Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

(Luận văn thạc sĩ) một số nội dung và giá trị cơ bản của tư tưởng thiền trần thái tông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (940.61 KB, 85 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

LÝ NGỌC TUÂN

MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ CƠ BẢN
CỦA TƢ TƢỞNG THIỀN TRẦN THÁI TÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

LÝ NGỌC TUÂN

MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ CƠ BẢN
CỦA TƢ TƢỞNG THIỀN TRẦN THÁI TÔNG

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Hoàng Thị Thơ

Hà Nội - 2014



LỜI CẢM ƠN
T
tr
t

ều k

t uậ


k

t ứ



Cuố

ô s u sắ v

vữ

ắ ,


t

u sót v


v

ập

t

ều ố ắ

H N


tậ tì
ú

ì

.

d y, truyề

tơ .
T ịT

,



tốt uậ v .
tốt uậ v
s


. í

quý b u ủ q t ầy ơ v

Quố

-

tốt uậ v

ật

ì

úp tơ t ự

u

P S.TS H

, tơ
ó

t

t

úp tơ
ù


v N

t

q t ầy ơ

ặ b t, tơ
dẫ tậ tì

tr

ể tơ

t
u

tr



ỗ dự t

t ầ

y.
uậ v


b


,b

ợ sự

k ô

t ể tr

sẻ,



k ỏ
ýk

bè!
T

Lý Ngọc Tuân

ó


óp


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình do tơi nghiên cứu, dưới sự hướng dẫn
của PGS, TS. Hồng Thị Thơ. Kết quả nghiên cứu được công bố trong luận

văn là trung thực. Các tài liệu sử dụng trong luận văn có nguồn gốc, xuất xứ
rõ ràng.

T

Lý Ngọc Tuân


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 3
1.Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................... 3
2.Tình hình nghiên cứu của đề tài ....................................................................... 4
3.Mục đích, nhiệm vụ của luận văn .................................................................... 7
4.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ................................. 7
5.Đối tượng và phạm vi của đề tài ...................................................................... 7
6.Ý nghĩa của luận văn ........................................................................................ 8
7.Kết cấu của luận văn ........................................................................................ 8
Chƣơng 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG
THIỀN CỦA TRẦN THÁI TÔNG .................................................................. 9
1.1. Điều kiện về kinh tế, chính trị xã hội khi xuất hiện nhà Trần .................... 9
1.1.1. Tiền đề về kinh tế xã hội, chính trị ......................................................... 9
1.1.2. Tiền đề về văn hóa, giáo dục, nghệ thuật ............................................. 15
1.2. Tiền đề lý luận cho sự hình thành tư tưởng Thiền của Trần Thái Tông .... 19
1.2.1. Sự kế thừa các giá trị tư tưởng truyền thống Việt Nam ....................... 19
1.2.2. Một số tiền đề Phật giáo Việt Nam cho sự ra đời tư tưởng Thiền của
Trần Thái Tông.................................................................................................. 24
Tiểu kết chƣơng 1 ............................................................................................ 30
Chƣơng 2: TƢ TƢỞNG THIỀN CỦA TRẦN THÁI TÔNG ..................... 31
2.1. Trần Thái Tông - Con người và trước tác về Thiền Phật giáo ................... 31

2.2. Bản thể luận và nhận thức luận trong tư tưởng Thiền của Trần Thái Tông34
2.2.1. Bản thể luận .......................................................................................... 38
1


2.2.2. Nhận thức luận ...................................................................................... 44
2.3. Nhân sinh quan trong tư tưởng Thiền của Trần Thái Tông ....................... 56
2.3.1. Quan niệm về đạo đức của Trần Thái Tông ......................................... 56
2.3.2. Quan niệm về nhân sinh của Trần Thái Tông ...................................... 58
2.4. Một số giá trị cơ bản của tư tưởng Thiền Trần Thái Tông ............................... 62
2.4.1. Thiền học Trần Thái Tông với Thiền của Việt Nam .................................. 62
2.4.2. Thiền học Trần Thái Tông với tinh thần quốc gia độc lập ...................... 63
Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................................ 71
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 75
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 79

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thiền Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ lâu và từng được tiếp thu,
vận dụng một cách sinh động và tích cực trong cuộc sống. Chọn đề tài này
chúng tôi xuất phát từ ba lý do cơ bản như sau:
T ứ

t, Phật giáo du nhập vào nước ta từ rất sớm, Phật giáo gắn với

chặng đường đấu tranh chống giặc ngoại xâm và phát triển đất nước. Lịch sử

tư tưởng Triết học Việt Nam trong suốt mười bốn thể kỷ đầu tiên một phần
không thể thiếu là lịch sử tư tưởng Phật giáo, mà trong đó chủ yếu là Thiền.
Tư tưởng Thiền Trần Thái Tông là một mốc quan trọng trong lịch sử tư tưởng
nước nhà nói chung và tư tưởng Phật giáo nói riêng. Mặt khác tư tưởng Thiền
Trần Thái Tơng phần nào phản ánh khuynh hướng tư tưởng của dân tộc từ
những ngày đầu dựng nước cho đến thế kỷ XIII - một đỉnh cao thịnh vượng
của Đại Việt và của cả Phật giáo. Nghiên cứu tư tưởng Thiền học Trần Thái
Tơng cịn giúp chúng ta hiểu sâu hơn và phát huy di sản tư tưởng văn hóa quý
báu của cha ông trong công cuộc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam hiện
đại đậm đà bản sắc dân tộc.
T ứ

, việc khai thác nội dung và giá trị tư tưởng trong Thiền học

Trần Thái Tông là một trong những cơ sở tri thức tôn giáo cần cho việc hoạch
định các chính sách, chủ trương cho Phật giáo nước ta hiện nay, theo định
hướng phát huy giá trị của văn hóa truyền thống. Đó là một trong những tư
tưởng tơn giáo đã phát huy được sức mạnh đoàn kết dân tộc trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc thành công trong lịch sử phong kiến Đại Việt.
T ứ b , Thiền Trần Thái Tông chứa đựng những nội dung tư tưởng sâu
sắc về mặt bản thể luận, nhận thức luận, đạo đức, chính trị… Những nội dung
trên ln là đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học như: Triết học, Sử
học, Văn học, Đạo đức học, Tôn giáo học, Chính trị học… Nhằm khẳng định
và phát triển tư duy của dân tộc Việt Nam. Không những vậy, tư tưởng Thiền
của Trần Thái Tơng cịn chứa những giá trị sâu sắc, trong đó chúng ta phải kể
3


đến sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước với tinh thần nhập thế tích cực, đem
đạo vào đời để cứu dân độ thế. Tư tưởng Thiền của Trần Thái Tông chấm dứt

sự tự phát, thiếu hệ thống và tổ chức giữa các dòng Thiền từ cuối thời Lý.
Đây còn là tiền đề tư tưởng cho sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Mặt khác, tư tưởng Thiền của Trần Thái Tơng cịn hướng tới vận dụng đạo
đức tôn giáo vào xây dựng cuộc sống xã hội an vui, hạnh phúc.
Với tất cả những lý do trên, nó vừa mang ý nghĩa lý luận vừa mang tính
chất thực tiễn. Chính vì vậy, tơi chọn đề tài nghiên cứu “M t số
trị

b

ủ t t ở

T ề Trầ T

du

v

Tô ” làm luận văn thạc sỹ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Thiền của Trần Thái
Tơng đã có nhiều cơng trình, tiếp cận nghiên cứu ở các góc độ và khía cạnh
khác nhau. Có thể khái qt các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
thành các khuynh hướng cơ bản sau đây:
,N ữ

ê

ứu d ớ


ó



s

Tiêu biểu cho chủ đề này phải kể đến các cơng trình nghiên cứu như:
T ề s V t N
1999. T t ở

, của Thích Thanh Từ, Nxb. thành phố Hồ Chí Minh,

P ật

V tN

của Nguyễn Duy Hinh, Nxb. Khoa học

xã hội, Hà Nội, 1999;

y us V tN

Nội, 2007. Lị

, Từ

s V tN

uồ




Nxb. Văn hóa Thơng tin, Hà Nội, 2006. Tì

của Đặng Duy Phúc, Nxb. Hà
t

kỉ I do Đào Duy Anh,

ểu về V t N

của Viện sử học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980; T

t

Lý - Trầ ,

tập Trầ T

Tông, do Lê Mạnh Thát, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2004;


s V tN

, của Trương Hữu Quỳnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu

Hãn chủ biên, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005... Trong số những tác phẩm trên,
đáng chú ý là tác phẩm T


tập Trầ T



, do Lê Mạnh Thát biên

soạn, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2004. Tác phẩm này có thể nói là đã
trình bày khá cơng phu, cụ thể về con người và sự nghiệp, trước tác của Trần
Thái Tông. Phần đầu Lê Mạnh Thát đã giới thiệu tổng quát về sự nghiệp võ
4


cơng và văn trị của nhà vua qua chín chương nghiên cứu từng vấn đề, từ dòng
dõi, tuổi trẻ cho đến tư tưởng và vị trí văn học của vua Trần Thái Tông. Phần
hai, tác giả đã công bố các tác phẩm văn học từ

ó

ụ cùng những thơ

văn xuất hiện trong các nguồn tư liệu khác. Đây là một tác phẩm quan trọng
cho những ai quan tâm đến việc nghiên cứu nhiều mặt về lịch sử Phật giáo
Việt Nam nói chung và về vua Trần Thái Tơng nói riêng.
Các cơng trình này đã trình bày và phân tích khá khái qt về con
người, sự nghiệp văn hóa, chính trị, tơn giáo, thơ văn của Trần Thái Tơng.
Bên cạnh đó, các cơng trình đã đề cập đến những điều kiện, chính trị, xã hội
của thời Lý -Trần nói chung cũng như tiền đề lý luận hình thành tư tưởng triết
học Trần Thái Tơng nói riêng.
b, N ữ


ê

ứu d ớ

ó

t t ở

tr t

Các cơng trình nghiên cứu về Trần Thái Tơng dưới góc độ tư tưởng
triết học như: Lị

s T t ở

V tN

, tập I, do Nguyễn Tài Thư chủ biên,

Nxb. Khoa học xã hội, 1993; T ề

Trầ của Thích Thanh Từ chủ

biên,Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1995;
tr t

P ật

Trầ T


hội, Hà Nội, 1996; T ề



t

ểu t t ở

của Nguyễn Hùng Hậu, Nxb. Khoa học xã

Trầ T



Văn hóa thơng tin, 1996;
u

óp p ầ tì

của Nguyễn Đăng Thục, Nxb.

tr t

P ật

V tN

từ k ở

kỷ IV của Nguyễn Hùng Hậu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà


Nội, 2002; T t ở

V tN

t

kỳ Lý - Trầ , do Dỗn Chính - Trương

Văn Chung chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008...
Trong những tác phẩm trên thì có tác phẩm T ề

Trầ T



của Nguyễn Đăng Thục đã trình bày được những nội dung tiêu biểu trong triết
học của Trần Thái Tông thông qua cuốn

ó

ụ . Đó là việc tác giả trình

bày về nội dung triết học khóa hư, triết lý trung quán, triết lý bất nhị pháp
môn, luân lý đạo đức và quan điểm tơn giáo ở

ó H .

Liên quan đến đề tài cịn có nhiều bài nghiên cứu khoa học được đăng
trên các tạp chí chun ngành: Tr t

5

P ật

Trầ T



, của


Nguyễn Hùng Hậu, Nội sản nghiên cứu Phật học, số 4, năm 1994 và số 1,
năm 1995; T


ó

b

về

tv

t t ở

Tr t

P ật

(qu t


p ẩ

ụ ” ) của Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí Triết học, số 1, năm 1989;

T t ở

tr t

ủ Trầ T



, của Dỗn Chính và Nguyễn Ngọc

Phương, Tạp chí Triết học số 1 (212), tháng 1 năm 2009; M t số t t ở
T ề

b

ủ Trầ T

(227), tháng 4 năm 2010; V


ềb

, của Lê Thị Lan, Tạp chí Triết học số 4
t ể uậ tr


tr t

P ật

t

Trầ , của Đỗ Hương Giang, Tạp chí Triết học số 7 (230), tháng 7 năm 2010.
Trong số những bài trên, có bài M t số t t ở
Trầ T



T ề

b



, của Lê Thị Lan có nhiều điểm cần kế thừa. Trong bài này tác

giả đã tập trung giải thích một số khái niệm cơ bản “tâm”, “khơng”, “Phật
tính”, “giới”, “định”, “tuệ”, và cịn phân tích các giai đoạn của con đường tu
tập mà Thiền gia phải trải qua. Theo tác giả, Trần Thái Tơng đã thâu tóm
được tồn bộ những yếu chỉ căn bản về tư tưởng và phương pháp tu Thiền của
Thiền học Vô Ngôn Thông, đồng thời diễn giải chúng hết sức dễ hiểu. Qua
đó, đã góp phần phổ biến Thiền học trong dân chúng. Bằng việc tập trung
phân tích một số tư tưởng Thiền học cơ bản của Trần Thái Tông - một trong
những giá trị đặc sắc nhất của Thiền tông thời Trần với những ý nghĩa tích
cực góp phần tạo dựng nên tinh thần Đơng Á độc nhất vô nhị trong lịch sử tư
tưởng dân tộc Việt Nam.

Trong các cơng trình, tác phẩm nói trên đều đã tập trung nghiên cứu khá
sâu và chi tiết về tư tưởng triết, nhất là về tư tưởng Thiền của Trần Thái Tơng.
Các cơng trình khoa học nêu trên là một trong những tài liệu quí giá, bổ
ích đề chúng tôi học tập, kế thừa, phát triển trong đề tài của mình. Trong đề
tài này tơi cố gắng sâu chuỗi một cách hệ thống và làm sáng tỏ hơn một số tư
tưởng cũng như giá trị của tư tưởng Thiền của Trần Thái Tơng với Phật giáo
Việt Nam nói riêng và cơ sở cho việc xây dựng quốc gia độc lập, tự chủ và một
nền chính trị lấy dân làm gốc trong lịch sử của nước ta.

6


3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một số nội dung và giá trị tư
tưởng cơ bản của tư tưởng Thiền Phật giáo của Trần Thái Tơng.
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các Nhiệm vụ sau:
- Giới thiệu về Trần Thái Tông – Con người và trước tác.
- Khái quát về khái niệm Thiền, sự du nhập và phát triển của Thiền
Phật giáo ở Viêt Nam.
- Điều kiện và tiền đề hình thành tư tưởng Thiền của Trần Thái Tơng.
- Phân tích và đánh giá tư tưởng Thiền Phật giáo của Trần Thái Tông
thông qua một số vấn đề cơ bản của triết học.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài luận văn trên thực tế khơng bó hẹp trong khn khổ của một lĩnh
vực khoa học, vì vậy luận văn xác định cơ sở lý luận gồm:
+ Lý luận Triết học Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng và Nhà nước về tôn giáo trong sự phát triển xã hội.
+ Lý luận Tôn giáo học, trong đó chú trọng thành tựu nghiên cứu về tư
tưởng Thiền học Phật giáo và Lịch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam, văn hóa
Việt Nam.

Luận văn áp dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học xã hội:
Lịch sử, lơgic, so sánh, phân tích, tổng hợp; Đồng thời sử dụng những phương
pháp nghiên cứu liên ngành Triết học, Tôn giáo học, Văn học, Sử học...
5. Đối tƣợng và phạm vi của đề tài
- Đối tượng của đề tài là nghiên cứu và đánh giá nội dung tư tưởng Thiền
Trần Thái Tông.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài này chủ yếu là các trước tác của Trần
Thái Tơng có liên quan tới tư tưởng Thiền Phật giáo nói chung và Thiền Phật
giáo Việt Nam nói riêng trên cơ sở sử dụng các tư liệu, luận cứ, luận chứng
liên quan tới Phật giáo đời Trần và vua Trần Thái Tông đã có trước.

7


6. Ý nghĩa của luận văn
Ý

ĩ k

: Luận văn đã góp phần làm rõ một số nội dung tư

tưởng và giá trị của tư tưởng Thiền Trần của Thái Tông thông qua các trước
tác của ông.
Ý

ĩ t ự tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho

nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam nói chung và
về tư tưởng Thiền của Trần Thái Tơng.
7. Kết cấu của luận văn

Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.

8


Chƣơng 1
ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG THIỀN CỦA
TRẦN THÁI TƠNG
1.1. Điều kiện về kinh tế, chính trị xã hội khi xuất hiện nhà Trần
Tƣ tƣởng Thiền của Trần Thái Tơng đƣợc hình thành trong những
điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, tƣ tƣởng nhất định của Đại
Việt thời nhà Trần.
1.1.1. Tiền đề về kinh tế xã hội, chính trị
Về kinh tế xã hội, Cuối triều Lý, bƣớc sang thế kỉ XIII đất nước rơi
vào cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng. Cùng với sự suy sụp của
chính quyền trung ương các lãnh chúa phong kiến địa phương nổi dậy cát cứ,
cuộc sống người nông dân và những người lao động tự do ngày càng tồi tệ.
Họ bị quan lại bóc lột nặng nề, sưu cao, thuế nặng, lại thêm thiên tai bất
thường, mất mùa liên miên. Nạn đói khủng khiếp năm 1181 làm cho quá nửa
dân số chết đói. Để trốn tránh tô thuế và nghĩa vụ lao động, nhiều người đã
rời bỏ quê hương, sống tha phương cầu thực. Sự bất bình trong dân chúng
ngày càng tăng. Đã xuất hiện những cuộc khởi nghĩa, trong đó cuộc khởi
nghĩa lớn nhất là của Thanh Lôi (1140 -1141), Lê Văn (1180 -1182), Phí
Lăng (1202 -1215). Đất nước trong những năm 20 của thế kỷ XIII bị hỗn loạn
bởi những cuộc chiến tranh tương tàn giữa các nhóm phong kiến cát cứ khi
đó. Nhóm có ảnh hưởng lớn nhất là nhà Trần ở Hải Ấp (Thái Bình), Đồn
Thương ở Hồng Châu (Hải Hưng), Nguyễn Tư ở Quốc Oai (Hà Tây),
Nguyễn Nộn ở Bắc Giang (Hà Bắc). Thủ đô Thăng Long nhiều lần bị đánh
phá. Các vua Lý bất lực và phải khi thì dựa vào nhóm này, khi thì dựa vào

nhóm khác. Nhân dân vơ cùng đau khổ vì những cuộc chiến tranh nội bộ này.
[14, tr. 23].
Trong q trình hỗn lọan đó, họ Trần dần dần thâu tóm được lực lượng
và cuối cùng thâu phục được tất cả các lực lượng cát cứ khác. Vua cuối cùng
của nhà Lý là Lý Huệ Tơng bị bệnh, và do khơng có con trai nên buộc phải
9


nhường ngôi cho con gái bẩy tuổi là Lý Chiếu Hồng, song Lý Chiêu Hồng
nhường ngơi cho chồng là Trần Cảnh. Trần Cảnh lên ngôi sáng lập ra triều
Trần (1226 -1400) [14, tr. 24].
Về k

t , sang triều nhà Trần, lực lượng sản xuất bắt đầu khởi sắc lại

và được phục hồi và phát triển. Nhà Trần rất chú ý đến chính sách trọng nơng,
khuyến khích nơng nghiệp, lo khuếch trương diện tích canh tác. Các vị vua
đầu tiên của nhà Trần có chính sách cho qn lính và thường dân khai khẩn
đồn điền, đặt hẳn ở mỗi lộ hai chức Đồn điền chánh phó sứ để đơn đốc việc
ấy [2, tr. 205]. Năm 1236, Trần Khoán hạ chiếu cho các vương hầu, cơng
chúa, phị mã, cung tần sai nơ tỳ khai khẩn đất hoang đề làm biệt trang. Cùng
với chính sách “Ngụ binh ư nơng” kết hợp kinh tế với quốc phịng, nhà Trần
đã lập ra Ty Khuyến nơng, đặt các chức quan Hà đê chánh phó sứ. Năm 1248,
cho đắp đê dọc theo Nhị Hà từ đầu nguồn đến bờ biển, đoạn chảy qua kinh
thành Thăng Long gọi là đê Đỉnh Nhĩ (Quai vạc). Hàng năm, mọi người đều
có nghĩa vụ lao động tu sửa đê, học sinh Quốc Tử Giám cũng không được
miễn trừ. Các vua Trần cũng thường xuyên đi thăm việc đắp đê, sửa đê. Hành
khiển Trần Khắc Chung thì lập luận về trách nhiệm của nhà vua đối với thiên
tai giáng xuống người dân rằng “Khi dân nạn lụt, người làm vua phải cứu giúp
tai họa khẩn cấp đó, sửa đức chính khơng gì lớn hơn việc ấy”. [27, tr. 80].

Để đảm bảo nguồn quốc khố, công dân các làng xã đã phải chịu nghĩa
vụ tô thuế và lao dịch. Tô chủ yếu đánh vào ruộng cơng tính bằng thóc, theo
diện tích ruộng đất, hàm ý cày ruộng của nhà vua. Thuế chủ yếu đánh vào
ruộng tư, tính bằng tiền theo đầu người, hàm ý đó là nghĩa vụ của người có
ruộng. Năm 1378, nhà Trần bắt đầu thu thuế thân, đồng loạt mỗi hộ đinh nam
3 quan tiền [27, tr. 80]. Do vậy nền kinh tế quốc dân cũng dần mạnh lên.
Bắt đầu có phân biệt hình thức thủ cơng nghiệp Nhà nước và thủ cơng
nghiệp nhân dân. Nhà Trần cịn xây dựng quân xưởng thủ công nghiệp Nhà
nước, với nhiều ngành nghề khác nhau như nghề sản xuất các đồ gốm, nghề
dệt, xưởng chế tạo vũ khí... được coi là thành phần kinh tế quan trọng. Thủ
10


công nghiệp nhân dân là bộ phân quan trọng gắn liền với tiểu thủ công
nghiệp, của các tiểu nông. Chợ, phố, lị, sở và các phủ lộ và kinh đô Thăng
Long là thị trường trao đổi sản phẩm, với các sản phẩm thiết yếu như gốm,
đồ sắt, đồ đồng, giấy và bản khắc in, đồ mộc, xây dựng, và cả khai
khoáng… [38, tr. 206].
Như vậy, mạng lưới thương nghiệp gắn kết các thành thị đã tạo nên
một hệ thống giao thông thủy bộ trong cả nước. Đây cũng là một trong những
điều quan tâm từ đầu của nhà Trần. Năm 1244, Thái Tơng lập Ti Thủy lộ đề
hình nhằm mục đích mở rộng các đường sơng và đường bộ từ Thăng Long về
các phủ, lộ, chủ yếu là ở vùng đồng bằng Bắc bộ và Thanh Nghệ. Hệ thống
giao thông giữa các sông, và song với biển và kết hợp với giao thông trên bộ
thời Trần không chỉ phục vụ cho yêu cầu quân sự mà cũng có nhiều tác dụng
tốt cho thương nghiệp nói chung, thúc đầy nền kinh tế cả nước cùng phát triển.
Tiền được dùng như là phương tiện lưu thơng hàng hóa phổ biến lúc
đó. Các vua thời Trần đều cho đúc tiền. Trên thị trường còn sử dụng nhiều
tiền Trung Quốc. Nhà Trần đã khuyến khích mở rộng việc mua bán đất bằng
tiền, hay nộp tiền đề lấy quan chức. Nhà Trần có phân chức Quan xưởng đảm

nhiệm việc đúc tiền. Đơn vị tiền lúc đó là mỗi quan tiền bằng 10 tiền, mỗi tiền
là 70 đồng [38, tr. 209]. Đồng tiền góp phần thúc đẩy mạng lưới nội thương
phát triển nhanh, như là hệ thống chợ ở đồng bằng sông Hồng, chợ phố. Các
trung tâm phủ lị bên sông lớn đều là các đầu mối giao thông đường thủy.
Trung tâm lớn hơn là phố. Đơ thành Thăng Long là trung tâm chính trị, văn
hóa đồng thời là một trung tâm kinh tế lớn nhất của Đại Việt bấy giờ. Vào
thời Trần, An phủ sứ Thiên Trường cũng gần ngang với Đại An phủ sứ Thăng
Long. [38, tr. 214].
Tuyến đường biển giao thông với các nước láng giềng thời Trần cũng
góp phần tích cực thúc đẩy ngoại thương phát triển. Thuyền các nước như
Giava (Diệp Điều), Miến Điện (Thiện), Ấn Độ (Thiên Trúc) cũng từng cập
bến trên các hải cảng nước ta. Bấy giờ đã có những khách ngoại quốc đến
11


bn bán, nhiều nhất có lẽ là người Trung Quốc. [38, tr. 206]. Tại biên giới
Việt Trung vẫn có những sở bạc, tức là những nơi buôn bán quốc tế có từ thời
Lý. Các thương cảng như Vân Đồn, Cửa Cờn, Cửa Vạn đều thịnh vượng như
thời trước. Nhưng về sau, (năm 1349) nhà Trần đặt trấn giữ một số cửa biển,
chỉ cho các thuyền buôn ngoại quốc chỉ tụ tập ở Vân Đồn, nên hải cảng này
trở thành trung tâm mậu dịch đối ngoại quan trọng duy nhất. Vân Đồn còn là
là địa điểm chiến lược xung yếu. Sau này, trong cuộc tập kích của Trần
Khánh Dư đã tiêu diệt hạm đội vận lương của quân Nguyên trong năm 1287.
[2, tr. 206].
Quan hệ Phật giáo với nhà nước trong thời Trần khá chặt chẽ. “Đất của
vua, chùa của làng” là câu nói cho thấy quan niệm xác nhận sự tồn tại tự
nhiên của Phật giáo bởi nhà nước Việt Nam. Nhà Trần cũng đã có chế độ tơ
thuế cho loại ruộng công của làng xã và ruộng tư của cá nhân (năm 1242)
“Nhân đinh có ruộng đất thì nộp tiền thóc, có 1-2 mẫu thì nộp tiền 1 quan, có
3 - 4 mẫu thì nộp 2 quan tiền, từ 5 mẫu trờ lên thì nộp 3 quan tiền. Tơ ruộng

mỗi mẫu nộp 100 thăng thóc”. [38, tr. 193] Có thể nói bắt đầu có sự tích tụ
ruộng đất trong giới quý tộc nhà Trần và theo đó Phật giáo cũng phát triển theo.
Trong bối cảnh kinh tế như vậy, chính trị-xã hội thời Trần cũng diễn
ra sự phân hóa giai tầng xã hội mạnh mẽ. Nhìn chung xã hội thời Trần đã
hình thành và tồn tại ba đẳng cấp chính: q tộc, tơn thất; những người bình
dân; nơ tỳ.
Đối với đẳng cấp thứ nhất - giai cấp quý tộc vương hầu, tơn thất nhà
Trần - có vị trí và quyền lực cao nhất trong xã hội phong kiến lúc đó. Đẳng
cấp thứ hai gồm chủ yếu là dân lao động làng xã gồm nông dân, thợ thủ công,
thương nhân và điạ chủ nhỏ. Trong đó, những người lao động làng xã chiếm
đại đa số trong xã hội và là lực lượng chủ sản xuất yếu. Họ cũng là lực lượng
gánh vác nhiều nghĩa vụ xã hội nhất, một trong những nghĩa vụ đó là đóng
thuế cho triều đình.

12


Đối với đẳng cấp thứ ba- nô tỳ, họ bị coi là những người thấp kém nhất
trong xã hội. Họ xuất thân từ nhiều nguồn gốc, có thể là dân nghèo bị bán làm
nơ lệ, có thể là tội nhân bị sung làm nô hay tù binh. Họ thường làm nhiều
việc khác nhau: trong nhà quý tộc, quan lại thì gọi là “gia nô”; Làm trong đồn
điền hay ruộng công và các công việc khác gắn với của Nhà nước thì gọi là nơ
lệ của Nhà nước. Địa vị xã hội của nơ tỳ rất thấp hèn và có thể bị mua bán.
Họ cũng trở thành tài sản có thể tích lũy của giai cấp cao nhất và của cơng
quyền. [27, tr. 84]
Luật pháp nhà Trần vừa hàm chứa những quan điểm thân dân vừa tỏ ra
hà khắc đối với một số trọng tội. Năm 1230, Trần Thái Tông đã cho xét các
luật lệ đời trước, sửa đổi san định thể lệ cho làm ra sách Quố tr ều T ô
gồm 20 quyển. Năm 1341, triều đình đã cử Trương Hán Siêu và Nguyễn
Trung Ngạn biên soạn bộ H


tr ều

ển và khảo đính bộ Hì

T

để

ban hành. Cơ quan chun trách việc kiện tụng lúc đầu là Đô Vệ phủ, sau đổi
Tam ty viện. Trên danh nghĩa, nhà vua là người có quyền quyết định tối hậu
trong việc xét duyệt các vụ trọng án. Pháp luật đời Trần bảo vệ nghiêm ngặt
chính thể quân chủ và chế độ đẳng cấp. Pháp luật đời Trần cũng đã bảo vệ
quyền tư hữu tài sản của người dân. Trong các làng xã, dân chúng vẫn tuân
theo các phong tục cổ truyền, các bô lão giữ vai trò dàn xếp và xét xử dân sự.
[27, tr. 79]
Về ngoại giao: Để đối phó với nạn xâm lược Nguyên Mông và Tống,
nhà Trần thực hiện chủ trương vừa giữ hòa hảo với Tống và Nguyên, nhưng
bên trong chuẩn bị lực lượng sẵn sàng đối phó. Sau khi chiến thắng quân xâm
lược nhà Nguyên (năm 1285) nhà Trần củng cố nền độc lập, tự chủ của mình
song vẫn nhất qn thực hiện chủ trương hịa bình với Tống và Nguyên.
Về P ật

, có thể nói rằng Phật giáo có mặt ở nước ta từ đầu cơng

ngun và q trình định hình của nó ở Việt Nam ln gắn liền với các định
hướng chính trị, mỗi triều đình.

13



Đến thế kỷ thứ II, thứ III, Luy Lâu đã là một trong những trung tâm
Phật giáo lớn của châu Á. Ngay từ khi mới du nhập vào Việt Nam, đã có
những mầm mống hình thành nên khuynh hướng Thiền của Phật giáo Việt
Nam sau này. Chẳng hạn Thiền của Khương Tăng Hội (mất năm 280) chính
là khởi nguyên của Thiền học Việt Nam [14, tr. 17], Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu
Chi (Vinitaruci) đến Việt Nam (580) và lập nên tơng phái Thiền đầu tiên ở xứ
sở này. Dịng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi ở Việt Nam có sự kết hợp cả Thiền
tông và Mật tông. Thiền phái Vinitaruci là Thiền phái đến từ đại diện Phật
giáo Ấn Độ, mặc dù Vinitaruci đã qua Trung Quốc, và là học trò của tam tổ
Tăng Xán. Phật giáo Việt Nam trong giai đoan đầu (đầu CN đến thế kỷ V)
chủ yếu mang màu sắc Ấn Độ. Đây là giai đoạn Bắc thuộc nên trong tình hình
nước mất nhà tan, có thể vẫn tạm ẩn vào trong văn hóa Phật giáo Ấn Độ, tạo
nên một hệ thống văn hóa mới có đủ khả năng chống lại sự đồng hóa của văn
hóa phương Bắc.
Thiền phái thứ hai do Vô Ngôn Thông sang Việt Nam (820) và thành lập
nên phái Thiền mang tên sư ở nước ta. Nếu Thiền phái Vinitaruci là phái Thiền
mang đậu màu sắc Phật giáo Ấn Độ, thì Thiền phái Vô Ngôn Thông là của Phật
giáo Trung Hoa, nét đặc trưng của nó là kết hợp giữa Thiền với Lão Trang.
Trước nhà Lý, các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê đều tồn tại khơng lâu.
Nhà Lý trị vì đất nước thống nhất độc lập về lãnh thổ, kinh tế, chính trị, văn
hóa tương đối lâu dài hơn. Sự bền vững đó địi hỏi phải có một hệ tư tưởng
độc lập đủ mạnh về chinh trị, kinh tế, văn hóa. Hai Thiền phái đầu (Vinitaruci
và Vô ngôn thông) đều chưa thoản mãn được nhu cầu này. Đứng trước địi hỏi
đó, Lý Thánh Tông đã lập nên một Thiền phái mới - Thiền phái Thảo Đường.
Dòng này là sự kết hợp cả Thiền, Tịnh và Mật.
Nhà Trần được chuyển giao quyền lực chính trị từ tay nhà Lý một cách
êm thấm. Bởi vậy, muốn tiếp tục ổn định lòng dân, ổn định chính trị, muốn
văn hóa tiếp tục phát triển chứ không bị đứt đoạn, nhà Trần đã chọn phương
án tiếp tục đề cao Phật giáo. Mặt khác, nhà Trần đã chinh phục, thống nhất

14


được những lực lượng cát cứ từ thời Lý. Do đó nhà Trần cũng muốn thu về
một mối những lực lượng cát cứ trong tư tưởng. Nếu nhiệm vụ thứ nhất do
Trần Thủ Độ đảm nhiệm, thì nhiệm vụ thứ hai lại do Trần Thái Tông đã đứng
ra gánh vác [14, tr. 17]. Cũng chính vì lý do đó mà tư tưởng Thiền của Trần
Thái Tơng ra đời có ý nghĩa chính trị to lớn. Trong đó, tức là trong tư tưởng
Thiền của ơng có cả quan hệ tam giáo là một cách cố gắng “thống nhất” tình
trạng “cát cứ tư tưởng” lúc đó.
1.1.2. Tiền đề về văn hóa, giáo dục, nghệ thuật
Dựa vào các nguồn tư liệu mới phát hiện và kết quả nghiên cứu, nhiều
nhà khảo cổ học và sử học, thời kì dựng nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam
(tính từ thời Hùng Vương) trải qua 4 giai đoạn phát triển văn hóa nối tiếp
nhau liên tục và ngày càng cao trên cơ sở kế thừa thành quả văn hóa giai đoạn
trước. Bốn giai đoạn văn hóa đó đồng thời phản ánh q trình hình thành và
phát triển của Nhà nước và quốc gia Văn Lang - Âu Lạc.
P ù

N uyê tồn tại vào khoảng nửa đầu thiên nhiên niên

kỉ II TCN, thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng.



ậu ở vào khoảng

nửa sau thiên niên kỉ II TCN, thuộc trung kỳ thời đại đồng thau.
Mun tồn tại trong khoảng thời gian từ thế kỉ VII TCN.



ơ

S

tồn tại trong khoảng thời gian từ thế kỉ VII TCN đến thế kỉ I Công nguyên.
[38, tr. 36].
Quốc gia Văn Lang - Âu Lạc tồn tại trên dưới 500 năm TCN. Bằng
sức lao động sáng tạo và đấu tranh kiên cường, bền bỉ, người Việt cổ đã xây
dựng được cho mình một đất nước phát triển với nhiều thành tựu kinh tế và
văn hóa làm nền tảng cho một nền văn minh bản địa đậm đà bản sắc dân tộc.
[38, tr. 51].
Trên cơ sở kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước và kết cấu xóm làng bền
chặt, cư dân Văn Lang - Âu Lạc tiến hành khai hoang, làm thủy lợi, chống
ngoại xâm và các hoạt động khác. Cũng từ đó, người Việt cổ bấy giờ đã định
hình cho mình một lối sống, cách ứng xử, tâm lý, tôn giáo tín ngưỡng, nghệ
15


thuật, tốt lên đặc điểm của đời sống văn hóa vật chất và tinh thần đặc sắc
[38, tr. 52].
Có thể nói, người Việt cổ đã xây dựng nên một nền văn minh đầu tiên,
đó là nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc, cịn gọi là văn minh sơng Hồng. Nền
văn minh này có nguồn gốc lâu đời của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước ở
vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ mang tính bản địa đậm nét, kết tinh trong đó
bản lĩnh, truyền thống, cốt cách, lối sống và lẽ sống của người Việt cổ. Nét
tiêu biểu như: chung lưng đấu cật, đồn kết gắn bó với nhau trong cơng cuộc
lao động và đấu tranh, tình làng nghĩa xóm mặn nồng, tơn trọng người già và
phụ nữ, biết ơn và tôn thờ tổ tiên, các anh hùng, nghĩa sĩ... Bản sắc dân tộc
với những đặc trưng này chính là cội nguồn sức mạnh tinh thần để dân tộc

Việt Nam vượt qua được mọi thử thách to lớn trong hơn một nghìn năm Bắc
thuộc và các thời kì sau, cũng như trong thời nhà Trần.
Việc hình thành truyền thống văn hóa mang tính cộng đồng sâu sắc
cùng với đấu tranh chống quân xâm lược phương Bắc, đã giúp dân tộc Việt
hình thành ý thức về quốc gia độc lập và tinh thần yêu nước từ rất sớm.
Tư tưởng yêu nước của người Việt cịn biểu hiện ở tình cảm u gia
đình, gia tộc, làng bản. Khi có giặc ngoại xâm mỗi thành viên trong gia đình,
làng bản cùng góp sức đánh giặc. Năm 218 TCN Tần Thủy Hoàng sai tướng
Đồ Thư đem 50 vạn quân sang xâm lược nước ta, Thục Phán đã chỉ huy tiến
hành chiến tranh du kích, kháng chiến chống Tần suốt 10 năm và cuối cùng
giành được thắng lợi. Sau chiến thắng, Thục Phán - An Dương Vương được
dân ủng hộ xây thành Cổ Loa kiên cố, với những mũi tên đồng lợi hại khiến
quân thù phải khiếp sợ. Sức mạnh quân sự tổng hợp của thành Cổ Loa thể
hiện tài thao lược, nghệ thuật quân sự tuyệt vời của An Dương Vương và
nhân dân Âu Lạc, khẳng định ý chỉ quyết tâm bảo vệ đất nước. Nhà Triệu
xâm lược nước ta trong những năm 207-111, sau đó nhà Hán chiếm Nam
Việt, đổi tên là Giao Chỉ bộ, chia nước ta làm ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và

16


Nhật Nam. Đến năm 40 - 43 Hai Bà Trưng đã phất cờ khởi nghĩa, đánh phá
thành Luy Lâu, trụ sở của nhà Hán, thái thú Tô Định phải bỏ chạy.
Tư tưởng yêu nước của người Việt trong thời kỳ Bắc thuộc được hình
thành và phát triển trên cơ sở tư tưởng đoàn kết cộng đồng. Thế kỷ thứ VI Lý
Bí là người văn võ tồn tài, khi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa thắng lợi, ơng xưng
là Nam Đế. Ơng lấy quốc hiệu là Vạn Xuân, xây dựng điện Vạn Thọ, niên
hiệu là Thiên Đức. Ông nghĩ tới nguyên tắc để xây dựng một quốc gia độc lập
đó là đế hiệu, quốc hiệu, quốc giáo, kinh đô và hệ thống chính quyền. Tư
tưởng của ơng về một quốc gia độc lập tự chủ ngang hàng với phương Bắc,

vận dụng mô hình quản lý xã hội phương Bắc vào Việt Nam ngày càng phát
triển. Cho tới thế kỷ X tư tưởng về một quốc gia độc lập được hoàn thiện hơn
với sự ra đời của Nhà nước phong kiến Việt Nam dưới các triều đại Ngô Đinh - Tiền Lê. Một biểu hiện của tư tưởng yêu nước thời kỳ Bắc thuộc là tư
tưởng đấu tranh chống chính sách đồng hóa của các tập đoàn phong kiến
phương Bắc, mà ngay từ đây Phật giáo đã bắt đầu thể hiện được vai trị văn
hóa, tư tưởng của mình.
Chính sách đồng hóa của tập đoàn phong kiến phương Bắc nhằm biến
nước ta thành một quận, huyện của chúng. Chúng trực tiếp cử các quan lại
người Hán đứng đầu cai trị các châu, quận, bắt dân Việt phải học cách canh
tác theo kiểu người Hán, học cách ăn mặc, nói năng, đi lại theo phong tục tập
quán của người Hán và đặc biệt là dùng chữ Hán. Thực tế cho thấy qua thời
kỳ bị đơ hộ, văn hóa Hán chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới các tầng lớp trên, những
yếu tố bản địa, truyền thống vẫn được giữ gìn, bảo vệ, duy trì trong các làng
xã ở nông thôn, nơi mà Phật giáo đã thấm sâu một cách hịa bình vào đời sống
tinh thần của người dân lao động. Phương thức canh tác nông nghiệp kiểu
người Hán không thể thâm nhập và thay thế phương thức canh tác nông
nghiệp của người Việt. Người Việt yêu nước chống Hán hóa từ nhiều mặt,
vừa nổi dậy đấu tranh đuổi giặc ngoại xâm, vừa kế thừa và phát triển những
giá trị văn hóa bản địa, tiếp biến những giá trị văn hóa bên ngồi, từng bước
17


đấu tranh giành độc lập. Một trong những điểm tựa tinh thần để chống Hán
hóa có phần đóng góp tích cực của Phật giáo. Đây là một trong những tiền đề
quan trọng mà đến thời Trần vua Trần Thái Tông đã nhận thấy và phát huy
trong thực tiễn truyền bá giáo pháp rất thành công.
Tư tưởng yêu nước Việt Nam thời Bắc thuộc là sự tiếp nối và phát triển
tư tưởng thời Hùng Vương, được phát triển lên một tầm cao mới đã mang tính
lý luận và hệ thống.
Giai đoạn lịch sử có ý nghĩa tiền đề trực tiếp cho thời Trần chính là thời

Lý với nhiều thành tựu lớn mà người Việt đã đạt được. Chẳng hạn, C

ur

ô của Lý Công Uẩn vào năm 1010 thể hiện sự nhận thức chính trị của một
nhà nước độc lập rất căn bản và sâu sắc. Lý Công Uẩn gắn liền việc dời đô
với việc dựng nước nhằm củng cố nền độc lập dân tộc. Dời đô để đáp ứng nhu
cầu thực tiễn chứ khơng phải việc làm mang tính cá nhân. Lý do của việc rời
đô, theo Lý Công Uẩn là “Chỉ vì muốn đóng đơ ở nơi trung tâm, mưu toan
nghiệp lớn, tính kế mn đời cho con cháu, trên vâng mệnh trời, dưới theo ý
dân” và ông muốn “Cho vận nước được lâu dài, phong tục phồn thịnh” [38,
tr.120] Như vậy, C

ud

ô này chẳng những đã làm rõ yêu cầu củng cố

tung ương ổn định lâu dài của đất nước, mong muốn xây dựng một quốc gia
độc lập, tự chủ, giàu mạnh ở phương Nam. Việc dời đô về Thăng Long cũng
chứng tỏ khả năng, lòng tin và quyết tâm của cả dân tộc và tỏ rõ được ý thức
giữ vững nền độc lập là tiên quyết. Năm 1054 nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt,
điều đó nói lên tinh thần tự tôn dân tộc và ý thức bình đẳng dân tộc sâu sắc.
Có thể nói lịch sử thành văn của dân tộc Việt Nam cũng là biểu hiện tập
trung nhất của tư tưởng yêu nước chống giặc ngoại xâm.
Tóm lại, sự biến đổi kinh tế xã hội chính trị là tiền đề địi hỏi những
biến đổi trong tư tưởng. Để có thể vừa đáp ứng nhu cầu về tư tưởng, vừa đáp
ứng nhu cầu về chính trị, nhằm thiết lập hệ tư tưởng độc lập, làm chỗ dựa về
mặt tinh thần vững chắc cho xã hội Đại Việt, tư tưởng Thiền của Trần Thái
Tông ra đời là một trong những thể hiện đáp ứng những nhu cầu thực tiễn lý
luận lúc đó.

18


1.2. Tiền đề lý luận cho sự hình thành tƣ tƣởng Thiền của Trần
Thái Tông
Tư tưởng Thiền học Trần Thái Tơng khơng chỉ được hình thành trên cơ
sở điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội dưới thời nhà Trần mà còn là sự kế thừa
hệ thống tư tưởng truyền thống trước đó. Tư tưởng Thiền Trần Thái Tơng là
sự kế thừa, dung hợp tư tưởng văn hóa Việt Nam truyền thống, tư tưởng tam
giáo: Nho, Đạo, Phật và đặc biệt ba Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn
Thông và Thảo Đường tạo tiền đề trực tiếp hình thành tư tưởng Thiền học Trần
Thái Tơng.
1.2.1. Sự kế thừa các giá trị tư tưởng truyền thống Việt Nam
Những giá trị về tinh thần quốc gia dân tộc, độc lập tự chủ và tinh thần
yêu nước của dân tộc Việt Nam đã được kế thừa và phát huy rực rỡ dưới thời
Trần. Đặc biệt là Phật giáo Việt Nam đã phát triển và hoàn thiện tới lúc trở
thành Phật giáo Việt Nam, Thiền Phật giáo Việt Nam, chứ không còn theo
nghĩa là Phật giáo ở Việt Nam hay du nhập vào Việt Nam.
Các hệ tư tưởng, tôn giáo lớn như Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo được
truyền vào nước ta từ thời Bắc thuộc song đã được bản địa hóa và trở thành tri
thức hữu dụng trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ các nhà nước qua các
triều đại Đinh, Lê, Lý đều được nhà Trần tiếp thu, kế thừa một cách có chọn
lọc cho một chiến lược phát triển nhà Trần tới thịnh trị.
Nho giáo, do Khổng Tử (551-479 TCN) sáng lập. Sau đó Mạnh Tử
(372 – 289 TCN) phát triển theo khuynh hướng duy tâm và Tuân Tử (313 238 TCN) phát triển theo chiều hướng duy vật. Nho từ Khổng Tử đến Tuân
Tử gọi là Nho Tiên Tần hay Nho Nguyên thủy. Đặc điểm của nó là chưa thần
bí hóa và chưa khắc nghiệt, phù hợp với xã hội phong kiến phân quyền thời
Xuân Thu - Chiến Quốc ở Trung Quốc. Trải qua 25 thế kỷ phát triển, Nho
giáo về sau khác nhiều so với Nho giáo Nguyên thủy, nhưng vẫn giữ nét
chung cơ bản nhất, đó là học thuyết về chính trị - đạo đức của giai cấp phong

kiến Trung Quốc.
19


Nho giáo chủ trương dùng “nhân trị”, “đức trị” để quản lý xã hội.
Khổng Tử nói: “Dùng đạo đức làm đường lối chính trị thì như là sao Bắc Cực
ở một chỗ nhất định mà các sao khác đều vây quanh”. [52, tr. 75] Mạnh Tử
nói: “Lấy sức để bắt người quy phục thì khơng phải là phục ở trong lịng. Sức
thì khơng đủ vậy. Lấy đức để khiến người phục thì trong lịng họ vui vẻ và
mới đúng là cái phục thực sự”. [52, tr. 75] Ngoài ra, những nguyên tắc đạo
đức của Nho giáo, như ngũ thường (nhân, lễ, nghĩa, Trí, tín) chính là chuẩn
mực điều chỉnh hành vi của con người, đồng thời vừa là những biện pháp bảo
đảm cho quyền lực chính trị của nhà nước được thực hiện. Nho giáo Khổng Mạnh (Nho Tiên Tần) đã nêu lên một mơ hình xã hội lý tưởng - “xã hội đại
đồng”. Ở đó có vua thánh tơi hiền, mọi cái đều là của chung, người người
được chăm sóc, đối với nhau thì như anh em, xã hội thì hịa mục [52, tr. 76]
Nho giáo vào Việt Nam theo chân kẻ xâm lược, là công cụ thống trị tư
tưởng của quân xâm lược phương Bắc. Một số viên quan người Hán có cơng
truyền bá đạo Nho vào nước ta như Nhâm Diên và Tích Quang [52, tr. 80]
Nhâm Diên là thái thú của Giao Chỉ, vốn người thông minh, học rộng. Tích
Quang là thái thú Cửu Chân. Cả hai viên quan này đều dựng trường để dạy
học chữ Hán cho con em quan lại người Việt hoặc những người giàu có trong
xã hội Việt Nam lúc đó. Sĩ Nhiếp cũng là một thái thú Giao Chỉ, nhưng đã là
người Việt gốc Hoa, được xem là “Nam giao học tổ” vì có cơng trong việc
mở trường dạy học. Một số người Việt đã học chữ Hán để phục vụ cho
chính quyền đơ hộ; Một số khác lại học để nắm được kiến thức đương thời.
[52, tr. 80].
Từ triều đại nhà Lý, Nho giáo cũng có bước phát triển đặc biệt ở Việt
Nam. Năm 1070, Lý Thánh Tông cho xây dựng Văn Miếu ở kinh thành, đắp
tượng Khổng Tử, Chu Công, tứ phối và 72 người hiền của đạo Nho, thành
trường đại học đầu tiên dành cho các thái tử. Giáo dục Nho học của nhà nước

Đại Việt chính thức được thiết lập. Năm 1075, nhà Lý mở khoa thi Minh kinh
đầu tiên, năm 1076, nhà Lý cũng mở kì thi viết, toán và luật để chọn người và
20


năm 1195 mở kì thi tam giáo đầu tiên. Sang thời Trần tuy lấy Phật giáo làm
quốc giao, song yếu tố Nho giáo trong thi cử và học thuật vẫn được tiếp tục
phát triển hơn nữa [38, tr. 264].
Tư tưởng Lão - Trang và Đạo giáo cũng được truyền sang Việt Nam
cùng với Nho giáo. Tư tưởng Lão-Trang do Lão Tử (có học thuyết cho rằng
cùng thời với Khổng Tử) sáng lập và Trang Tử (369-286 TCN) là người phát
triển tiếp. Tư tưởng Lão - Trang gồm một hệ thống các quan điểm, chẳng hạn
quan niệm cho rằng “Đạo trời khơng làm gì nhưng khơng có cái gì là khơng
sinh ra từ đó”. [52, tr. 82] Do đó con người khơng cần can thiệp vào xã hội,
cứ để cho nó tự nhiên phát triển, trong cuộc sống con người không cần phải
tranh dành nhau, trái lại cần giữ thái độ mềm yếu, biết đủ và bất tranh, vì
“Mềm yếu thắng cứng mạnh”, “Binh mạnh thì sẽ bị diệt, gỗ cứng thì sẽ bị gẫy”
[52, tr. 83]
Đạo giáo cũng đã trở thành một bộ phận trong tư tưởng và quan niệm
tôn giáo của người Việt. Đạo Giáo là một tổ chức tôn giáo ở Trung Quốc, lấy
tư tưởng của Lão - Trang làm nền tảng kinh điển song hoạt động theo hai
hướng tu tiên và ma thuật, phù thủy, bùa chú với mục đích tìm sự trường sinh
bất tử và các năng lực siêu phám. Một số bộ phận quan lại và một số quí tộc
người Hán do các lý do chính trị - xã hội, lánh nạn sang Giao Chỉ đã mang và
truyền bá tư tưởng Đạo giáo thần tiên, Đạo giáo phù thủy sang cho người
Việt. Ở Việt Nam, ảnh hưởng của triết học Lão-Trang chủ yếu ảnh hưởng tới
tầng lớp nho sĩ song không thành các trường phái độc lập; còn ảnh hưởng của
Đạo giáo thần tiên, phù thủy chỉ liên kết và phát triển trong các tín ngưỡng
dân gian mà khơng thành loại hình tơn giáo riêng ở Việt Nam [52, tr. 85]. Ảnh
hưởng Đạo giáo trong văn hóa Việt Nam khơng phải là nhỏ, song chủ yếu là

qua các hình thức tín ngưỡng dân gian của người dân lao động ở các làng quê.
P ật

có nguồn gốc từ Ấn Độ cổ đại, người sáng lập là Tất Đạt Đa

(Siddhartha), sinh khoảng thế kỷ VI TCN ở kinh thành Kapilavastu, gần chân
núi Himalaya về phía nam, nay thuộc miền nam nước Nêpan, giáp phía bắc
21


×