến sự biến chuyển xã hội, và cũng là một trong những yếu tố
đặc trưng cho mỗi thời đại, Mác viết: “cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã
hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản
cơng nghiệp” [53, tr.187]. Công cụ lao động là yếu tố thường xuyên biến đổi
là vì nó thường xun được cải tiến để nâng cao năng suất lao động, giải

phóng sức lao động của con người. Nếu chỉ dừng lại ở những công cụ lao
động thủ cơng như cày, cuốc, liềm, hái,… thì năng suất lao động không cao,
mất nhiều sức lao động. Do vậy, phải cải tiến, chế tạo ra những công cụ lao

12


động mới như máy cày, máy gặt đập lúa liên hoàn,… năng suất lao động cao,
sức lao động được giải phóng mạnh mẽ. Máy móc ngày càng chinh phục
những lĩnh vực mới của nền sản xuất xã hội, nó thay thế con người ở nhiều
khâu trong quá trình sản xuất.
Như vậy, cơng cụ lao động nói riêng và tư liệu lao động nói chung,
chính là cái thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của lồi người, là nội dung
chính của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Trong sản xuất, con người không chỉ sử
dụng tư liệu lao động đã có mà cịn tạo ra tư liệu lao động mới tiến bộ hơn.
Chính vì vậy mà năng suất lao động ngày càng tăng, chất lượng sản phẩm
ngày càng cao, con người ngày càng được giải phóng khỏi nhiều chức năng
cực nhọc trong quá trình lao động. cùng với phương thức sản xuất, tư liệu lao
động cũng là một yếu tố cơ bản để phân biệt những giai đoạn khác nhau của
nền sản xuất xã hội. “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ
chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những
tư liệu lao động nào” [57, tr.269].
Hiện nay, trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai
trị ngày càng to lớn: khoa học thâm nhập vào mọi yếu tố của quá trình sản
xuất: từ người lao động (với trình độ khoa học ngày càng cao) đến tư liệu sản
xuất, đặc biệt là công cụ lao động; khoa học phát triển dẫn đến sự ra đời của
những ngành sản xuất mới, máy móc thiết bị mới, công nghệ mới, nguyên vật
liệu mới, năng lượng mới,…Do đó, nó có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát
triển mạnh mẽ, năng suất lao động ngày càng cao, thậm chí khoa học đã trở
thành một phương tiện để sản sinh ra của cải. Mác viết: “chỉ đến khi xuất hiện

phương thức tư bản chủ nghĩa thì khoa học mới trở thành một nghề nghiệp về
phương tiện sản sinh ra của cải, phương tiện làm giàu” [41, tr.37].
Trong những thập kỷ qua, cuộc cách mạng khoa học-công nghệ diễn ra
như vũ bão trên khắp thế giới đã tạo ra những bước nhảy vọt trong lực lượng
sản xuất, mở ra một kỷ nguyên mới cho nền sản xuất xã hội với việc phát

13


triển và ứng dụng cơng nghệ tự động hố và hàng loạt công nghệ tiên tiến
khác. Trong cuộc cách mạng này thì quá trình cách mạng trong khoa học đi
trước một bước, đóng vai trị dẫn đường và chi phối mạnh mẽ đối với sản xuất
nói chung. Chính sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ đang gây ra những biến đổi lớn trong xã hội nói chung, nền sản xuất vật
chất xã hội nói riêng. Chẳng hạn như đối với người lao động, họ không chỉ
được giải phóng khỏi các chức năng thực hiện mà cả chức năng kiểm tra,
quản lý trong quá trình sản xuất. Con người ngày càng không phải tham gia
vào quá trình sản xuất trực tiếp và họ, từ chỗ là người thực hiện giản đơn các
thao tác máy móc thành chủ thể của nền sản xuất với chức năng chủ yếu và
quan trọng nhất là sáng tạo. Điều đó càng cho thấy ý nghĩa lớn lao của tri thức
khoa học trong quá trình sản xuất của nền sản xuất hiện đại.
Như vậy, với tư cách là tổng hợp sức mạnh hiện thực của con người
trong quá trình chinh phục tự nhiên, là sự kết hợp giữa người lao động với tư
liệu sản xuất, lực lượng sản xuất chính là nội dung của sự sản xuất xã hội.
1.2. Quan hệ sản xuất
Cũng là một mặt của phương thức sản xuất, nhưng nếu như lực lượng
sản xuất là khái niệm biểu thị ở mặt thứ nhất của mối “quan hệ song trùng”
của bản thân sự sản xuất xã hội - quan hệ giữa con người với tự nhiên, thì
quan hệ sản xuất chính là sự biểu thị mặt thứ hai của quan hệ đó - quan hệ của
con người với con người trong sản xuất.

Quá trình sản xuất của xã hội chỉ có thể diễn ra một cách bình thường
khi mối quan hệ giữa người với người tồn tại thống nhất giữa mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên. Mác khẳng định: “Trong sản xuất, người ta
không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu
khơng kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và trao đổi
hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ
và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là

14


việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã
hội đó” [54, tr.552].
Trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con người dù muốn hay
khơng cũng buộc phải duy trì và thực hiện những quan hệ nhất định với nhau
cho dù những quan hệ này có khác nhau trong mỗi một phương thức sản xuất
nhất định. Với tính cách là những quan hệ vật chất trong xã hội, xuất hiện do
nhu cầu của con người, cho nên quan hệ sản xuất là kiểu quan hệ mang tính
tất yếu và khách quan. Theo Mác: “Trong sự sản xuất xã hội về đời sống của
mình, con người có những quan hệ với nhau, những quan hệ nhất định, tất
yếu, độc lập đối với ý muốn của họ, tức là những quan hệ sản xuất, những
quan hệ này phù hợp với một trình độ nhất định của các lực lượng sản xuất
vật chất của họ” [55, tr.14-15].
Trên cơ sở những quan điểm của Mác và Ăngghen, Lênin đã khái quát
quan hệ sản xuất thông qua việc đưa ra định nghĩa về giai cấp: “Người ta gọi
là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của
họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về
quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy
định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ
chức lao động xã hội, như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về

phần của cải xã hội ít nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn
người, mà tập đồn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đồn khác, do chỗ
các tập đồn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất
định” [46, tr.17-18]. Làm rõ hơn những quan điểm của Lênin, trong khi trình
bày về đối tượng của kinh tế chính trị học, I.V.Xtalin đã nêu lên ba mặt của
quan hệ sản xuất, đó là: các hình thức của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất;
địa vị của các tập đoàn xã hội khác nhau trong sản xuất và quan hệ giữa các
tập đồn ấy; những hình thức phân phối sản phẩm do hình thức sở hữu và địa
vị xã hội của tập đoàn trong sản xuất quyết định [75, tr.92].

15


Như vậy, quan hệ sản xuất có thể trình bày một cách khái quát như sau:
Quan hệ sản xuất là một mặt của phương thức sản xuất, là quan hệ giữa
người với người trong quá trình sản xuất. Đây là quan hệ nảy sinh một cách
khách quan, tất yếu trong quá trình sản xuất, là quan hệ kinh tế cơ bản, nó
phản ánh hình thức xã hội của q trình sản xuất; quan hệ sản xuất gồm có
quan hệ giữa người với người trong việc sở hữu tư liệu sản xuất, trong việc tổ
chức và quản lý sản xuất, trong việc phân phối sản phẩm lao động trong quá
trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất gồm có các mặt cơ bản sau: quan hệ giữa người với
người trong việc sở hữu tư liệu sản xuất, trong việc tổ chức và quản lý sản
xuất, trong việc phân phối sản phẩm lao động trong q trình sản xuất:
Ba mặt quan hệ đó trong q trình sản xuất xã hội ln gắn bó chặt chẽ
với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với vận
động không ngừng của lực lượng sản xuất. Các quan hệ sản xuất của một
phương thức sản xuất là một hệ thống bao gồm nhiều quan hệ phong phú, đa
dạng. Mỗi mặt quan hệ của hệ thống quan hệ sản xuất có vai trị và ý nghĩa
khác nhau trong mỗi nền sản xuất nói riêng và trong tồn bộ tiến trình lịch sử

nói chung.
Trong ba mặt trên của quan hệ sản xuất thì quan hệ giữa người với
người trong việc sở hữu tư liệu sản xuất là quan hệ cơ bản nhất, nó là cơ sở
của các quan hệ sản xuất, quyết định các quan hệ khác trong xã hội.
Quan hệ sở hữu chính là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc
chiếm hữu các tư liệu sản xuất. Tính chất của quan hệ sản xuất phụ thuộc vào
chỗ những tư liệu sản xuất cơ bản là sở hữu của ai. Quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất (biểu hiện thành chế độ sở hữu) là đặc trưng cơ bản của mỗi hình
thái kinh tế xã hội nhất định, từ quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ hình
thành nên các quan hệ khác trong hệ thống quan hệ sản xuất của một chế độ
xã hội nhất định. Khi phương thức sản xuất thay đổi thì quan hệ sở hữu cũng

16


thay đổi theo, lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định sẽ xác lập nên một
quan hệ sở hữu tương ứng với nó. Theo Mác, trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất của một dân tộc biểu lộ ra rõ nhất ở trình độ phát triển của phân công
lao động xã hội, những giai đoạn phát triển khác nhau của sự phân công lao
động xã hội cũng đồng thời là những hình thức sở hữu; “nghĩa là mỗi giai
đoạn của phân công lao động cũng quy định những quan hệ giữa cá nhân với
nhau, tùy theo quan hệ của họ với tư liệu lao động, công cụ lao động và sản
phẩm lao động” [52, tr.31]. Chính quan hệ sở hữu đã quy định địa vị của từng
tập đoàn trong hệ thống sản xuất xã hội. Đến lượt mình, địa vị của từng tập
đồn trong hệ thống sản xuất lại quy định cách thức mà các tập đoàn tổ chức
và quản lý quá trình sản xuất. Đồng thời, cũng chính quan hệ sở hữu này
quyết định phương thức phân phối sản phẩm lao động cho các tập đoàn người
theo địa vị của họ đối với hệ thống sản xuất xã hội.
Trong lịch sử xã hội có hai hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu công
cộng và sở hữu tư nhân, sở hữu công cộng là cái vốn có của chế độ cơng xã

ngun thủy; sở hữu tư nhân, xuất hiện và tồn tại trong chế độ chiếm hữu nô
lệ, chế độ phong kiến và chủ nghĩa tư bản. Đỉnh cao của chế độ tư hữu là chủ
nghĩa tư bản, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất thì chế độ sở hữu
này sớm muộn cũng bị phủ định bởi chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa. Chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chính là một đặc trưng cơ bản nhất trong chủ
nghĩa xã hội. Khi bàn về chính quyền Xơ viết Lênin khẳng định: “triệt để tiếp
tục và hoàn thành việc tước đoạt giai cấp tư sản đã được bắt đầu và đã được
hoàn thành về căn bản, biến các tư liệu sản xuất và tư liệu lưu thông thành sở
hữu của cộng hịa Xơ viết, tức là hình thành sở hữu công cộng của tất cả
những người lao động” [44, tr.119].
Mỗi chế độ kinh tế - xã hội đều có chế độ tổ chức quản lý sản xuất
riêng. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất thực chất là việc điều khiển và tổ
chức cách thức vận động các nhân tố của một nền sản xuất nhất định, nó phụ

17


thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phụ thuộc vào chế độ sở
hữu. Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất như thế nào thì chế độ tổ chức quản lý
sản xuất như thế ấy. Nếu như chế độ cộng sản ngun thủy có hình thức tự
quản, tức là mọi người cùng làm, địa vị xã hội của mọi người như nhau,
khơng có kẻ thống trị và bị trị, thì ở chế độ nơng nơ, phong kiến và tư bản chủ
nghĩa chế độ tổ chức quản lý sản xuất lại mang một hình thức khác, thích hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và chế độ tư hữu. Trong những
chế độ sở hữu này thì người chiếm hữu tư liệu sản xuất trở thành kẻ tổ chức
quản lý sản xuất, người vô sản trở thành người bị quản lý, lao động sản xuất
theo sự tổ chức của kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất.
Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-lênin, trái với những hình thức
tổ chức và quản lý sản xuất dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong
xã hội xã hội chủ nghĩa thì chế độ tổ chức và quản lý sản xuất hoàn toàn khác.

Người lao động ở địa vị làm chủ, quan hệ giữa người với người trong sản xuất
là quan hệ hợp tác, bình đẳng. Do đó, việc tổ chức và quản lý sản xuất được
tiến hành theo chế độ dân chủ tập trung.
Cũng như quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản
phẩm trong quá trình sản xuất cũng chịu sự quy định của quan hệ sở hữu tư
liệu sản xuất. Đồng thời quan hệ phân phối sản phẩm lao động cũng bị phụ
thuộc vào trình độ tổ chức và quản lý sản xuất. Song, do có khả năng kích
thích trực tiếp vào lợi ích của con người nên các quan hệ phân phối cũng rất
có ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Quan hệ phân phối có thể thúc
đẩy tốc độ và nhịp điệu của sự sản xuất, làm năng động toàn bộ đời sống kinh
tế - xã hội nếu nó phù hợp, có tác dụng kích thích mạnh mẽ người lao động;
hoặc trong trường hợp ngược lại, nó có khả năng kìm hãm sản xuất, kìm hãm
sự phát triển xã hội.
Trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội, để tỏ rõ sự khác biệt và tính ưu
việt của quan hệ phân phối xã hội chủ nghĩa, thì cần thiết phải xác lập nên

18


những mơ hình phân phối có tính chất đặc trưng cho quan hệ sản xuất xã hội,
đó chính là mơ hình hợp tác xã. Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười
Nga (năm 1917), Lênin đặc biệt chú ý đến việc xây dựng các hợp tác xã, coi
đó như là một công cụ để thực hiện quan hệ phân phối xã hội chủ nghĩa, ông
nhấn mạnh: “Trong lúc này là lúc cịn có những hình thái q độ kết hợp
những nguyên tắc khác nhau, thì điều đặc biệt quan trọng là các cơ quan
lương thực Xô viết hãy sử dụng các hợp tác xã, với tính cách là bộ máy duy
nhất có tính chất quần chúng, để phân phối có kế hoạch” [44, tr.146]. Để có
một quan hệ phân phối sản phẩm lao động thỏa mãn nhu cầu của tất cả mọi
người, thì đó khơng phải là một cơng việc đơn giản, địi hỏi phải có một q
trình rất lâu dài, theo Mác quan hệ phân phối đó chỉ có thể được thực hiện

trong xã hội cộng sản chủ nghĩa “khi mà sự phụ thuộc có tính chất nơ dịch
của con người vào sự phân công lao động của họ khơng cịn nữa và cùng với
nó, sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay cũng sẽ khơng cịn
nữa, khi mà lao động trở thành khơng những là một phương tiện để sinh sống
mà bản thân nó cịn là một nhu cầu bậc nhất của đời sống; khi mà cùng với sự
phát triển toàn diện của các cá nhân, sức sản xuất của họ cũng ngày càng tăng
lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tn ra dồi dào, - chỉ khi đó người
ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã
hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu
cầu!” [46, tr.36].
Những trình bày trên cho thấy, quan hệ sản xuất tồn tại trong mọi hình
thái kinh tế xã hội đều biểu hiện ra là các quan hệ vật chất của xã hội, tồn tại
một cách độc lập, khách quan, là hình thức của sự sản xuất xã hội. Sự phát
triển của nó theo hình thức cái mới phủ định cái cũ. Trong xã hội có đối
kháng giai cấp, phải thơng qua con đường cách mạng lật đổ quan hệ sản xuất
cũ, xác lập quan hệ sản xuất mới. Một khi các quan hệ sản xuất có sự biến đổi
căn bản thì tồn bộ những quan hệ xã hội khác cũng sẽ biến đổi theo.

19


1.3. Nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Để hiểu được quy luật này trì trước hết phải làm rõ các khái niệm: trình
độ và tính chất của lực lượng sản xuất.
Khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con
người thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến
giới tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ
lực lượng sản xuất thể hiện ở: trình độ của cơng cụ lao động, trình độ tổ chức
lao động xã hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất; kinh nghiệm và kỹ

năng lao động của con người; trình độ phân cơng lao động.
Bên cạnh khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất cịn có khái niệm
tính chất của lực lượng sản xuất. Ăngghen đã sử dụng khái niệm này để phân
tích lực lượng sản xuất. Trước đây, khi chưa có cơng nghiệp hiện đại, mỗi
người lao động riêng lẻ có thể sử dụng cơng cụ thủ cơng để sản xuất, công cụ
sản xuất thô sơ này không bắt buộc phải tập trung nhiều người để cùng sản
xuất ra một sản phẩm, mà chỉ cần một người vẫn có thể sản xuất được, cho
nên lực lượng sản xuất có tính chất cá thể. Nhưng khi máy móc xuất hiện, địi
hỏi phải sản xuất dây chuyền, phải có nhiều người cùng lao động theo sự vận
động của máy móc, làm những phần việc khác nhau, do đó địi hỏi q trình
lao động phải xã hội hóa thì mới tạo ra sản phẩm được. Sản phẩm làm ra
không thể nào là kết quả của một người, mà là của nhiều người. Lúc này, lực
lượng sản xuất thay đổi tính chất của nó. Như vậy, tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất khơng tách rời nhau, trình độ nào thì tính chất ấy, ở trình
độ thủ cơng thì phổ biến là tính chất cá nhân, ở trình độ cơ khí cơng nghiệp
thì phổ biến là tính chất xã hội hóa. Do vậy, khi nói đến trình độ của lực
lượng sản xuất cũng đã phần nào bao hàm cả tính chất của nó.
Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực
lượng sản xuất giữ vai trò quyết định, chi phối quan hệ sản xuất:

20


Tính quy định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất trước
hết biểu hiện ở chỗ: lực lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất như
thế ấy, tức là với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất thì có một
quan hệ sản xuất tương ứng. Chẳng hạn như khi lực lượng sản xuất phát triển
từ trình độ thủ cơng lên trình độ công nghiệp đã dẫn đến sự sụp đổ của quan
hệ sản xuất phong kiến và sự ra đời của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sở
dĩ trong mối quan hệ này, lực lượng sản xuất đóng vai trị quyết định là vì nó

đóng vai trị là nội dung vật chất của q trình sản xuất, cịn quan hệ sản xuất
là hình thức xã hội của quá trình đó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình
thức thì nội dung quyết định hình thức. Nghĩa là, trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất quy định cách thức con người quan hệ với nhau trong quá
trình sản xuất, quan hệ sản xuất phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực
lượng sản xuất.
Tính quy định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất còn biểu
hiện ở chỗ: sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm
thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Từ sự biến đổi của lực lượng
sản xuất, trước hết là sự biến đổi của công cụ lao động sẽ dẫn đến sự biến đổi
trong quan hệ sản xuất, “khi những tư liệu sản xuất vật chất, những lực lượng
sản xuất mà thay đổi và phát triển thì những quan hệ xã hội trong đó những cá
nhân sản xuất, tức là những quan hệ sản xuất xã hội, cũng thay đổi, biến đổi
theo” [54, tr.553]. Công cụ lao động không những là thước đo trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, mà sự biến đổi của nó cịn là dấu hiệu báo trước
những biến đổi sẽ xảy ra trong quan hệ sản xuất. Sự thay đổi và phát triển của
bất cứ một phương thức sản xuất nào bao giò cũng bắt đầu bằng sự thay đổi
và phát triển của lực lượng sản xuất. Những điều đó thể hiện rất rõ trong luận
điểm của Mác: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực
lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay
đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất,

21


cách kiếm sống của mình, lồi người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của
mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy
bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản cơng nghiệp” [53, tr.187].
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối với lực lượng
sản xuất, biểu hiện ở chỗ: nó sẽ thúc đẩy mạnh mẽ lực lượng sản xuất phát

triển khi nó phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất; ngược lại, nó sẽ kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất khi nó khơng phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất:
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là một trạng thái mà trong đó tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều
"tạo địa bàn đầy đủ" cho lực lượng sản xuất phát triển. Nghĩa là, nó tạo điều
kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản
xuất, do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển, phát huy hết khả năng
của nó, thúc đẩy sự phát triển của tồn bộ nền sản xuất vật chất xã hội. Cần
phải có sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là do yêu cầu của việc phát triển lực lượng sản xuất, nếu quan hệ sản
xuất khơng phù hợp thì lực lượng sản xuất khơng thể phát triển, nền sản xuất
sẽ trì trệ. Chẳng hạn như khi lực lượng sản xuất phát triển mang tính xã hội
hóa cao (của cải do số đơng người lao động làm ra) mà quan hệ sản xuất vẫn
mang tính tư nhân (thiểu số nhà tư bản) thì sản xuất sẽ khơng thể phát triển,
muốn phát triển được thì quan hệ sản xuất buộc phải mang tính xã hội hóa
hóa.
Tuy nhiên, trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội không phải lúc nào quan
hệ sản xuất cũng phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, sự
khơng phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất tất yếu nảy sinh mâu thuẫn giữa chúng, mâu thuẫn này vận động tới một
giai đoạn nào đó sẽ được giải quyết. Mác-Ăngghen cho rằng: “tất cả mọi xung
đột trong lịch sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và hình

22


thức giao tiếp” (lúc này Mác và Ăngghen vẫn gọi quan hệ sản xuất là hình
thức giao tiếp) [52, tr.107]. Mâu thuẫn này xuất hiện là do chúng có bản chất
vận động không giống nhau: lực lượng sản xuất luôn không ngừng vận động

phát triển gắn với thực tiễn sản xuất, cịn quan hệ sản xuất ln mang tính ổn
định tương đối, bảo thủ do nó ln gắn với lợi ích của giai cấp thống trị nên
luôn được các giai cấp này duy trì, bảo vệ. Cho nên, “tới một giai đoạn phát
triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn
với những quan hệ sản xuất hiện có, hay - đây chỉ là biểu hiện pháp lý của
những quan hệ sản xuất đó - mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó
từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển” [55, tr.15]. Vẫn theo
Mác, “để khỏi bị mất những thành quả đã đạt được, để không bị mất đi những
thành quả của văn minh, con người buộc phải thay đổi tất cả các hình thức xã
hội đã kế thừa vào thời điểm mà phương thức quan hệ của con người khơng
cịn phù hợp với những lực lượng sản xuất đã có được” [58, tr.658].
Tất nhiên mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất diễn
ra trong một q trình lâu dài. Nó tồn tại “âm ỉ” trong một “cơ thể xã hội” đã
đến độ “xế chiều”, nó tồn tại trước khi có một cuộc cách mạng quan hệ sản
xuất nổ ra. Việc xác lập nên một quan hệ sản xuất chỉ có thể diễn ra khi
những điều kiện vật chất đã trở nên chín muồi. Bởi vì, “khơng một hình thái
xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã
hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan
hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều
kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lịng bản
thân xã hội cũ” [55, tr.15-16].
Như vậy, tuy không phải là yếu tố quyết định trong phương thức sản
xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có những tác động khơng nhỏ tới sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Nếu như, khi có được “những lực lượng sản xuất
mới, con người cũng thay đổi phương thức sản xuất của mình, và cùng với

23


phương thức sản xuất thì họ cũng thay đổi tất cả các quan hệ kinh tế đã từng

là những quan hệ tất yếu chỉ đối với phương thức sản xuất nhất định đã tồn
tại” [58, tr.659] thì chính tính độc lập tương đối của quan hệ sản xuất đã làm
cho q trình “thay đổi” đó nhiều khi diễn ra rất khó khăn, thậm chí cịn có cả
những “hao phí sinh mạng và lực lượng sản xuất” rất nặng nề.
Rõ ràng là, khi khơng cịn phù hợp với lực lượng sản xuất thì quan hệ
sản xuất trở nên kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất: nó cản trở quá
trình kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất; cản trở q trình sử
dụng, giải phóng, phát huy các tư liệu sản xuất; khơng có khả năng kích thích
tính tích cực năng động, sáng tạo của người lao động. Quan hệ sản xuất “từ
chỗ là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành
những xiềng xích của lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại của một
cuộc cách mạng xã hội” [55, tr.15]. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
với quan hệ sản xuất được giải quyết, tức là một quan hệ sản xuất đã được xác
lập phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thì chính lúc này,
một lần nữa, tính độc lập tương đối của quan hệ sản xuất lại có điều kiện để
thể hiện ra, nhưng khơng phải là kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển mà
trái lại, nó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển bởi nó phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất dù
sớm hay muộn thì cũng sẽ nổ ra một cuộc cách mạng xã hội. Cách mạng xã
hội biểu hiện ra như là kết quả tất yếu của sự mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất. Khi cách mạng xã hội thành công cũng là lúc mâu
thuẫn này được giải quyết, vì quy luật tất yếu khách quan đòi hỏi quan hệ sản
xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi cuộc cách mạng xã hội đã thành cơng thì ngay lúc đó những quan
hệ sản xuất mới được xác lập vẫn chưa phải là thực sự đã hoàn chỉnh. Việc
hoàn chỉnh các quan hệ sản xuất được diễn ra cùng với sự phát triển của thực

24



tiễn, chính trong sự phát triển của thực tiễn con người mới có điều kiện để
nhận thức đầy đủ hơn về những quan hệ sản xuất mà mình đang xây dựng.
Nếu như trong quá trình xây dựng quan hệ sản xuất mới này có những mâu
thuẫn nảy sinh giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đòi hỏi phải giải
quyết nhưng con người không phát hiện được, cũng như khi mâu thuẫn đã
được phát hiện mà giải quyết khơng được hoặc giải quyết một cách sai lầm thì
tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với
lực lượng sản xuất.
Từ việc nghiên cứu lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và mối quan
hệ giữa chúng, cùng với việc nghiên cứu cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng
tầng cũng như sự tác động qua lại giữa chúng, Mác đã xây dựng nên học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Học thuyết này chỉ ra rằng, sự phát triển của
xã hội chính là sự phát triển, thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội.
Sự phát triển, thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử tự nhiên, xuất phát từ những nguyên nhân nội tại của nó, đó chính là
hệ thống các quy luật xã hội. Nghĩa là, con người làm ra lịch sử của mình, họ
tạo ra xã hội, nhưng sự vận động, phát triển của xã hội khơng tn theo ý chí
chủ quan của con người mà tuân theo các quy luật khách quan, đó chính là
những quy luật trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Trong đó, cơ bản
nhất và trước hết là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
Khi nghiên cứu về xã hội tư bản, Mác đã nhận thấy “những lực lượng
sản xuất phát triển trong lòng xã hội tư sản hiện đại”. Sự phát triển đó của lực
lượng sản xuất tất yếu sẽ làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ trở
nên lỗi thời, mâu thuẫn với lực lượng sản xuất đang phát triển mạnh mẽ. Mâu
thuẫn đó sẽ được giải quyết bằng một cuộc cách mạng xã hội, cho dù cuộc
cách mạng đó có phải trải qua những giai đoạn cực kỳ khó khăn, thì một xã

25



×