Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

(Luận văn thạc sĩ) sự kết hợp giữa đường lối đức trị và pháp trị của nhà lê sơ (1428 1527)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (794.6 KB, 107 trang )

Viện Khoa học xà hội Việt Nam

Đại học quốc gia Hà Nội
Trờng đại học khoa học xà hội và nhân văn

Viện triết học
******

Ngô Văn Hởng

Sự kết hợp giữa đờng lối đức trị
và pháp trị của nhà lê Sơ (1428 - 1527)

luận văn thạc sĩ triết học

hà Nội - 2009


Viện Khoa học xà hội Việt Nam

Đại học quốc gia Hà Nội
Trờng đại học khoa học xà hội và nhân văn

Viện triết học
******

Ngô Văn Hởng

Sự kết hợp giữa đờng lối đức trị
và pháp trị của nhà lê Sơ (1428 - 1527)


luận văn thạc sĩ triết học
chuyên ngành : triết học
m sè

: 60 22 80

Ng−êi h−íng dÉn khoa häc: PGS. TS. Trần Nguyên Việt

hà Nội - 2009


Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc
lập của tôi. Các số liệu, trích dẫn đợc sử dụng trong luận văn hoàn toàn trung
thực, có xuất xứ rõ ràng. Các kết luận khoa học của luận văn cha từng đợc
công bố trong bất cứ công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn

Ngô Văn Hởng


MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU

2

B. NỘI DUNG

11


Chương I: NHỮNG TIỀN ĐỀ CƠ BẢN CHO SỰ HÌNH THÀNH VÀ
11
THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI TRỊ NƯỚC THỜI LÊ SƠ
1.1. Tiền đề chính trị - xã hội và kinh tế………………………………

11

1.2. Tiền đề văn hóa – tư tưởng và lịch sử …………………………

25

Chương 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐƯỜNG LỐI TRỊ NƯỚC
“ĐỨC TRỊ” KẾT HỢP VỚI “PHÁP TRỊ” THỜI LÊ SƠ VÀ Ý

47

NGHĨA LỊCH SỬ CỦA NÓ
2.1. Chủ trương của triều đại Lê Sơ về thực hiện đường lối trị nước
dựa trên sự kết hợp “đức trị” với “pháp trị” ……………………………

47

2.2. Vai trò và tác dụng của đường lối trị nước dựa trên sự kết hợp
“đức trị” với “pháp trị” trong quản lý và xây dựng đất nước thời Lê Sơ

74

2.3. Ý nghĩa của sự kết hợp “đức trị” với “pháp trị” trong đường lối
trị nước của triều đại Lê Sơ đối với xã hội Việt Nam trong lịch sử và

hiện nay………………………………………………………………….

87

C. KẾT LUẬN

96

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

99

1


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đều biết, đường lối trị nước luôn là một trong những vấn
đề mấu chốt của một nhà nước trong một thời đại nhất định. Một mặt, nó thể
hiện bản chất của nhà nước và mặt khác, bị quyết định bởi mục đích của giai
cấp cầm quyền. Đường lối trị nước còn thể hiện tinh thần bảo vệ độc lập, chủ
quyền quốc gia dân tộc của giai cấp cầm quyền. Chính vì vậy, việc tìm hiểu
đường lối trị nước của một nhà nước cụ thể sẽ giúp chúng ta hiểu biết đầy đủ
hơn về bản chất của nhà nước đó.
Ở Việt Nam, nhà nước ra đời từ khá sớm, nhưng phải đến thời đại độc
lập, tự chủ từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV mới bắt đầu xuất hiện mô hình nhà
nước phong kiến trung ương tập quyền. Đến thời Lê Sơ, mơ hình nhà nước đó
đã có những biến đổi lớn về chất, kéo theo nó là nhu cầu về xây dựng một
đường lối trị nước đảm bảo cho sự ổn định xã hội và trường tồn của vương
triều, đồng thời đáp ứng được yêu cầu an ninh quốc phòng trong lĩnh vực đối

ngoại, đặc biệt là với nước láng giềng Trung Hoa.
Triều đại Lê Sơ là một triều đại khai quốc bằng chiến thắng lịch sử vẻ
vang sau mười năm kháng chiến trường kỳ gian khổ. Do đó, sự lựa chọn một
đường lối trị nước hợp lý để tái thiết đất nước, xây dựng vương triều có ý
nghĩa vô cùng to lớn. Sự lựa chọn đường lối trị nước trên cơ sở kết hợp “đức
trị” với “pháp trị” đã có những tiền đề lịch sử quan trọng mà các triều đại
phong kiến trước đó đem lại, tạo đà cho triều đại Lê Sơ phát triển các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hoá, xã hội của đất nước, đồng thời thực hiện
được một bước chuyển biến chính trị từ quân chủ phong kiến quý tộc thời Lý Trần sang quân chủ phong kiến quan liêu. Tuy nhiên q trình phát triển của nhà
nước Lê Sơ khơng phải là theo một con đường bằng phẳng, mà trải qua những
bước thăng trầm, thậm chí thụt lùi. Chính vì vậy, cần phải có cách tiếp cận triết
học duy vật về đường lối trị nước dựa trên cơ sở kết hợp “đức trị” với “pháp trị”
dưới thời Lê Sơ mới làm rõ được vai trị và ý nghĩa của nó trong lĩnh vực quản lý
2


xã hội và điều hành đất nước của vương triều này.
Trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, chúng ta đang
tiến hành xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân địi hỏi phải xây dựng được một hệ thống pháp luật chặt chẽ trên cơ sở bảo
đảm lợi ích của nhân dân, cùng với đó là việc xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý
đáp ứng được đòi hỏi của thời đại. Điều đó địi hỏi phải có sự xem xét nghiên cứu
kế thừa những yếu tố tích cực và rút ra được những bài học từ đường lối trị nước
của các giai đoạn trước trong lịch sử để chúng ta hồn thiện được bộ máy nhà
nước và có những quyết sách thích hợp.
Với những lý do trên chúng tôi quyết đinh chọn đề tài: “Sự kết hợp
giữa đường lối đức trị với pháp trị của nhà Lê sơ (1428 – 1527)” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài và nguồn tư liệu
2.1. Tình hình nghiên cứu đề tài

Nhìn chung từ trước đến nay chưa có cơng trình chun khảo nào về
vấn đề mà luận văn đặt ra. Tuyệt đại đa số các cơng trình nghiên cứu về thời
Lê Sơ là những cơng trình sử học, văn học mới chỉ dừng lại ở miêu thuật,
phân tích, đánh giá chung về các mặt xã hội, kinh tế, văn hố, v.v., cịn về
đường lối trị nước, đặc biệt là tư tưởng trị nước dựa trên sự kết hợp “pháp trị”
với “đức trị” của nhà Lê Sơ thì chưa được đề cập đến một cách có hệ thống.
Trong các cơng trình nghiên cứu về thời Lê Sơ, mặc dù các cơng trình nghiên
cứu khơng trực tiếp đề cập đến đề tài của luận văn, song, ở đó ít nhiều đã đề
cập đến một số luận điểm liên quan đến đề tài này khi nghiên cứu về một thời
đoạn nhất định nào đó. Từ tình hình đó, có thể khái qt thành quả nghiên
cứu trước đây về thời Lê Sơ thành hai lĩnh vực cơ bản dưới đây.
Lĩnh vực thứ nhất: Những cơng trình thuộc lĩnh vực sử học về thời Lê Sơ.
Chẳng hạn như trong cuốn Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim xuất bản lần
đầu năm 1919, in lại lần thứ hai vào 1952, khi đề cập đến luật lệ thời Lê Thái Tổ,
tác giả viết: "Trong nước lúc bấy giờ có nhiều người du đãng, cứ rượu chè, cờ bạc
3


không chịu làm ăn tử tế, vậy nên đặt ra phép nghiêm để trị <...> sự nghiêm phạt
như thế thì có thái quá thật, nhưng mà khiến cho trong nước bớt có thói người cả
đời khơng chịu làm gì cả chỉ đi đánh lừa người khác mà kiếm ăn." [26; 236]. Còn
khi nhận xét về tư tưởng đức trị của Lê Thánh Tông, tác giả viết: “Vua mở nhà tế
bần để nuôi dưỡng người đau yếu và sai quan đem thuốc đi chữa bệnh cho dân
khi có dịch tễ. Vua còn đặt ra 24 điều sức cho dân xã giảng đọc để giữ lấy thói
tốt” [26; 244].
Khi nghiên cứu về các vị vua từ sau Lê Hiến Tông, tác giả cũng nhận
định: “Từ vua Lê Uy Mục trở đi thì cơ nghiệp nhà Lê mỗi ngày một suy dần,
vì từ đó về sau khơng có ơng vua nào làm được việc nhân chính … cho nên
thành ra sự giặc giã, thốn đoạt” [26; 251].
Trần Trọng Kim mặc dù có đề cập đến một số khía cạnh trong đường

lối trị nước của các nhà vua nêu trên, nhưng ông mới chỉ dừng lại ở sự liệt kê
lịch sử chưa mang tính hệ thống về vấn đề trên với tư cách là một chuyên
khảo.
Tác giả Phạm Văn Sơn trong tác phẩm Việt sử tân biên - Trần Lê thời
đại, NXB Văn hoá Á châu-Sài Gòn 1958, cũng đề cập đến một số khía cạnh
của tư tưởng đức trị của nhà Lê Sơ, nhưng cũng chỉ dừng lại ở việc liệt kê
những việc làm cụ thể trong một số tình huống, do đó chưa đưa ra những
nhận xét khái quát về đường lối trị nước thời kỳ này.
Cũng bàn đến thời Lê Sơ, tác giả Phan Huy Lê trong cuốn Lịch sử chế
độ phong kiến Việt Nam, tập II đã viết về tư tưởng đức trị như sau: “Các triều
vua thời Lê sơ, đặc bệt là Lê Lợi, có chăm lo đến đời sống nhân dân và đề ra
được một số chính sách biện pháp cứu tế xã hội ít nhiều có tác dụng thực tế…
các triều sau cũng có tiếp tục chính sách “khinh hình bạc liễm”, lập nhà tế
sinh để ni dưỡng những người đau yếu, bắt các xã trưởng, các quan lại địa
phương phải thu dưỡng những người tàn phế, bệnh tật không thân thuộc trông
nom. Trong một xã hội phong kiến tất nhiên những chính sách tốt đẹp ấy
khơng thể được thực hiện đầy đủ nhưng ít nhất cũng phản ánh một thái độ
4


quan tâm của nhà nước đối với đời sống nhân dân” [27; 38].
Trong cuốn Lịch sử Việt Nam, tập I do Ủy ban khoa học xã hội xuất
bản năm 1971, mặc dù không trực tiếp bàn đến đường lối trị nước của thời Lê
Sơ, nhưng khi viết về thời kỳ này, ban biên soạn cũng đề cập đến tư tưởng
đức trị và pháp trị như sau: “Pháp luật thời Lê cấm nơng dân bỏ làng xã ra đi.
Chính quyền dựa vào cơng xã như những đơn vị bóc lột để bắt nông dân nộp
tô thuế, chịu binh dịch và lao dịch… Tuy nhiên, trong thế kỷ XV khi nền sản
xuất đang phát triển, chính quyền cịn chăm lo đến kinh tế thì đời sống của
nơng dân và nhân dân lao động nói chung cịn tương đối ổn định” [69; 274].
Ngồi ra, trong những năm gần đây, một số luận văn, luận án và trên

một số tạp chí cũng có những cơng trình nghiên cứu hoặc trực tiếp, hoặc gián
tiếp bàn đến một số khía cạnh của đường lối trị nước thời Lê Sơ như: Chế độ
đào tạo và tuyển dụng quan chức thời Lê Sơ (1428 – 1527) luận án phó tiến sỹ
khoa học lịch sử của Đặng Kim Ngọc, Các chính sách về xã hội của nhà nước
thời Lê Sơ (1428 – 1527) luận án tiến sỹ khoa học lịch sử của Lê Ngọc Tạo,…
Song nhìn chung, những cơng trình đó mới chỉ đề cập đến một hay một số
khía cạnh của vấn đề phụ thuộc vào nhiệm vụ nghiên cứu chuyên ngành của
sử học.
Lĩnh vực thứ hai, đó là những cơng trình nghiên cứu tư tưởng và lịch sử
tư tưởng. Trước hết phải kể đến cuốn Lịch sử tư tưởng Việt Nam do Nguyễn
Tài Thư làm chủ biên xuất bản năm 1993. Trong cơng trình này, khi nhận xét
về thời Lê Sơ, các tác giả cũng đưa ra một số ý kiến về vua Lê Thánh Tông,
cho rằng, “đóng góp quan trọng của Lê Thánh Tơng là xây dựng được một
đường lối trị nước có thể đáp ứng được đòi hỏi của phát triển xã hội lúc bấy
giờ. Đó là đường lối trị nước kiểu “văn trị” hay nói cách khác là “lễ trị” hay
“đức trị”” [63; 303].
Vũ Khiêu trong cuốn Đức trị và pháp trị trong Nho giáo, xuất bản năm
1995, đã phân tích về ảnh hưởng của đường lối pháp trị đối với nhà Lê Sơ,
đặc biệt là giai đoạn Lê Thánh Tông. Tác giả đã đưa ra nhận xét chính xác
5


rằng: “Người ta có lí khi coi triều đại Lê Thánh Tông là dấu hiệu cực thịnh
của phong kiến Việt Nam <…>, thời kỳ làm vua 38 năm của ông là thời kỳ
đất nước ổn định về chính trị, vững vàng về quân sự, phát triển về mọi mặt
kinh tế - xã hội, văn hóa. Có thể coi đó là thời kỳ kết hợp hài hòa giữa đức trị
và pháp trị ở đỉnh cao của văn hóa dân tộc” [23; 33].
Gần đây, trong cuốn Lịch sử tư tưởng Việt Nam, của Huỳnh Công Bá,
xuất bản năm 2007 đã đề cập đến đường lối đức trị của Lê Thánh Tông. Tác
giả viết: “Đóng góp của Lê Thánh Tơng là đã xây dựng được một đường lối

trị nước kiểu “đức trị”. Để xây dựng xã hội đó, ơng chủ trương coi trọng và
sử dụng những người xuất thân từ Nho gia… Ông chủ trương “quả dục”, tức
là phải tu dưỡng sao cho ít tham vọng cá nhân để không làm hại đến lợi ích
của nhà nước phong kiến. Song cái mới trong đường lối “đức trị” của Lê
Thánh Tông là phải được xây dựng trên cơ sở đời sống ấm no của nhân dân”
[1; 118].
Khi đề cập về đường lối pháp trị ở Việt Nam tác giả nhận xét: “Chịu
ảnh hưởng của đường lối và tổ chức cai trị của Trung Quốc, các nhà chính trị
và Nho gia Việt Nam cũng áp dụng chủ trương “ngoại Nho, nội Pháp” họ tiếp
nhận một cách đương nhiên chủ trương cai trị dùng pháp luật của Pháp gia mà
khơng tự biết, vẫn cho đó là việc làm của đường lối nhân chính, đức trị, xem
đó là một công cụ phụ giúp cho việc cai trị” [1; 135]. Khi bàn trực tiếp đến
triều Lê Sơ, tác giả viết: “Đến triều Lê, vua Lê Thái Tổ tham khảo pháp luật
nhà Đường đặt ra chế độ Ngũ hình <…> lệ Bát nghị <…> và đặc biệt nhà vua
đã trừng trị nghiêm khắc các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè,…” [1; 136].
Ngoài ra thuộc lĩnh vực này còn bao gồm các luận văn, luận án và các bài
báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành, đây là loại hình cơng trình chiếm số
lượng lớn. Loại hình này đa phần là những cơng trình nghiên cứu về một khía
cạnh, một mặt nào đó trong tư tưởng của các nhà vua đối với quản lý xã hội
trong thời đại Lê Sơ, hoặc nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động của một vị vua
cụ thể. Do tình hình như vậy, chúng tơi chỉ nêu một số cơng trình tiêu biểu liên
6


quan đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài, đó là:
- Lê Thánh Tơng – nhà chính trị tài năng và nhà văn hóa lớn, của tác giả
Nguyễn Duy Quý đăng trên tạp chí Văn học, số 1 – 1993. Trong cơng trình này
tác giả nhận xét: “Về mặt tư tưởng, Lê Thánh Tông chủ trương tôn sùng Nho
học”<…> “Lê Thánh Tông dùng luật pháp để an dân, điều này có lý do của nó.
Nếu như khơng có luật pháp thì lấy gì để khắc phục những hậu quả từ thời Nhân

Tông để lại” <…> “Về mặt xã hội, Bộ luật Hồng Đức đã thể hiện chủ trương
pháp trị của Lê Thánh Tông”[69; 108 – 109].
- Lê Thánh Tông và sự nghiệp của ông trong bối cảnh lịch sử đất nước
thế kỷ XV, của Phan Huy Lê. Tác giả nhận xét: “Trong lịch sử quan chế Việt
Nam, Lê Thánh Tông là một người chủ trương pháp trị kiên quyết. Thành tựu
lập pháp tiêu biểu nhất của ông là Bộ Lê triều hình luật, thường được gọi là
luật Hồng Đức gồm 6 quyển, 721 điều <…>. Đây là bộ luật tương đối hoàn
chỉnh biểu thị tư tưởng pháp trị và chứa đựng nhiều nội dung tiến bộ”. [69;
160].
- Tư tưởng Lê Thánh Tông và triều đại thịnh trị của ông, của Nguyễn
Tài Thư, đăng trên tạp chí Triết học số 6 – 1997. Tác giả viết: “Lịch sử đã
chứng tỏ rằng đường lối chính trị nhân nghĩa do Nguyễn Trãi đề xuất là
đường lối thích hợp nhất trong việc xây dựng triều đại ở thời bình. Đường lối
này đã có tác dụng làm cho nền kinh tế đất nước dưới các triều vua Lê: Thái
Tổ, Thái Tông, Nhân Tông được hưng thịnh, làm cho lòng người, cả nước
ngưỡng vọng và cố kết với nhà Lê” [69; 256].
Ngồi ra cịn có nhiều các cơng trình khác nghiên cứu về thời Lê Sơ
như: “Hệ tư tưởng Lê” của Nguyễn Duy Hinh đăng trong số 6 – 1986; “Về
đường lối trị nước của Lê Thánh Tông” của tác giả Nguyễn Thừa Hỷ, in trong
Lê Thánh Tông (1442 – 1497) con người và sự nghiệp, xuất bản năm 1997….
Nhưng nhìn chung cho đến nay chưa có cơng trình nào trực tiếp đi sâu nghiên
cứu về sự kết hợp đức trị với pháp trị trong đường lối trị nước của nhà Lê Sơ
một cách đầy đủ và có hệ thống với tính cách là một q trình từ Lê Lợi cho đến
7


vị vua cuối cùng của nhà Lê Sơ để từ đó đưa ra sự khái quát triết học về đường
lối trị nước dựa trên sự kết hợp “đức trị” với “pháp trị” trong suốt một trăm năm
trị vì của triều đại này.
2.2. Các nguồn tài liệu

Đường lối trị nước của một thời đại là lĩnh vực rộng, được thể hiện trên
nhiều lĩnh vực, cho nên nguồn tài liệu mà luận văn tiếp cận, khai thác cũng
tương đối phong phú và đa dạng.
Nguồn tài liệu cơ bản và chủ yếu làm cơ sở cho việc nghiên cứu của
luận văn là bộ chính sử Đại Việt sử ký tồn thư do Ngơ Sĩ Liên và các sử thần
triều Lê biên soạn vào các thế kỷ XV – VII, đã được dịch và được nhà xuất
bản Khoa học xã hội xuất bản năm 1998.
Để nghiên cứu về đường lối pháp trị của nhà Lê sơ, một nguồn tài liệu
khác cũng khá quan trọng là bộ Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức), Huấn
điều… đều đã được dịch ra tiếng Việt hiện đại.
Cùng với các tài liệu trên, một số tài liệu khác cũng được chúng tơi sử
dụng, đó là các cơng trình chun khảo, tham khảo, sách giáo khoa, giáo
trình, luận án, luận văn, các bài báo đã được đăng tải trên các tạp chí như
Nghiên cứu lịch sử, tạp chí Triết học, tạp chí Cộng sản, v.v., tất cả đều là
những tài liệu q báu mà chúng tơi tham khảo để hồn thành luận văn của
mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn
Luận văn trình bày một cách hệ thống và phân tích nội dung đường lối
trị nước dựa trên sự kết hợp đức trị với pháp trị của nhà Lê Sơ trong sự
nghiệp tái thiết đất nước và xây dựng vương triều, đồng thời làm rõ ý nghĩa
của nó đối với Việt Nam trong lịch sử và hiện nay.
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ
sau đây:
- Tìm hiểu những tiền đề cơ bản cho sự hình thành và thực hiện đường lối
8


trị nước dựa trên sự kết hợp “đức trị” với “pháp trị” của thời Lê Sơ.
- Phân tích những nội dung cơ bản trong đường lối trị nước dựa trên sự

kết hợp “đức trị” với “pháp trị” của nhà Lê Sơ thông qua một số nhà vua tiêu
biểu của triều đại này cũng như của các nhà Nho tiêu biểu và bộ luật được
ban hành dưới triều đại này.
- Bước đầu đưa ra sự đánh giá khái quát về vai trò, tác dụng của đường
lối trị nước này đến xã hội thời Lê sơ nói riêng, đến các giai đoạn lịch sử tiếp
theo và thời đại ngày nay ở nước ta nói chung.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm của
Đảng thể hiện trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII,
IX, X về các vấn đề nhà nước, tồn tại xã hội và ý thức xã hội, tư tưởng, xem
đó là cơ sở lý luận để nhìn nhận, phân tích và đánh giá về vấn đề nhà nước,
đường lối trị nước và tư tưởng của thời Lê Sơ.
Để đáp ứng được mục đích và yêu cầu đặt ra của luận văn, trong q
trình nghiên cứu chúng tơi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu
là: phương pháp lịch sử cụ thể; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp
logic, v.v. để làm rõ đường lối trị nước thời Lê Sơ.
5. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Thông qua nguồn tư liệu thu thập được, chúng tơi hệ thống hóa các chủ
trương của vương triều Lê Sơ cũng như các tư tưởng tiêu biểu về đường lối trị
nước dựa trên sự kết hợp giữa pháp trị và đức trị. Từ kết quả đạt được, luận
văn góp phần vào việc làm rõ tư tưởng về đường lối trị nước trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy lịch sử tư tưởng Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Thông qua đường lối trị nước dựa trên sự kết hợp “đức trị” với “pháp trị”
của nhà Lê sơ, chúng tơi đi sâu vào tìm hiểu vị trí và vai trò của giai cấp phong
kiến cầm quyền cũng như ảnh hưởng của đường lối đó đến sự thịnh suy của đất
9



nước thời Lê Sơ.
Từ việc nghiên cứu đường lối trị nước của thời Lê sơ, chúng tôi rút ra
những kinh nghiệm, bài học lịch sử của nó để vận dụng vào công cuộc đổi mới
đất nước trong giai đoạn hiện nay của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước nhằm xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo còn
bao gồm 2 chương với 5 tiết.

10


Chương I
NHỮNG TIỀN ĐỀ CƠ BẢN CHO SỰ HÌNH THÀNH
VÀ THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI TRỊ NƯỚC THỜI LÊ SƠ
1.1. Tiền đề chính trị - xã hội và kinh tế
1.1.1. Nhà nước thời Lê Sơ
Khởi nghĩa Lam Sơn và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của
nhân dân ta đầu thế kỷ XV kết thúc thắng lợi vào năm 1428, đã đưa đến sự ra
đời của một triều đại mới - triều đại Lê Sơ, chấm dứt hơn 20 năm đô hộ của
nhà Minh. Lê Lợi, vị lãnh tụ kiệt xuất của phong trào khởi nghĩa được tôn lên
làm vua, mở ra một thời kỳ phát triển mới của đất nước và dân tộc. Triều đại
Lê Sơ gắn với nền văn minh Đại Việt và một nền quân chủ chuyên chế quan
liêu trọng Nho.
Trải qua 20 năm chiến tranh với biết bao mất mát, thương đau, giờ đây
giành lại được đất nước, có hồ bình, đó chính là điều kiện thuận lợi để nhân
dân ta khôi phục cuộc sống của mình. Về phía triều đình vua Lê Thái Tổ lo
việc bình cơng khen thưởng, thiết lập quan chức, bình ổn biên cương, từ chỉ
huy một đội quân chiến đấu sang điều khiển một triều đình, một quốc gia với

nội trị, ngoại giao, kinh tế, văn hoá giáo dục, Lê Thái Tổ và triều thần nhà Lê
đứng trước những khó khăn phức tạp không kém phần quyết liệt.
Về tổ chức nhà nước, nhà Lê Sơ khơng giống như mơ hình tổ chức của
nhà Trần, trên là hoàng đế dưới là các q tộc nắm giữ mọi cơng việc của
triều đình quốc gia. Dưới thời Lê Thái Tổ, vị Lam Sơn động chủ lên ngơi
hồng đế, các cơng thần đầu mục trở thành đại thần, toàn bộ tướng lĩnh khởi
nghĩa Lam Sơn trở thành thành viên của chính quyền phong kiến, họ từ bốn
phương về tụ nghĩa, giờ trong chính quyền dù họ là Lê hay được ban họ Lê
vẫn khó có thể lấy quan hệ tông tộc để quy tụ họ. Nếu so sánh nhà nước
phong kiến theo theo mơ hình Nho giáo bậc quân minh thông qua lễ nghĩa để
xác lập và thực thi hồng quyền với chúng dân thì hình mẫu này cũng khơng
thực hiện được dưới thời Lê Thái Tổ vì quần thần xung quanh Lê Lợi lúc này
11


phần nhiều là võ tướng, họ có nhiều cơng hn nhưng ít học thức, thiếu khả
năng quản lý xã hội, lãnh đạo văn hoá.
Mặc dù khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi vào 1428 nhưng nhà nước Lê Sơ
cùng với những chính sách chế độ của nó đã sớm hình thành, có mầm mống
từ những năm trước khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi hồn tồn. Có thể lấy
mốc khởi đầu cho việc hình thành nhà nước Lê Sơ là từ cuối năm Bính Ngọ
(1426) với việc Bình Định Vương Lê Lợi tiến qn ra Bắc giải phóng Đơng
Đơ.
Sau 8 năm chiến đấu đến 1426 cuộc khởi nghĩa Lam sơn đã giành được
những thắng lợi cơ bản, hình thái của cuộc chiến tranh đã có những biến đổi
căn bản có lợi cho ta. Nghĩa quân đã giải phóng được một vùng đất rộng lớn
từ Thanh Hoá vào đến Thuận Hoá, tạo thành một hậu phương vững chắc cho
cuộc chiến tranh lâu dài để giành độc lập hoàn toàn. Lực lượng nghĩa quân đã
lớn mạnh và có bước trưởng thành vượt bậc, có đủ cả bộ binh, thuỷ binh, kỵ
binh và tượng binh. Những thắng lợi to lớn về quân sự và chính trị liên tiếp

càng làm tăng thêm sức mạnh của nghĩa quân cả về vật chất và tinh thần.
Những thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn dội ra Bắc đã cổ vũ mạnh mẽ cho
nhân dân ta ở những vùng địch chiếm đóng. Trái ngược với tình hình của ta,
qn địch dù cịn đơng nhưng đã mất sức tiến cơng, tinh thần sa sút đang phải
chuyển dần sang thế phòng ngự.
Trong thời gian đóng dinh ở Bồ Đề, Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn đã
đồng thời làm hai nhiệm vụ giải phóng dân tộc và tổ chức xây dựng đất nước.
Ngay ở đây, Lê Lợi đã cho lập dinh thự, dựng tầng lầu để quan sát giặc Minh
đang bị vây trong thành Đông Quan. Sử cũ gọi là dinh Bồ Đề.
Sau chiến thắng giặc Minh vào năm 1428 Lê Lợi cịn đặt triều đình ở
đây một thời gian dài cho đến tháng 4-1428 mới chuyển vào thành Đông
Quan.
Đầu năm Đinh Mùi (1427), Lê Lợi đã đặt các chức quan tổng bốn đạo.
Sang đầu năm 1428, Lê Lợi lại chia nước thành năm đạo và đặt quan chức
12


trấn giữ.
Về văn hoá, Lê Lợi đã chia các quan đi tế thần núi, sông, miếu, xã, bái
tạ lăng tẩm các triều đại trước, truy tôn tổ tông và dâng thụy hiệu.
Tháng 4-1428, Lê Lợi và triều đình chuyển vào thành Đơng Kinh. Ngày
15 tháng 4, Lê Lợi chính thức lên ngơi hồng đế, đổi niên hiệu là Thuận
Thiên, đặt quốc hiệu là Đại Việt, đóng đơ ở Đơng Kinh.
Sau khi lên ngơi hồng đế, Lê Lợi đã bắt tay ngay vào công cuộc phục
hồi đất nước, xây dựng bộ máy tổ chức chính quyền từ trung ương tới địa
phương. Nhà nước phong kiến mới này ra đời trong hoàn cảnh đầy những khó
khăn và phức tạp.
Sau mấy chục năm bị giặc Minh thống trị, áp bức, vơ vét triệt để, nền
kinh tế nước ta đình đốn, nhân dân đói khổ. Nền văn hoá dân tộc cũng bị tiêu
huỷ nặng nề. Những sách vở, bia, ký bị chúng đốt phá, những cơng trình nghệ

thuật từng nổi tiếng một thời như chuông Quy Điền, Vạc Phổ Minh, chùa
Long Đọi …bị phá huỷ.
Trước tình hình đó, triều đình Lê Sơ đã ra sức thi hành nhiều biện pháp
tích cực nhằm phục hồi cuộc sống. Nhiệm vụ chủ yếu của thời kỳ này là giải
quyết vấn đề ruộng đất, khôi phục lại nền kinh tế, ổn định xã hội. Trong đó
lấy kinh tế nông nghiệp làm căn bản. Một trong những công việc quan trọng
lúc này là xây dựng được một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền ở
mức độ cao. Hai nhiệm vụ trước tiên mà Lê Lợi và các quần thần tập trung
giải quyết là sắp xếp lại các đơn vị hành chính trong cả nước và xây dựng bộ
máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền.
Sau khi dẹp yên giặc Minh, tổ chức chính quyền cũ được Lê Lợi xây
dựng trước đó dần dần được củng cố và phát triển. Lê Lợi đặt thêm các chức
Tướng Quốc, Thái Bảo, Thái Uý để cai trị đất nước. Lúc này lãnh thổ nước ta
bao gồm miền Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay. Trên phạm vi lãnh thổ đó,
vào năm 1428 Lê Lợi chia nước ra làm 5 đạo: Đông đạo, Tây đạo, Bắc đạo,
Nam đạo, Hải Tây đạo [59;38].
13


Đứng đầu mỗi đạo có chức Hành Khiển trơng coi các mặt quân dân và
tư pháp, nắm giữ các việc sổ sách, kiện tụng ở trong đạo. Dưới chức Hành
Khiển có các chức Tham Chi, Đồng Chi, Chủ Bạ, Đạo Thuộc. Các đạo đều
đặt các ban tả hữu giữ của cải chứa trong kho tàng. Lại đặt chức tổng quản
chỉ huy các vệ quân trong đạo.
Dưới đạo có các đơn vị hành chính nhỏ hơn như Trấn, Lộ, rồi đến Phủ,
Huyện, Châu. Mỗi đơn vị hành chính này đều có một cấp bộ chính quyền
tương đương như trấn có các chức Trấn Phủ Sứ, Lộ có các chức An Phủ Sứ,
Tổng Quản, Đồng Tri; Phủ có chức Tri Phủ, Đồng Tri Phủ; Chiêu Thảo Sứ;
riêng vùng dân tộc thiểu số thì đặt thêm chức Tri Châu, Đại Tri Châu lấy các
tù trưởng sung vào.

Đơn vị hành chính nhỏ nhất là xã. Lúc này, hệ thống chính quyền
phong kiến đã chi phối khá chặt chẽ xuống tận cấp xã. Năm 1428, Lê Lợi chia
xã làm 3 loại: đại xã gồm 100 người trở lên, trung xã gồm 50 người trở lên,
và tiểu xã gồm 10 người trở lên; số xã quan cũng được quy định: đại xã 3
người, trung xã 2 người và tiểu xã 1 người.
Tồn bộ hệ thống chính quyền đều tập trung quyền hành về tay triều
đình trung ương. Đứng đầu triều đình là nhà vua, rồi đến các chức tả hữu
Tướng Quốc, Tam Thái, Tam Thiếu, Tam Tư, đều dành riêng cho những tôn
thất và đại công thần. Bên dưới là hai ban văn võ.
Về ban văn có các chức Đại Hành khiển, Thượng thư các bộ và các cơ
quan chuyên trách như Nội mật viện, Ngũ hình viện, Bí thư giám, Hàn lâm
viện, Ngự sử đài...
Về ban võ có các chức Đại tổng quan, Đại đơ đốc, Đô tổng quản chỉ
huy quân thường trực ở kinh thành và các vệ quân ở các đạo.
Trong thời kỳ Lê Sơ, đặc biệt giai đoạn đầu, chúng ta thấy mặc dù bộ
máy nhà nước còn sơ sài nhưng ở đó đã thể hiện được sự giàng buộc, hỗ trợ
nhau của các cơ quan nhà nước trong cai trị dân chúng. Có thể hệ thống hố
bộ máy hành chính và quan chức của Lê Sơ như sau:
14


Hệ thống đơn vị hành chính

Quan chức đứng đầu

Triều đình

Vua

Đạo


Hành khiển

Trấn - Lộ

Trấn phủ sứ - An phủ sứ

Phủ - Huyện - Châu

Tri phủ - Tri huyện - Tri châu



Xã quan

Việc chia như vậy cũng phần nào làm rõ trách nhiệm của từng quan
chức lúc bấy giờ. Tính cho đến trước thời Lê Thánh Tông hệ thống nhà nước
Lê Sơ bao gồm:
1. Đứng đầu nhà nước là Vua Lê có toàn quyền trong việc tuyển bổ, bãi
miễn quan lại cũng như đối nội, đối ngoại.
2. Các cơ quan văn phòng: trực tiếp giúp đỡ nhà vua trong điều hành và
chỉ đạo công việc, bao gồm: các sảnh (Trung thư sảnh, Thượng thư sảnh, Hạ
mơn sảnh, Hồng mơn sảnh, Nội thị sảnh), đó là những cơ quan giúp nhà vua
hoạch định các chính sách, đường lối trị nước, ban hành và kiểm tra thực hiện
các chủ trương của nhà nước; Hàn Lâm viện (đứng đầu là Hàn lâm đại học sỹ,
có nhiệm vụ soạn thảo thơ, văn, chế, biểu...); Bí Thư giám (đứng đầu là Bí
thư giám học sỹ, là cơ quan trông coi thư viện của nhà vua).
3. Các cơ quan đầu não: được nhà vua uỷ nhiệm, thay mặt nhà vua để
cai trị, điều hành toàn bộ các hoạt động trong nước. Đứng đầu là các Tể
tướng, Á tướng, Tướng quốc và phó Tướng quốc. Bao gồm các cơ quan như:

Chính sự viện và Nội Mật viện có nhiệm vụ coi xét các việc trọng đại của
triều đình.
4. Các cơ quan chun mơn gồm có: Quốc sử viện, Thái chúc viện,
Quốc Tử Giám, Tam quán, Ngũ Hình viện, Đình Uý ty, Ngự sử đài.
Năm 1433, vua Thái Tổ chết, Thái tử Ngun Long lên nối ngơi. Đó là
vua Thái Tơng với hai niên hiệu là Thiệu Bình (1434 - 1439) và Đại Bảo
(1440 - 1442). Nguyên Long lên làm vua khi mới 11 tuổi, mọi việc trong triều
lúc đó đều do phụ chính Lê Sát quyết đốn. Năm 1437, Thái Tông giết Lê
15


Sát, trực tiếp nắm quyền hành. Trong 9 năm làm vua của mình Thái Tơng
cũng đã đề ra nhiều chính sách góp phần chỉnh đốn lại triều đình, ổn định xã
hội.
Năm 1442, Thái Tông chết, Thái tử Bang Cơ lên ngơi khi đó mới 2
tuổi. Đó là vua Nhân Tơng với 2 niên hiệu là Thái Hoà (1443 - 1453) và Diên
Ninh (1454 - 1459). Trong thời kỳ đầu, tức những năm thuộc niên hiệu Thái
Hoà, Tuyên Từ hoàng thái hậu nhiếp chính, nắm mọi quyền bính trong triều.
Thái hậu chém, giết công thần, buông thả cho quan lại tham ô, hối lộ. Nền
kinh tế trong nước không được chú trọng. Trong nước xảy ra nhiều thiên tai,
nhiều nơi mất mùa, nạn đói kém xảy ra liên miên. Từ năm 1453, Nhân Tông
mới thực sự nắm quyền và đã đề ra được một số luật lệ, quy định một số chế
độ cho nhà nước Lê Sơ, kinh tế và xã hội dần có những chuyển biến mới.
Năm 1459, cuộc phản biến của Lê Nghi Dân xảy ra, hai mẹ con Nhân
Tông đều bị giết chết. Nghi Dân lên ngôi đổi niên hiệu là Thiên Hưng. Mặc
dù thời gian cầm quyền của Nghi Dân chỉ có 8 tháng nhưng ơng cũng đã củng
cố lại triều đình trung ương. Nghi Dân chia đặt quan chức trong triều làm 6
bộ như vậy đến thời Nghi Dân triều đình đã đủ 6 bộ là Lại, Lễ, Hộ, Binh,
Hình, Cơng, đồng thời Nghi Dân cịn đặt ra 6 khoa. Trong khoảng thời gian
cầm quyền của mình Nghi Dân cũng cố gắng khơi phục kinh tế ổn định xã hội

nhưng với định kiến về kẻ cướp ngôi nên Nghi Dân không được sự đồng
thuận nhiều từ phía các quan lại trong triều. Nghi Dân làm vua được 8 tháng
thì các cơng thần của Nhà Lê do Nguyễn Xí, Đinh Liệt cầm đầu đã nổi binh
giết bọn tay chân của Nghi Dân rồi phế Nghi Dân xuống làm Lệ Đức Hầu sau
đó bắt phải thắt cổ tự tử.
Sau khi phế bỏ Nghi Dân, con thứ của Thái Tông là Tư Thành được
mời lên làm vua tức Lê Thánh Tông nổi tiếng trong lịch sử phong kiến Việt
Nam. Thánh Tông với hai niên hiệu là Quang Thuận (1460 - 1469) và Hồng
Đức (1470 - 1497) là vị vua ở ngơi lâu nhất của thời Lê Sơ. Ơng cũng là vị
vua đã góp phần quan trọng nhất trong việc củng cố chế độ quân chủ quan
16


liêu tập quyền trung ương. Trong thời Thánh Tông bộ máy nhà nước quân
chủ trung ương đã phát triển tới mức cao nhất của nó. Các chế độ, quy chế về
mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hố đều được hồn thành ở thời Thánh Tơng,
làm mẫu mực cho các triều đại phong kiến sau này.
Năm 1466, Lê Thánh Tông chia lại các đơn vị hành chính, chia cả nước
làm 12 đạo: Thánh Hoá, Nghệ An, Thuận Hoá, Thiên Trường, Nam Sách,
Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Thái Nguyên,
Lạng Sơn. Hai huyện Quảng Đức và Thọ Xương vốn là đất kinh kỳ thì đặt
thành một khu vực hành chính đặc biệt trực thuộc triều đình gọi là phủ Trung
Đơ.
Đứng đầu mỗi đạo có hai ty: Đơ ty quản lĩnh quân đội, đứng đầu là
Tổng binh và Thừa ty trơng coi việc hành chính và tư pháp, đứng đầu là
Tuyên chính sứ, sau này đổi thành Thừa chính sứ. Dưới đạo có phủ, châu rồi
đến huyện và xã. Việc chia nhỏ các khu vực hành chính này thể hiện một
bước phát triển của nhà nước quân chủ tập quyền trung ương, giúp cho đường
lối cai trị sau này của ông.
Năm 1467, Thánh Tông ra lệnh cho các đạo phải đi điều tra khám xét

núi sông đồng ruộng và sưu tập các sự tích trong xứ rồi vẽ tranh thành bản đồ
ghi chú rõ ràng gửi lên bộ Hộ để chuẩn bị vẽ một tập bản đồ cả nước. Năm
1469, tập bản đồ này hoàn thành gồm 12 đạo thừa tuyên là: Thanh Hoá, Nghệ
An, Thuận Hoá, Hải Dương, Nam Sơn, Sơn Tây, Kinh Bắc, An Bang, Tuyên
Quang, Hưng Hố, Lạng Sơn, Ninh Sóc. Đến năm 1471, sau khi chiếm thêm
một phần đất Chiêm Thành, Lê Thánh Tông đặt thêm thừa tuyên Quảng Nam.
Để tập trung quyền lực về tay mình, năm 1471 Lê Thánh Tơng đặt thêm
Ty Hiến sát ở các đạo. Nhiệm vụ của các Ty Hiến sát là xét xử kiện tụng và
giám sát mọi cơng việc trong đạo để kịp thời tâu trình lên triều đình. Như
vậy, điểm đặc biệt trong bộ máy nhà nước Lê Sơ thời Thánh Tơng là việc
hồn chỉnh tổ chức thanh tra giám sát. Đó chính là Ngự Sử đài ở Trung ương
và Hiến sát sứ ty ở cấp đạo thừa tuyên.
17


Dưới thời Lê Thánh Tông, vào năm 1490, ông lại chia nước làm 13 xứ,
gồm: Thanh Hoá, Nghệ An, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải dương, Thái
Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hố, Lạng Sơn, An Bang, Thuận Hố và
Trung Đơ phủ, với 53 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường và
6851 xã.
Về tổ chức chính quyền nhà nước đến thời Lê Thánh Tông cũng được
sắp xếp, chấn chỉnh lại nhằm tập trung mọi quyền lực vào tay nhà vua kiểm
sốt chặt chẽ các cấp địa phương. Thậm chí, để tăng cường quyền lực của nhà
vua, Lê Thánh Tông đã bỏ chức Tể tướng, trực tiếp nắm hết quyền bính vào
tay. Chế độ quân chủ quan liêu tập quyền đến đây đã phát triển đến đỉnh cao
của nó.
Năm 1471, Lê Thánh Tông ban bố lệnh cải tổ lại bộ máy chính quyền
trung ương, trong đó quy định rõ trách nhiệm của các chức quan và tập trung
quyền bính vào tay mình: "Đất đai bờ cõi ngày nay so với trước kia khác nhau
nhiều lắm; Không thể không thân hành nắm quyền chế tác, làm trọn đạo biến

thông. Ở trong qn vệ đơng đúc thì năm phủ chia nhau nắm giữ, việc cơng
bề bộn thì sáu bộ bàn nhau mà làm. Cấm binh coi giữ ba ty để làm nanh vuốt,
tim óc. Sáu khoa để xét bác trăm ty, sáu tự để thừa hành mọi việc. Thơng
chính sứ ty để tuyên bố đức hoá của vua và đề đạt nguyện vọng của dân. Ngự
sử án sát để tâu hặc các quan làm bậy, soi xét ẩn khuất cho dân. Bên ngồi thì
mười ba thừa ty cùng tổng binh coi giữ địa phương, đơ ty thủ ngự thì chống
giữ các nơi xung yếu, phủ, châu, huyện là để gần dân, bảo, sở, quan là để
chống giặc; tất cả đều liên quan với nhau, ràng buộc lẫn nhau. Do đó, gọi
lính, lấy quân là việc của đốc phủ, mà Bộ binh phải nắm chung; chi ra thu vào
là chức của Hộ bộ, mà Hộ khoa phải giúp đỡ, Lại bộ thăng bổ lầm người thì
Lại khoa được phép bác bỏ. Lễ bộ nghi chế khơng hợp lệ, thì Lễ khoa có
quyền hặc tâu. Hình khoa xem xét cơng việc xử án của Hình bộ phải trái như
thế nào; Cơng khoa kiểm điểm q trình làm việc của Cơng bộ siêng năng hay
lười biếng. Đến như việc xét duyệt sổ sách quân nhu hàng đống, hay phân biệt
18


chọn lựa tướng suý, thiên tỳ, trong các quân của thủ phủ thì các quan kinh lịch,
thủ lĩnh đều được phép tra xét, đàn hặc cả" [36; 454].
Dưới thời Lê Thánh Tông kinh tế đặc biệt được coi trọng, Lê Thánh
Tông đã đặt ra một số cơ quan chuyên trông coi về nông nghiệp như Sở đồn
điền trông coi về ruộng đất; sở Tàm tang trông coi việc trồng dâu nuôi tằm;
Sở Thực thái coi việc trồng rau; Sở Điền mục coi việc chăn ni gia súc.
Ngồi ra, thời Lê Thánh Tơng cịn có các chức Khuyến nơng sứ để khuyên
răn dân chú trọng về nghề nông, chức Hà đê sứ để trông nom việc đê điều cho
dân.
Như vậy, cho đến thời Lê Thánh Tơng, trải qua q trình xây dựng và
chỉnh đốn, chính quyền Lê Sơ đã đạt đến sự phát triển hồn thiện. Đó là một
chính quyền qn chủ quan liêu tập trung cao độ thể hiện sức mạnh chi phối
của triều đình trung ương xuống các địa phương và quyền chuyên chế tuyệt

đối của nhà vua. Dưới thời Lê Thánh Tông nước ta đã đạt đến đỉnh cao của sự
thịnh vượng trong lịch sử phong kiến. Tuy nhiên, chỉ mấy năm sau khi Lê
Thánh Tông mất, đất nước đã bước vào thời kỳ khủng hoảng toàn diện, triền
miên và kéo dài trong lịch sử nước ta, mà triệu chứng mở đầu là vào các triều
vua Uy Mục đế (1505 - 1509) và Tương Dực đế (1510 - 1516). Chúng tơi sẽ
phân tích kỹ điều này trong chương sau.
Nhà nước Lê Sơ như chúng tơi đã phân tích mà cụ thể là nhà vua người đứng đầu nhà nước chính là chủ thể của đường lối trị nước đồng thời
cũng là cơ sở để đường lối trị nước đó có thể thÿ921ÿfcÿÿÿÿu7879?n
đư̖ÿÿÿfc.
1.1.2. Xã hội thời Lê Sơ
Sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn Năm 1428, vương triều Lê
Sơ được thành lập, đất nước trải qua những chuyển biến mới với những thành
tựu rực rỡ trong công cuộc khôi phục kinh tế, ổn định xã hội và xây dựng
quốc gia Đại Việt độc lập tự chủ.
Nhà Lê Sơ đã cố gắng xây dựng một nhà nước phong kiến với chế độ
19


quân chủ tập quyền trong khuôn khổ một quốc gia nơng nghiệp. Nhà nước
Đại Việt thời Lê Sơ có những thay đổi cơ bản khác về chất so với Đại Việt
thời trước. Sự khác biệt về chất thể hiện tập trung trên các mặt: chính trị, kinh
tế, văn hố - xã hội.
Về chính trị, nhà nước quân chủ phong kiến quan liêu đã từng bước
được xây dựng thay thế nhà nước quân chủ quý tộc thân dân của thời Lý Trần. Nhà Lê đặc biệt đến thời Lê Thánh Tông đã trở thành nhà nước phong
kiến quan liêu tập quyền cao độ, tất cả các vua của nhà Lê Sơ đều muốn xây
dựng một nhà nước phong kiến quan liêu tập quyền. Các quan lại thời Lê Sơ
chủ yếu do thi cử hoặc tiến cử ngoài ra là các bậc quan lại có cơng hn, các
q tộc thân cận nhà Lê hầu hết không đảm nhiệm các chức vụ quan trọng
thậm trí ở một số triều đại họ cịn bị sát hại vì lo sợ sự tranh quyền đoạt lợi.
Về kinh tế, đó là sự phát triển mạnh mẽ của chế độ sở hữu tư nhân và sự

xuất hiện của giai cấp địa chủ quan lại và phi quan lại làm chỗ dựa cho nhà
nước. Kinh tế thời Lê Sơ chủ yếu là kinh tế nông nghiệp, gắn liền với nó là
vấn đề ruộng đất.
Nếu như ở thời Trần tình trạng mua bán ruộng đất đã trở thành phổ
biến, không chỉ trong nhân dân mà nhà nước cũng bán ruộng đất cho nhân
dân. Cùng với việc mua bán ruộng đất, chế độ điền trang thái ấp giành riêng
cho vương hầu, quý tộc làm nảy sinh một tầng lớp địa chủ mới gồm nhiều
loại: quý tộc, tông thất quan lại, thứ dân. Đối lập với tầng lớp này là nông
dân, lao động gồm nhiều thành phần khác nhau: tiểu nông, tá điền, dân nghèo
làm thuê, nô tỳ…đứng đầu bậc thang đẳng cấp trong xã hội thời Trần là tầng
lớp vương hầu quý tộc với nhiều đặc quyền đặc lợi và đáy cùng của xã hội là
nơng nơ, nơ tỳ có nguồn gốc khác nhau xuất hiện phổ biến với chế độ điền
trang thái ấp của quý tộc. Nhưng sang thời Lê Sơ trải quá trình vận động phát
triển kinh tế, mở mang văn hoá, xã hội Đại Việt trong giai đoạn này khác xã
hội thời Lý - Trần và các xã hội trước đó trên nhiều phương diện. Trong đó,
quan trọng nhất là chế độ điền trang ở giai đoạn này về cơ bản đã bị xoá bỏ.
20


Nhà Lê Sơ ngay từ đầu đã chủ trương xoá bỏ chế độ điền trang thái ấp. Tuy
nhiên, một số điền trang của triều đại trước vẫn còn tồn tại nhưng đã bị nhà
nước kiểm soát chặt chẽ. Cùng với chế độ điền trang, chế độ nô tỳ cũng bị thủ
tiêu, còn chăng chỉ là những tù binh trong các cuộc chiến tranh bắt được,
được sử dụng chủ yếu trong việc khẩn hoang, lập đồn điền và nô bộc phục vụ
cho các thế gia phú hào tồn tại dai dẳng như một tàn dư của chế độ cũ.
Về văn hoá tư tưởng, ở thời Lê Sơ hệ tư tưởng Nho giáo chiếm vị trí
chính thống, độc tơn. Nếu như xã hội thời Lý - Trần, Phật giáo được coi là
quốc giáo chi phối mọi hoạt động của nhà nước và sinh hoạt xã hội thì sang
thời Lê, Phật giáo, Đạo giáo bị đẩy lùi. Nho giáo được nhà nước đặc biệt suy
tôn và là công cụ tinh thần để trị nước an dân. Dưới thời Lê Thái Tổ nhiều

trường học đã được mở xuống tận dưới Lộ, thu nạp mọi đối tượng vào học trừ
những người xướng ca và tội nhân.
Cùng với việc đưa Nho giáo lên địa vị độc tôn, thời Lê Sơ giáo dục
khoa cử đặc biệt được coi trọng và là phương thức chủ yếu trong tuyển chọn
quan lại. Trải qua 100 năm thống trị Nhà Lê Sơ đã mở được 26 kỳ thi với 989
tiến sỹ. Số trí thức này hầu như đi theo con đường quan lộ, là nguồn bổ sung
chủ yếu cho bộ máy nhà nước.
Về kết cấu của xã hội, nếu dựa theo cách xem xét truyền thống là dựa
vào nghề nghiệp bao gồm quan và tứ dân thì xã hội thời Lê Sơ bao gồm các
tầng lớp như: sĩ, nông, công, thương.
Nếu như thời Trần, vua chia sẻ quyền lực với các vương hầu q tộc,
tầng lớp này có vai trị quan trọng trong sự nghiệp chống ngoại xâm, dẹp loạn
và trong quản lý xây dựng đất nước thì đến thời Lê Sơ đặc biệt dưới thời Lê
Thánh Tông, nhà nước đã được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền cao độ. Tất
cả quyền lực tập trung vào tay vua, nhà vua tự mình giữ quyền chế tác, điều
khiển đất nước. Dưới thời Lê Sơ dù thời đầu hay giai đoạn sau các quan lại
đều có điểm chung là họ xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau của xã hội
thông qua hai con đường chủ yếu là công huân và tài năng (thi cử hoặc tiến
21


cử) của từng người.
Dù xuất thân từ tầng lớp nào thì khi bước vào quan trường họ đều được
xếp vào bậc "cha mẹ của dân", với dân họ có nghĩa vụ "chăm dắt". Quan và
dân là hai tầng lớp cùng tồn tại trong xã hội, trong đó quan có nhiều cấp bậc,
dân có nhiều tầng lớp, nhưng có một điểm chung đó là họ đều là thần dân của
vua, tất cả đều là đối tượng xã hội của nhà nước quân chủ do nhà vua đứng
đầu.
Quan dưới thời Lê bao gồm hai ban văn - võ, có nhiều tầng lớp xuất
thân qua thi cử, bảo cử hoặc tiến cử. Tuy nhiên quan lại trong buổi đầu thiết

lập vương triều Lê Sơ chủ yếu là các cá nhân có cơng khai quốc cơng thần, họ
có nhiều cơng hn trong chiến trận nhưng lại ít học thức. Tầng lớp này dần
bị thay thế bởi tầng lớp quan lại được đào tạo qua thi cử ở các triều đại sau
này. Đội ngũ quan chức thời Lê Sơ rất đồ sộ gồm quan trong và ngoài triều
với phẩm hàm xếp sắp thành 18 bậc (chánh và tòng) từ nhất phẩm đến cửu
phẩm, tập hợp trong bộ máy nhà nước có nhiệm vụ quản lý đất nước, cai trị
nhân dân, tuyệt đối trung thành với nhà vua.
Cùng với quan lại là tầng lớp tứ dân, bao gồm:
- Sĩ: dưới thời Lê Sơ tầng lớp này xuất hiện ngày càng nhiều. Họ là
những người học Nho, xuất thân từ nhiều tầng lớp của xã hội và là nguồn để
tuyển vào đội ngũ quan lại. Tuy nhiên, không phải ai trong tầng lớp này cũng
được ra làm quan, một khi làm quan họ hiện diện trong xã hội với hai tư cách
vừa là bậc cha mẹ của dân, vừa là nho sĩ. Nếu không làm quan họ về làm thầy
gắn chặt với đời sống làng xã, được xếp vào hàng đầu của tứ dân. Chính vì
vậy mà dù ở chốn quan trường hay nơi thôn xã họ đều được xã hội trọng
vọng.
- Nông: đây là bộ phận chiếm đa số trong xã hội phong kiến Việt Nam
nói chung. Họ là lực lượng sản xuất chủ yếu tạo ra của cải cho xã hội, đồng
thời là nguồn cung cấp binh lính, lao dịch cho đất nước. Dưới thời Lê Sơ tầng
lớp này bị phân hoá mạnh mẽ bao gồm nhiều hạng từ người có ruộng tư hữu,
22


×