Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

(Luận văn thạc sĩ) một số yếu tố xã hội ảnh hưởng đến lối sống của thanh niên việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (936.54 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------

NGUYỄN THỊ THANH HƢƠNG

MỘT SỐ YẾU TỐ XÃ HỘI ẢNH HƢỞNG
ĐẾN LỐI SỐNG CỦA THANH NIÊN
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội-2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------

NGUYỄN THỊ THANH HƢƠNG

MỘT SỐ YẾU TỐ XÃ HỘI ẢNH HƢỞNG
ĐẾN LỐI SỐNG CỦA THANH NIÊN
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: CNXHKH
Mã số

: 602285


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN NGỌC THÀNH

Hà Nội-2011


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................1
NỘI DUNG .......................................................................................... 18
Chƣơng 1 .................................................................................................... 18
QUAN NIỆM VỀ LỐI SỐNG VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC
XÂY DỰNG LỐI SỐNG ĐỐI VỚI THANH NIÊN ................................. 18
1.1. Quan niệm về lối sống ......................................................................... 18
1.1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về lối sống ................ 18
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về lối sống ........................................ 24
1.1.3.Khái niệm lối sống ................................................................. 31
1.2. Xây dựng lối sống đối với thanh niên Việt Nam hiện nay ................ 37
1.2.1. Thanh niên và đặc điểm của thanh niên ............................... 37
1.2.2. Vị trí, vai trị của thanh niên Việt Nam ................................. 46
1.2.3. Tầm quan trọng của việc xây dựng lối sống đối với thanh niên
......................................................................................................... 49

Chƣơng 2 ................................................................................ 52
NHỮNG YẾU TỐ XÃ HỘI ẢNH HƢỞNG ĐẾN LỐI SỐNG ................ 52
CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY-VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP
..................................................................................................................... 52
2.1. Các yếu tố xã hội ảnh hƣởng đến lối sống của thanh niên Việt Nam
hiện nay ....................................................................................................... 52
2.1.1. Gia đình và giáo dục gia đình ................................................ 52
2.1.2. Nhà trường và giáo dục học đường ....................................... 63
2.1.3. Truyền thông hiện đại, đặc biệt là internet ............................ 68



2.1.4. Đường lối của Đảng và Chính sách, pháp luật của nhà nước
đối với thanh niên ............................................................................ 78
2.1.5. Các tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên ....................... 85
2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trị tích cực của các
yếu tố xã hội trong xây dựng lối sống của thanh niên Việt Nam hiện
nay ............................................................................................................... 92
2.2.1. Giải pháp liên quan đến đường lối, chính sách thanh niên của
Đảng và Nhà nước ........................................................................... 92
2.2.2. Giải pháp liên quan đến các tổ chức, đoàn thể của thanh niên
......................................................................................................... 93
2.2.3. Giải pháp liên quan đến gia đình và giáo dục gia đình dối với
thanh niên ........................................................................................ 96
2.2.4. Giải pháp liên quan đến giáo dục học đường ....................... 99
2.2.5. Giải pháp liên quan đến truyền thông đại chúng ................ 101
2.2.6. Giải pháp liên quan đến chính bản thân thanh niên ................... 104

KẾT LUẬN .......................................................................... 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………….99


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, các quốc gia đã nhận thức được vai trò quan
trọng của nguồn nhân lực đối với sự phát triển đất nước. Đảng ta cũng đã
khẳng định: nguồn lực con người là nguồn lực cơ bản, có ý nghĩa quyết định
đối với sự phát triển bền vững của xã hội. Đây là nguồn lực của mọi nguồn
lực, tài nguyên của mọi tài nguyên. Con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu
và là mục tiêu của sự phát triển. Trong đó, thanh niên được đặt ở vị trí trung

tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người,
chăm lo, phát triển cho thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực đảm bảo
cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.
Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa X đã
xác định: “Tiếp tục xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng yêu
nước, tự cường dân tộc; kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; có đạo đức cách mạng, ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn hóa, vì
cộng đồng; có năng lực, bản lĩnh trong hội nhập quốc tế; có sức khỏe, tri
thức, kỹ năng và tác phong công nghiệp trong lao động tập thể, trở thành
những công dân tốt của đất nước…” [11, tr. 43]
Lối sống là nền tảng văn hóa để thanh niên có thể phát huy được vai
trị chủ thể tích cực của mình trong cuộc sống; là cái chi phối, điều khiển
hoạt động và hành vi sống hằng ngày của họ. Nghiên cứu lối sống của thanh
niên hiện nay đang trở thành một yêu cầu cấp bách của xã hội. Thanh niên
giữ vai trị to lớn khơng chỉ trong lĩnh vực xây dựng kinh tế, bảo vệ Tổ quốc
mà còn đi đầu trong việc tạo dựng một lối sống mới của đất nước, hình
thành diện mạo con người mới xã hội chủ nghĩa. Các hiện tượng về lối sống
thanh niên liên quan tới mọi quan hệ xã hội, quan hệ tư tưởng, chính trị, đạo
đức, kinh tế, văn hoá, luật pháp, khoa học…


Song thế giới đang diễn ra những biến động to lớn, những tác động nhiều
chiều của xu thế toàn cầu hóa, q trình giao lưu văn hóa thời kỳ hiện đại, đang
đặt thanh niên trước những đòi hỏi, thách thức mới. Đặc biệt, do tác động mặt
trái của kinh tế thị trường, lối sống của thanh niên có nhiều biểu hiện tiêu cực.
Một bộ phận ngày càng gia tăng của giới trẻ bị sa vào các tệ nạn xã hội và phạm
tội, trong đó nghiệm trọng nhất là đại vấn nạn HIV/AIDS, nạn nghiện chất ma
túy, nạn mãi dâm, nạn hành xử bạo lực…và gần đây nhất là nạn bị lệ thuộc vào
“thế giới ảo”. Nếu những vấn nạn này khơng bị ngăn chặn và đẩy lùi thì những
thế hệ kế tiếp sẽ bị đầu độc và bị tước đoạt tương lai. Từ năm 2002 đến nay có

hơn 10.000 vụ phạm pháp hình sự do người chưa thành niên thực hiện, chiếm
khoảng 20% số vụ việc. Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tào, có
gần 255.000 học sinh, sinh viên bỏ học. Tỷ lệ người chơi game online ở lứa tuổi
đi học là hơn 70%. Đặc biệt, Việt Nam luôn nằm trong top 3 các nước trên thế
giới có tỷ lệ nạo phá thai lớn nhất, trong đó, 20% người nạo phá thai ở trong lứa
tuổi vị thành niên. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những biểu hiện này, nhưng
có thể thấy một số bộ phận thanh niên Việt Nam hiện nay đang có biểu hiện lệch
lạc về lối sống. Đó là những vấn đề của tồn xã hội, nhưng trước hết là của chính
bản thân thanh niên.
Năm 2011 được Đảng và Nhà nước chọn là năm thanh niên với nhiều
trọng trách đặt ra cho thanh niên trong việc đóng góp về xây dựng kinh tế, chính
trị, xã hội của đất nước. Trong đó, một vấn đề quan trọng là xây dựng lối sống
văn hóa cho thanh niên. Để đưa ra những khuyến nghị khoa học, những giải
pháp góp phần xây dựng lối sống lành mạnh cho thế hệ trẻ trong tương lai thì
việc nghiên cứu những yếu tố tác động đến lối sống của thanh niên Việt Nam
hiện nay là hết sức cần thiết.
Vì những lý do đó, tơi đã chọn vấn đề: “Một số yếu tố xã hội ảnh hưởng
đến lối sống của thanh niên Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ.


2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, có nhiều cơng trình nghiên cứu trực tiếp
hoặc gián tiếp tiếp cận đến vấn đề thanh niên, lối sống và xây dựng lối sống
thanh niên. Ở đây, chúng tôi sẽ điểm qua những cơng trình chính như sau:
- Nguyễn Ánh Hồng (2002): Phân tích về mặt tâm lý học lối sống của
sinh viên thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ
triết học, mã số 5.06.02, Đại học sư phạm Hà Nội.
Từ việc làm rõ những cơ sở lý luận về lối sống sinh viên, tác giả luận
án đã phân tích nội dung tâm lý, đặc điểm biểu hiện của lối sống sinh viên qua
hoạt động học tập và qua sự lựa chọn các hoạt động khác, phân biệt ba kiểu

sống đặc trưng của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù các vấn đề này
được xem xét dưới góc độ tâm lý học, song những phân tích của tác giả về
khái niệm lối sống và những biểu hiện trong lối sống của sinh viên thành phố
Hồ Chí Minh là rất đáng chú ý.
- Đặng Quang Thành (2005): Xây dựng lối sống có văn hóa của thanh
niên Thành phố Hồ Chí Minh trong cơng cuộc đổi mới theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, Luận án Tiến sĩ triết học, mã số:62.22.85.01, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Tác giả luận án đã làm rõ khái niệm và đặc trưng của lối sống có văn
hóa, tầm quan trọng của hoạt động xây dựng lối sống có văn hóa của thanh
niên Thành phố Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cơng nghiệp hóa hiện nay.
Đồng thời, tác giả còn chỉ ra các yếu tố và thực trạng xây dựng lối sống có
văn hóa của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh những năm đổi mới vừa qua.
Trên cơ sở đó, luận án nêu lên phương hướng chung, quan điểm cơ bản và đề
xuất những giải pháp chủ yếu để nâng cao hơn nữa hiệu quả xây dựng lối
sống có văn hóa của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới ở thành phố hiện nay.


- Lê Như Hoa (2003): Bản sắc dân tộc trong lối sống hiện đại, Viện
Văn hóa, Nxb. Văn hóa thơng tin, Hà Nội.
Cuốn sách tập hợp các nghiên cứu đề cập đến một số vấn đề của lối
sống như bản sắc dân tộc trong lối sống, lối sống đô thị, lối sống gia đình và
lối sống thanh niên. Đặc biệt, các tác giả đã phác họa vài nét thực trạng suy
thối, tha hóa trong lối thanh niên hiện nay trên các phương diện: hoạt động
lao động, hoạt động văn hóa thể thao, hoạt động chính trị - xã hội và tình u,
hơn nhân gia đình. Từ việc nghiên cứu lý luận về lối sống và thực trạng lối
sống của thanh niên, đưa ra những biện pháp để giáo dục lối sống trong thanh
niên.
- Đặng Cảnh Khanh (2006): Xã hội học thanh niên, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội.
Đây là một nghiên cứu đồ sộ và chuyên sâu, đề cập đến một loạt các
vấn đề lý luận và thực tiễn căn bản nhất liên quan tới thanh niên Việt Nam với
tính cách là một nhóm xã hội khơng đồng nhất, trong đó, định hướng giá trị,
văn hóa, cấu trúc của thanh niên và phong trào thanh niên đã được khảo cứu
và phân tích trong mối liên hệ, tương tác đa chiều với một số yếu tố kinh tế,
xã hội, văn hóa.
Ngồi ra, có thể kể đến các cơng trình khác liên quan trực tiếp đến vấn
đề xây dựng lối sống cho thanh niên như: Hồ Tuyết Dung (2000): Văn hóa
thẩm mỹ với việc xây dựng lối sống cho thanh niên đô thị hiện nay, Tạp chí
Sinh hoạt lý luận, số 2; Nguyễn Thị Mỹ Trang (2006): Xây dựng lối sống văn
hóa cho thanh niên hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 6….
Vai trò, tác động của một số yếu tố trong việc xây dựng lối sống cũng
đã được đề cập đến trong nhiều cơng trình nghiên cứu. Tiêu biểu là:
- Võ Văn Thắng (2006): Xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay, Nxb.
Hà Nội.


Cuốn sách trình bày sự kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc, thực trạng và những vấn đề đang đặt ra trong việc kế thừa và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc. Trên cơ sở đó, cuốn sách
nêu lên phương hướng, giải pháp kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc trong xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay.
- Huỳnh Khái Vinh (Chủ biên), (2001): Một số vấn đề về lối sống,
đạo đức, chuẩn giá trị xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội.
Trong cuốn sách, các tác giả đề cập đến những vấn đề cơ bản của
lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội. Đồng thời, cuốn sách làm rõ mối
quan hệ giữa lối sống, đạo đức với sự phát triển văn hóa và con người.
Đặc biệt, các tác giả phân tích sự tác động của các nhân tố chính trị, kinh
tế, xã hội tới lối sống, đạo đức, chuẩn xã hội trong giai đoạn cơng nghiệp

hóa, hiện đại hóa.
- Nguyễn Hồng Hà (2005): Mơi trường văn hóa với việc xây dựng lối
sống và con người Việt Nam, Nxb. Văn hóa thơng tin.
Trên cơ sở phân tích thực trạng mơi trường văn hóa ở nước ta, tác giả
đi đến lý giải về vai trị của mơi trường văn hóa với việc xây dựng lối sống
và con người. Từ đó, tác giả chỉ ra những giải pháp cơ bản phát triển mơi
trường văn hóa vì sự phát triển xã hội.
Ngồi ra, có cịn có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu khác tập
trung phân tích lối sống trong điều kiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố;
kinh tế thị trường như: Nguyễn Chí Dũng: “Xã hội hóa lối sống và xây
dựng lối sống trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”,
Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 5, 2000;TS. Nguyễn Viết Chức (chủ biên):
“Đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa Thủ đơ trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Viện Văn hóa và Nhà xuất bản
Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội, 2001; Võ Văn Thắng: “Ảnh hưởng của nền


kinh tế thị trường đối với việc xây dựng lối sống ở nước ta hiện nay”, Tạp
chí Cộng sản, số 10, tr. 47-50,2006.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến vấn đề
giáo dục lối sống cho thanh niên cũng như vấn đề vai trò của một số yếu
tố đến lối sống con người Việt Nam nói chung và của thanh niên nói
riêng. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào chỉ ra một cách trực tiếp và hệ
thống những yếu tố xã hội ảnh hưởng đến lối sống của thanh niên Việt
Nam hiện nay. Điều đó cũng nói lên lý do mà tác giả lựa chọn đề tài
nghiên cứu nói trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của luận văn là làm rõ các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến lối
sống của thanh niên, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản góp phần xây

dựng lối sống cho thanh niên hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt mục đích trên, luận văn nhằm giải quyết một số nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ khái niệm lối sống và tầm quan trọng của việc xây dựng lối
sống đối với thanh niên Việt Nam hiện nay.
- Phân tích sự tác động của các yếu tố xã hội đến lối sống của thanh
niên;
- Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của
các yếu tố xã hội trong việc xây dựng lối sống cho thanh niên Việt Nam
hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu sự tác động của một số yếu tố xã hội đến lối
sống của thanh niên trong điều kiện hiện nay ở nước ta.


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
+ Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về thanh niên, xây dựng lối sống và giáo dục lối sống cho thanh niên.
+ Đồng thời, luận văn cũng kế thừa có chọn lọc những tư liệu và kết
quả nghiên cứu của các cơng trình khác liên quan đến phạm vi nghiên cứu
của đề tài.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với các
phương pháp nghiên cứu như: lơgíc-lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh đối chiếu, thống kê số liệu để chứng minh cho các luận điểm mà tác giả đã
nêu ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những
luận điểm, các vấn đề lý luận và thực tiễn về lối sống, xây dựng lối sống

cho thanh niên Việt Nam hiện nay.
- Luận văn cịn góp thêm nguồn tư liệu, tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy các chuyên đề liên quan đến thanh niên, lối sống,
giáo dục lối sống cho thanh niên ở các trường Đại học và Cao đẳng.
- Ngoài ra, những đề xuất của tác giả trong luận văn cịn góp phần
nhỏ vào việc làm cơ sở, căn cứ lý luận để các tổ chức thanh niên như: Hội
Liên hiệp thanh niên, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ
chức khác trong việc hoạch định chiến lược, chính sách cụ thể nhằm xây
dựng lối sống cho thanh niên trong quá trình đổi mới hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 02 chương, 04 tiết.


NỘI DUNG
Chƣơng 1
QUAN NIỆM VỀ LỐI SỐNG VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC
XÂY DỰNG LỐI SỐNG ĐỐI VỚI THANH NIÊN
1.1. Quan niệm về lối sống
Trước khi làm rõ nội dung và phạm vi của khái niệm về lối sống, chúng tôi
lược khảo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về lối sống.
1.1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về lối sống
Lối sống là một trong những khái niệm cơ bản của chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin đã đưa ra nhiều
luận điểm về lối sống.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác và Ph. Ăngghen đã viết:
“Phương thức sản xuất phải xét không đơn thuần, theo khía cạnh nó là sự tái sản
xuất ra sự tồn tại thể xác của các cá nhân, mà hơn thế, nó đã là một hình thức
hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của sự biểu
hiện đời sống của họ. Những cá nhân biểu hiện đời sống của họ như thế nào thì

họ là như thế ấy. Do đó họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ,
với cái mà họ sản xuất ra cũng như cách họ sản xuất” [35, tr. 30]. Theo đó, lối
sống là phương thức, là dạng hoạt động của con người. Lối sống được hình thành
trên cơ sở những điều kiện và các mối quan hệ kinh tế xã hội của một phương
thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất là cách thức mà con người dùng để
làm ra của cải vật chất cho xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định; theo cách
đó, con người có những quan hệ nhất định với tự nhiên và với nhau trong sản
xuất. Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có một phương thức sản xuất riêng. Phương
thức sản xuất quyết định cách thức hoạt động sản xuất của con người, và chính


cách thức hoạt động sản xuất này của con người quy định lối sống của họ. Phương
thức sản xuất là cơ sở vật chất của lối sống.
Thực vậy, cái cơ bản trong lối sống là hoạt động sản xuất của con người
bao hàm trong đó việc trao đổi, phân phối và kết thúc bằng sự tiêu dùng các của
cải đã sản xuất ra. Lối sống, một mặt được xác định bởi các quan hệ vật chất, thực
tiễn của con người đối với tự nhiên, bởi trình độ trang bị kỹ thuật và năng suất lao
động của họ, tức là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; mặt khác, nó được
xác định bởi tính chất của quan hệ sản xuất , bởi chế độ kinh tế của xã hội- cơ sở
của toàn bộ hệ thống các quan hệ xã hội.
Trong các thị tộc nguyên thuỷ, lối sống của những thành viên phụ thuộc
vào trình độ của các cơng cụ lao động và các hoạt động chủ yếu nhằm đảm bảo
cho sự tồn tại của con người như: săn bắt, hái lượm cũng như phụ thuộc vào các
quan hệ chủ đạo trong thời đại bấy giờ là quan hệ giúp đỡ nhau, bảo vệ lẫn nhau,
chia đều của cải kiếm được cho tất cả các thành viên của thị tộc. Lối sống của
người nông nô ở nước Nga nửa đầu thế kỷ XIX thì lại được quy định bởi các cơng
cụ lao động đặc trưng cho thời đó như cày, bừa, ngựa và các gia súc khác… tức là
trình độ của lực lượng sản xuất. Bên cạnh đó, cịn có một tình trạng là người nơng
dân hoặc là phải làm không công 3-4 ngày trong một tuần cho địa chủ hoặc phải
nộp tơ cho chúng, ngồi ra cịn phải gách đủ mọi loại sưu thuế do bọn chúa đất và

Nhà nước đại diện cho quyền lợi của giai cấp địa chủ đất ra. Tất cả những điều đó,
tuy ở mức độ ít hơn, đều có tính chất quyết định đối với lối sống của họ.
Trong đề tựa cho tác phẩm “Phê phán chính trị kinh tế học”, Mác đã chỉ ra
rằng: “Phương thức sản xuất quyết định đời sống xã hội, chính trị và tinh thần của
xã hội”. Do đó phương thức sản xuất có ảnh hưởng tất yếu đến lối sống của con
người, đến hình thức hoạt động và trao đổi của con người trong phạm vi tinh thần
chính trị và xã hội. Lối sống được hình thành bởi sự tổng hợp toàn bộ các mối


quan hệ xã hội có liên quan tới cơ cấu của hình thái kinh tế-xã hội. Mỗi một lối
sống nhất định phù hợp với một hình thái kinh tế-xã hội nhất định.
Như vậy, phương thức sản xuất là cơ sở vật chất của lối sống, lối sống do
phương thức sản xuất của cải vật chất quyết định, hai khái niệm này liên quan mật
thiết với nhau. Lối sống và phương thức sản xuất đều được quy định bởi trạng thái
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, bởi chế độ kinh tế vồn là nền tảng của toàn
bộ hệ thống các quan hệ xã hội. Song, chúng không đồng nhất với nhau. Khái
niệm lối sống nói lên phương thức hoạt động của con người. Bộ phận cấu thành
của lối sống không phải là bản thân tư liệu lao động, cũng khơng phải là bản thân
quan hệ sản xuất, mà chính là hoạt động lao động của con người trong lĩnh vực
sản xuất. Hoạt động này do cả lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất quyết định.
Mặt khác, lối sống không chỉ giới hạn trong lĩnh vực sản xuất của cải vật
chất. Nó thể hiện khơng chỉ ở hoạt động lao động của con người mà cả trong hoạt
động phi sản xuất của họ như trong đời sống hàng ngày, trong lĩnh vực văn hố,
trong đời sống chính trị và cả những chuẩn mực đạo đức mà con người ở mức độ
này hay khác phải tuân thủ trong cách cư xử của mình.
Những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã khai thác triệt để nguyên
tắc tính giai cấp trong khi phân tích lối sống. C. Mác viết: “Hàng triệu gia đình
sống trong những điều kiện kinh tế khác biệt và đối lập kình định giữa lối sống,
quyền lợi và giáo dục của họ với lối sống quyền lợi và giáo dục của giai cấp
khác” [32, tr. 208]. Như vậy, trong xã hội có đối kháng giai cấp khơng thể có một

lối sống duy nhất cho tất cả mọi người, mọi giai cấp. Ai cũng biết rằng, phương
thức sản xuất là một phạm trù đặc trưng cho một hệ thống sản xuất xã hội nhất
định nào đó trong lịch sử. Trong hệ thống ấy, giai cấp thống trị nắm vai trị chỉ
huy. Vì vậy, ta có đầy đủ lý do để nói rằng có phương thức sản xuất chiếm hữu nô
lệ, phương thức sản xuất phong kiến, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa…Tuy nhiên, trong mỗi hình thái kinh tế-xã hội ấy đã và đang tồn tại các


giai cấp khác nhau và họ có những lối sống hồn tồn khác nhau. Lối sống của
chủ nơ và nơ lệ, của chúa đất và nông dân, của chủ tư sản và của công nhân làm
thuê, những lối sống này khác nhau một trời một vực.
Trong tác phẩm “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”, Ph. Ăngghen đã
viết: “Đời sống của người nơ lệ ít ra cịn được bảo đảm bởi lợi ích riêng của chủ
nhân; người nơng nơ dù sao cũng có một mảnh đất ni sống họ; cả hai dù sao
cũng cịn sự bảo đảm khỏi chết đói; cịn người vơ sản thì chỉ có trơng cậy vào bản
thân họ mà đồng thời người ta lại không cho anh ta được dùng sức lực của mình
để có thể hồn tồn trơng cậy vào sức lực ấy…Anh ta là đối tượng thụ động của
đủ loại trường hợp phức tạp và có thể coi là may mắn nếu cịn sống qua quít được
trong ít lâu. Và cố nhiên là tính tình và lối sống của anh đã do những trường hợp
ấy quyết định”. [3, tr. 263]
Trong tác phẩm “Sự phát triển tư bản chủ nghĩa ở nước Nga”, V.I.Lênin
chỉ ra rằng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã phá huỷ truyền thống nếp sống cũ
“tạo ra một giai cấp người đặc biệt hoàn toàn xa lạ với giai cấp nơng dân cũ vì có
chế độ sinh hoạt khác, chế độ quan hệ gia đình khác, mức độ nhu cầu cao hơn về
mặt vật chất cũng như tinh thần so với họ” [27, tr. 547]. Lênin đã liên hệ sự hình
thành lối sống xã hội chủ nghĩa với tồn bộ sự nghiệp cải tạo xã hội. Luận điểm
của Người về việc xây dựng quan hệ xã hội mới, việc giáo dục con người mới và
xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa là một q trình thống nhất có quan hệ với
nhau. Trong tác phẩm “Làm gì?”, khi vạch ra cơ sở học thuyết về Đảng kiểu mới,
V.I.Lênin đã xác lập một cách sâu sắc nhiệm vụ giáo dục chính trị cho giai cấp

cơng nhân và nâng cao giác ngộ chính trị của họ. Lênin đã chứng minh rằng:
“trong việc xây dựng con người mới, cần phải hướng vào lý tưởng, chính kiến kỹ
năng và sự hoạt động của giai cấp tiên tiến của xã hội hiện đại” [28, tr. 400-401]
Lối sống của người vô sản trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản được quy
định bởi địa vị của họ trong hệ thống sản xuất xã hội, bởi toàn bộ các điều kiện


sinh hoạt của họ. Người vô sản không thể bứt ra khỏi các điều kiện ấy. Nhưng anh
ta cũng không hoàn toàn bị tước mất khả năng lựa chọn. Trong khn khổ những
điều kiện nào đó, anh ta có thể lựa chọn những phương thức hành động khác
nhau: hoặc là đứng lên đấu tranh, hoặc là thoả hiệp, thích nghi với các điều kiện
ấy. Trong trường hợp sau, anh ta buộc phải hy sinh phẩm chất con người của mình
và theo lời Ph. Ăngghen, “một lối sống như vậy làm huỷ hoại tinh thần người ta
nhiều hơn bất kỳ một lối sống nào khác”
Như vậy, mặc dù lối sống chủ yếu do các điều kiện sinh hoạt khách quan
của con người qui định, nhưng nó cịn phụ thuộc vào các nhân tố chủ quan, vào
các mục tiêu mà con người đặt ra cho mình, vào cái mà nó đặt ở đấy cả sự sống
của mình.
Trong cùng những điều kiện như nhau, con người có thể hành động theo
những cách khác nhau, nhằm những mục đích khác nhau. Các đặc điểm của cá
nhân khơng thể giải thích được nếu khơng chú ý tới cách mà con người phản ứng
với sự biến đổi của các điều kiện trong cuộc sống hàng ngày, với hành động của
những người khác; không chú ý đến các điều kiện sinh hoạt chung đã ảnh hưởng
như thế nào đến các điều kiện tồn tại của một cá nhân nhất định.
Chủ nghĩa Mác xuất phát từ tính có trước của vật chất trong đời sống xã hội
và thừa nhận ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội. Điều đó có nghĩa là,
trên cơ sở tồn tại của các điều kiện vật chất nhất định mà ở con người nảy sinh ra
các nhu cầu và những hứng thú khách quan. Và trong những mức độ khác nhau,
chúng được phản ánh vào ý thức của họ như là những động cơ tinh thần của hành
động. Trong khi hành động theo các động cơ đó, con người thoả mãn các nhu cầu

ấy và làm thay đổi điều kiện sống của mình và biến đổi cả bản thân mình.
Như vậy, các điều kiện sinh hoạt quy định hoạt động của con người, quy
định lối sống của con người. Nhưng đưa toàn bộ điều kiện hoạt động của con
người (tự nhiên và xã hội) vào lối sống thì không đúng. Điều kiện sinh hoạt theo


nghĩa rộng là tồn bộ mơi trường xã hội. Bởi vậy, nếu coi lối sống bao hàm trong
nó tồn bộ các điều kiện sinh của con người thì người ta sẽ phải đồng nhất lối
sống với xã hội nói chung và tính đặc thù của từ này sẽ biến mất.
Tuy nhiên, cũng khơng được loại trừ hồn tồn điều kiện sinh hoạt ra
khỏi lối sống, tức ra khỏi hoạt động sống của con người. Liệu có thể giải
thích được tính chất của hoạt động sống hàng ngày của con người, nếu như
không chú ý tới việc họ sinh sống trong những căn nhà như thế nào, trong
các nhà gỗ nông thôn xa xưa hay trong những căn nhà hiện đại có trang bị
nước máy, hơi nóng? Theo các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin, vấn
đề nhà ở sẽ mất hết ý nghĩa nếu tách nó ra khỏi điều kiện sinh hoạt của con
người, ra khỏi mọi sự thật là việc xây dựng nhà ở được tiến hành trong một
xã hội nhất định nào đó như thế nào, quy mơ của nó ra sao, thiết bị trong nhà
thế nào, nó thuộc quyền sở hữu của ai, chi phí cho nhà ở, tiền thuê nhà
chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong việc thu chi của gia đình… Dĩ nhiên, ngay khi
đã ở trong những căn nhà mới, người ta có thể vẫn giữ những tập tục và thói
quen cũ. Nhưng sẽ là sai lầm nếu quên đi rằng, không thể biến đổi hoạt động
sống của con người nếu không biến đổi các điều kiện sinh hoạt vật chất và
xã hội của họ. Cách xem xét phiếm diện như vậy là xa lạ với chủ nghĩa duy
vật trong việc giải thích đời sống xã hội và cũng không cho phép hiểu được
những phương hướng cải tạo nó. Bởi thế, lối sống phải được hiểu như là một
tổng thể các hình thức hoạt động liên hệ với nhau trong sự thống nhất không
thể chia cắt với các điều kiện của hoạt động ấy.
Như vậy, lối sống là một trong những phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Lối sống được hình thành trên cơ sở những điều kiện và các mối quan

hệ kinh tế xã hội của một phương thức sản xuất nhất định, phù hợp với một hình
thái kinh tế-xã hội nhất định. Lối sống bị quyết định bởi các điều kiện sinh hoạt


khách quan, đồng thời cũng phụ thuộc cả vào các nhân tố chủ quan. Lối sống
mang tính giai cấp.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về lối sống
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa ra vấn đề xây dựng đời
sống mới. Trong nhiều bài nói, bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dạy
cán bộ và nhân dân ta ra sức thực hành đời sống mới. Tư tưởng đó của người
được tập trung chủ yếu trong hai tác phẩm “Đời sống mới” và “Sửa đổi lối
làm việc”.
Dưới bút danh Tân Sinh, Người viết tác phẩm “Đời sống mới” với
mục đích “làm thế nào cho đời sống của dân ta vật chất được đầy đủ hơn,
tinh thần được vui mạnh hơn”[38, tr. 95]. Bác khẳng định: “Nếu mọi người
đều cố gắng làm đời sống mới, thì dân tộc nhất định sẽ phú cường”. Đời
sống mới thuộc phạm trù đạo đức cách mạng, biểu hiện trong các đức tính
cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Tư tưởng sâu sắc và phong phú của
Người thường ẩn dưới hình thức ngơn ngữ hết sức cô đọng, giản dị và thể
hiện ở những chủ trương, đường lối, biện pháp cụ thể. Có vậy con người
mới mới có đời sống mới, và tạo thành cuộc vận động xây dựng nếp sống
mới. Từ đó chúng ta nhận thức được rằng, cuộc vận động xây dựng nếp sống
mới hiện nay phải được đặt trong chiến lược con người.
Trong tác phẩm “Đời sống mới”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có cái nhìn
biện chứng, sâu sắc về việc xây dựng nếp sống mới; nó khơng phủ nhận, bác
bỏ hồn tồn cái cũ và cũng khơng nhất thiết cái gì cũng làm mới. Cái mới
khơng tự nhiên xuất hiện mà phải được kế thừa từ cái nền truyền thống. Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng dạy chúng ta tiếp thu những truyền thống tốt đẹp của
cha ông về đạo làm người để xây dựng đời sống mới, đạo đức mới. Theo
Người, cái gì mà xấu thì nhất quyết phải bỏ; có những cái cũ tuy khơng xấu

nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý. Cịn cái gì cũ mà tốt thì phải


phát triển thêm. Người cũng chỉ ra sự khó khăn, phức tạp khi xây dựng cái
mới, khi phải đấu tranh với sức ì của cái xấu. Người cho rằng “Thói quen rất
khó đổi. Cái tốt mà lạ người ta có thể cho là xấu, cái xấu mà quen người ta
cho là thường. Ví dụ: chống đánh chửi vợ, cha mẹ đánh chửi con là điều rất
dã man. Nhưng vì ta quen thấy, nên ta cho là việc thường.” [38, tr. 107].
Khi những thói quen xấu đã trở thành nếp thì việc xố bỏ nó khơng thể dễ
dàng, ngay một lúc có thể làm được, mà phải kiên trì, thường xun xây
dựng để tạo ra một nếp sống mới.
Người chia đời sống mới thành hai thứ. Một là đời sống mới riêng,
của từng người. Hai là đời sống mới chung, từng nhóm người, như các bộ
đội, các nhà máy, các trường học, các cơng sở… “Mỗi người, mỗi đồn thể
lại phải theo cơng việc, nghề nghiệp của mình mà làm đời sống mới cho phù
hợp với hoàn cảnh” [38, tr. 97]. Nội dung xây dựng đời sống mới đều bắt
nguồn từ mn mặt của đời sống hàng ngày, có liên quan tới mối quan hệ
giữa con người với con người trong xã hội. Người đề cập đến việc xây dựng
nếp sống mới cho từng nhóm người, từng mơi trường hoạt động của con
người: trẻ em, người lớn, một người, một nhà, một lầng, một trường học,
trong bộ đội, trong công sở…Theo Người, cách ứng xử giữa người với
người phải “thành thật, thân ái, giúp đỡ”, trong quan hệ giữa các thành viên
với nhau, quan hệ giữa vợ chồng phải hoà thuận, thương yêu nhau. Nghĩa vụ
con cái đối với cha mẹ già, quan hệ giữa anh chị em ruột, đạo lý giữa mẹ
chồng nàng dâu… Các mối quan hệ này đều phát huy những mặt tốt đẹp của
đạo đức truyền thống đã ăn sâu vào nếp sống của từng gia đình Việt Nam.
Những nội dung về nếp sống mới mà Bác đưa ra luôn gắn liền với
thực tế. Bác quan tâm đến những chi tiết nhỏ nhặt của lối sống: “nhặt một
cành gai cho người khác khỏi giẫm”. Người quan niệm: cưới hỏi, giỗ tết nên



đơn giản, tiết kiệm… đường sá phải sạch sẽ, ao tắm giặt, giếng nước uống
phải phân biệt và săn sóc cẩn thận…[38, tr. 101]
Bác để lại bài học lớn về phương thức vận động xây dựng nếp sống
mới. Bác dạy: “Trước hết phải tuyên truyền, giải thích và làm gương”, làm
cho có kết quả để mọi người noi theo. Theo đó, trong việc nghiên cứu cũng
như xây dựng nếp sống mới, chúng ta phải tìm ra được những tấm gương,
những điển hình, những nhân tố mới.
Người cịn nhắc nhở chúng ta, để xây dựng nếp sống mới thì phải kiên
trì vận động, kiên trì xây dựng đời sống mới, làm từ việc nhỏ đến việc lớn.
Người dạy: “Tuyên truyền đời sống mới cũng như tuyên truyền việc khác
phải hăng hái, bền gan, chịu khó, đồng thời phải cẩn thận, khơn khéo, mềm
mỏng” [38, tr. 109]
Hồ Chí Minh cũng dạy chúng ta nguyên tắc của cuộc vận động xây
dựng nếp sống mới là tự nguyện. Bác viết: “Các số đông quốc dân thừa
hiểu, chưa làm đời sống mới thì tuyệt đối không nên bắt buộc…đến khi đại
đa số đồng bào theo đời sống mới, chỉ cịn số rất ít khơng theo, khun mãi
cũng khơng được, lúc đó có thể dùng cách cưỡng bức, bắt họ phải theo”[38,
tr. 108-109]. Bác cũng phê bình những cách áp đặt, máy móc như: Mấy anh
em thanh niên tuyên truyền giảm bớt giỗ, tết. Nhưng đến khi ra chợ gặp ai
mua đồ mã thì giấy lấy đốt hết. Họ khơng biết rằng tun truyền thì phải dần
dần, nói cho người ta hiểu để người ta vui lịng làm, chứ khơng có quyền ép
người ta. Khơng biết rằng đơm cúng là một phong tục lâu đời. Không biết
rằng người ta đã mất tiền mua, mình giật đốt đi thì ai cũng tức giận. Hãy
khuyên dân học quốc ngữ “nhưng hăng hái quá, phạt tiền hoặc đem mực vẽ
miệng những người qua đường không biết chữ…làm như vậy chỉ được
người ta ốn gét chứ khơng ích gì.


Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm rõ con người và phẩm chất của họ là

sản phẩm của xã hội, có tính lịch sử nhất định, nhưng u cầu của cách
mạng cấp bách phải có những con người tiêu biểu, tiên tiến để có thể đảm
đương sứ mệnh do lịch sử giao phó. Chính vì vậy, cuối năm 1947, Người đã
viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng
viên. Theo Người, sửa đổi lối làm việc không chỉ là ra sức rèn luyện tư cách
và đạo đức cách mạng, sửa đổi cách lãnh đạo mà còn cả sửa chữa, rèn luyện
tác phong, nếp sống mới cho cán bộ, đảng viên. Người đặt vấn đề tác phong,
nếp sống mới khơng chỉ bó hẹp trong giáo dục cán bộ, đảng viên mà gắn
chặt hữu cơ với vai trò và sứ mệnh của quần chúng, với tấm lịng nhân ái,
ln nhìn vào quần chúng.
Người phê phán bệnh khai hội tuỳ tiện, thiếu chuẩn bị, thiếu thiết
thực, làm mất thì giờ, gây phiên hà cho quần chúng. “Cán bộ khu về tỉnh,
cán bộ tỉnh về huyện, cán bộ huyện về làng thì khệnh khạng như “ơng
quan”, ơng “cán” làm cho một “tua” hai ba giờ đồng hồ. Nói gì đâu đâu. Cịn
cơng việc thiết thực trong khu, trong tỉnh, trong huyện, trong xã đó, thì
khơng động đến…”. Người dạy cán bộ, đảng viên trong cách làm việc, cách
tổ chức, nói chuyện, phải “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần
chúng” [38, tr. 248]. Người dạy: bất cứ việc to nhỏ, phải xét rõ và làm cho
phù hợp với trình độ văn hố, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh
nghiệm trong tranh đấu, lịng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần
chúng. Cán bộ, đảng viên phải tích cực sửa chữa bệnh “hữu danh vơ thực”.
Đó là cách “làm việc khơng thiết thực, khơng từ chỗ gốc chính, khơng từ
dưới làm nên, làm cho có chuyện, làm lấy rồi, làm được ít st ra nhiều”.
Theo Người, phong cách làm việc theo nếp sống mới phải được thể hiện qua
hành động ý chí, nhất là giá trị xã hội của hành động đó. Hành động phải
nhằm đem lại lợi ích cho cách mạng, cho nhân dân. Điều quan trọng để có


được những phẩm chất tốt đẹp về nếp sống, nếp làm việc như Hồ Chí Minh
đã dạy là phải xóa bỏ những định hướng giá trị không đúng đắn, mang nặng

tính cá nhân ích kỷ.
Trong “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nhiều
khuyết điểm. Theo Người, có thể chia các khuyết điểm thành ba loại: khuyết
điểm về tư tưởng, khuyết điểm về sự quan hệ trong Đảng và ngồi Đảng,
khuyết điểm về cách nói và cách viết. Người cho đó là ba chứng bệnh rất
nguy hiểm nếu không kịp thời sửa chữa, để lây lan ra thì sẽ vơ cùng có hại.
Hồ Chí Minh đã phê phán thói ba hoa dưới các dạng thức của nó: dài
dịng, rỗng tuếch, cầu kỳ, khơ khan, lúng túng, lơng bơng, lụp chụp, cẩu thả
và sáo cũ. Đó là biểu hiện của nếp sống cũ kỹ, lạc hậu, không phù hợp với
đời sống mới. Người đặt vấn đề khơng chỉ đơn giản về mặt tác phong mà
cịn qn triệt tư tưởng, quan điểm và ý thức phục vụ nhân dân. Người cho
rằng viết dài dịng, rỗng tuếch “khơng có ích gì cho người xem, chỉ là tốn
giấy mực, mất cơng người xem. Khác nào vải băng bó mụn lở, đã thối lại
dài”. Người lên án bệnh nói và viết dài dịng, rỗng tuếch nhưng khơng hề
phản đối những vấn đề cần diễn đạt dài, như sách lý luận chẳng hạn, vì tuy
có dài nhưng mà cần, mỗi chữ có một ý nghĩa, có một mục đích, khơng
phải rỗng tuếch. Vấn đề đặt ra là biết cân đối liều lượng, tránh thái độ cực
đoan “chống nói dài, viết rỗng, chứ khơng phải nhất thiết cái gì cũng phải
ngắn mới tốt”.
Hồ Chí Minh lên án thói “cầu kỳ” khơng chỉ vì Người có thói quen
sống với tác phong khiêm tốn, giản dị, mà xuất phát từ quan điểm phục vụ
nhân dân sâu sắc. Người đặt câu hỏi: Viết cho ai xem? Nói cho ai nghe? Có
tinh thần phụ trách đối với dân, nghĩa là vì con người, trước hết là vì con
người cụ thể. Vì dân, coi con người là trên hết, nên trong xây dựng nếp sống
mới cho cán bộ, Người địi hỏi phải có tinh thần phụ trách trước quần chúng


trong cả cách nói năng, viết lách cho trong sáng. Người phê phán thái độ coi
thường quần chúng, thiếu tôn trọng quần chúng, dùng cả đoạn chứ Hán,
dùng từng đống danh từ lạ, nói hoặc viết theo cách Tây, mỗi câu dài dằng

dặc, thì quần chúng hiểu sao được.
Hồ Chí Minh dạy cán bộ phải có tác phong hỏi quần chúng trong cách
ăn nói. Theo Người, Cách nói của quần chúng đầy đủ, rất hoạt bát, thiết thực
mà lại rất đơn giản. Chỉ vì cán bộ chưa học được cách nói đó nên mắc phải
bệnh khơ khan, lúng túng khó nói, khó viết, cứng nhắc, khơng hoạt bát,
khơng thiết thực. Người có quan điểm thực tiễn và khoa học trong việc dùng
tiếng nước ngồi, làm thế nào cho ngơn ngữ trong sáng, khơng lai căng,
phản đối thói dùng chữ nước ngồi một cách tùy tiện, chống mượn khơng
phải lối khiến quần chúng không hiểu nổi. Nhưng đồng thời, chúng ta không
chống mượn tiếng ngoại quốc để làm cho tiếng ta đầy đủ thêm.
Một phần không nhỏ trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí
Minh ln đề cao vị trí của con người và vai trị của nhân dân. Người viết:
Chúng ta thường kêu gọi làm làng kiểu mẫu, trại kiểu mẫu, bộ đội kiểu
mẫu…khẩu hiệu đó rất đúng. Nhưng đến nay chưa làm được, hoặc làm
được nửa chừng rồi lại nguội…Muốn lập làng kiểu mẫu…thì trước hết phải
đào tạo ra những người kiểu mẫu để làm cán bộ cho làng đó, cho đội đó.
Làm được một làng, một đội rồi lấy đó làm kiểu mẫu để khuyến khích và
cổ động nơi khác. Bác dạy trước tiên phải tạo ra những con người kiểu mẫu
chính là phải tạo nên những nhân tố mới, điển hình mới để rồi từ đó nhân
ra, phát triển lên.
Việc xây dựng nếp sống mới cũng như các việc khác đều phải bắt đầu
từ dân, vì lợi ích của nhân dân, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân mới có
kết quả. Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề dân chủ, nguyện vọng, của
quần chúng, nghiêm khắc phê phán bệnh chủ qua, hẹp hịi, thói ba hoa, xa


rời quần chúng của cán bộ, đảng viên. Đó là bài học rất quan trọng khi tiến
hành xây dựng nếp sống mới.
Hồ Chí Minh cũng đã chỉ cho chúng ta thấy nội dung của đạo đức cách
mạng và cũng là đạo đức của con người mới mà cuộc vận động xây dựng nếp

sống mới của chúng ta nhằm hướng tới. Người viết: Nói tóm tắt tính tốt ấy gồm
5 điều: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ các “bệnh”
thường mắc phải trong công tác. Người hướng dẫn cách sửa chữa những bệnh
đó, phân tích tỷ mỷ các bệnh mà mỗi con người dễ mắc phải như: bệnh tham
lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo, thiếu kỷ luật, óc hẹp hịi, óc địa phương,
óc lãnh đạo, bệnh hữu danh vô thực, kéo bè kéo cánh, cận thị, cá nhân. Trong
đó có nhiều bệnh liên quan tới việc xây dựng nếp sống, nếp làm việc. Khi nói
về bệnh hội họp Bác cũng nghiêm khắc phê phán làm việc khơng đúng giờ:
Hẹn khai hội 8h thì 9h, 10h mới đến…Họ khơng hiểu rằng giữ đúng thì giờ là
một tính tốt của con người cách mạng, nhất là trong lúc kháng chiến này. Trong
tác phẩm, Người đã chỉ ra rất nhiều nhược điểm trong nếp sống cũ lạc hậu mà
cho đến nay, qua nhiều cuộc vận động xây dựng nếp sống mới, chúng ta vẫn
chưa khắc phục được.
Từ những công việc cụ thể, giản dị hàng ngày, Hồ Chủ Tịch đã hướng
dẫn cho chúng ta bỏ những thói xấu, tu dưỡng những đức tính tốt. Người đã chỉ
rõ cho chúng ta những hình ảnh bằng xương bằng thịt những cán bộ, đảng viên
kiểu mẫu, hình ảnh những con người mới trong xã hội mới. Đó là một bài học
rất lớn để chúng ta noi theo khi xây dựng những điển hình, chuẩn mực trong
việc xây dựng nếp sống mới.
Như vậy, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đời sống mới là Cần, Kiệm,
Liêm, Chính . Đời sống mới bắt đầu từ mn mặt của đời sống hàng ngày, có
liên quan tới mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội. Xây dựng
đời sống mới phải bắt đầu từ dân, hết lịng vì dân. Để xây dựng đời sống mới


thì phải đào tạo ra những người kiểu mẫu, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng
viên, tạo ra những nhân tố mới để từ đó nhân ra, phát triển lên.
1.1.3.Khái niệm lối sống
Vào các thập niên 60 – 80 của thế kỷ XX, giới nghiên cứu Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đưa ra hơn 50 định nghĩa tiêu biểu về

“lối sống”. Các định nghĩa này có thể qui về ba nhóm:
Nhóm thứ nhất: định nghĩa lối sống bằng cách liệt kê càng nhiều càng
tốt tất cả mọi hồn cảnh có liên quan đến cuộc sống của con người và toàn xã
hội. Lối sống được kiến giải như một phạm trù xã hội học bao hàm cả các
kiều kiện sống, các hình thức hoạt động sống của con người, các quan hệ xã
hội, sinh hoạt các hình thức thỏa mãn nhu cầu, thế giới quan. Cách định nghĩa
này bị nhiều ý kiến phê phán vì sự mở rộng quá mức khái niệm lối sống, làm
cho lối sống mất đi nội hàm riêng và đặc trưng của nó.
Nhóm thứ hai: xem lối sống là phạm trù nói lên các nhu cầu của con
người, những cách thức thỏa mãn những nhu cầu đó, nói lên những đặc trưng
về chất lượng trong sự phồn vinh của con người hoặc cho rằng lối sống là
phạm trù chỉ nếp nghĩ và nếp hành vi, nếp sống nội tâm của con người. Cách
định nghĩa này sẽ loại trừ những hoạt động sống quan trọng của con người
như lao động, hoạt động chính trị - xã hội ra khỏi lối sống.
Nhóm thứ ba: Quan niệm lối sống là phạm trù xã hội học, chỉ sự thống
nhất hữu cơ của các hình thức hoạt động sống và những điều kiện nhất định.
Ở đây, người ta khơng chú ý đến vai trị của yếu tố chủ quan trong lối sống.
[Xem 21, tr. 17-18]
Định nghĩa tiêu biểu và phổ biến nhất ở Liên Xô (cũ) có lẽ là định
nghĩa gắn với hoạt động của con người. “Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa
học” định nghĩa “lối sống xã hội chủ nghĩa” là “những hình thức hoạt động


×