Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

(Luận văn thạc sĩ) đạo hiếutrong phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đạo đức ở VN hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------

NGUYỄN THỊ THU

“ĐẠO HIẾU” TRONG PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƢỞNG
CỦA NÓ ĐẾN ĐẠO ĐỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THU

“ĐẠO HIẾU” TRONG PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƢỞNG
CỦA NÓ ĐẾN ĐẠO ĐỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60.22.03.01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Mai Thị Thanh

Hà Nội - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng em, kết quả
nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Luận văn có sự kế thừa các cơng
trình nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc, trên cơ sở đó tác giả luận văn bổ sung
thêm những tƣ liệu mới và chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ cơng trình nào.
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Tác giả
Nguyễn Thị Thu


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, em đã nhận đƣợc sự chia sẻ, hỗ trợ, giúp đỡ
và hƣớng dẫn tận tình của giảng viên hƣớng dẫn TS. Mai Thị Thanh. Vì vậy,
em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới giảng viên hƣớng dẫn TS. Mai Thị
Thanh đã tạo điều kiện hƣớng dẫn, hỗ trợ, giúp đỡ tận tình cho em hồn thành
cơng trình nghiên cứu một cách thuận lợi nhất.
Trong phạm vi của cơng trình nghiên cứu này, cũng nhƣ bản thân em
còn hạn hẹp về kinh nghiệm, chắc chắn khơng tránh khỏi những thiếu sót. Em
mong nhận đƣợc sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến của q thầy cơ giáo và tồn thể
bạn đọc.
Chân thành cảm ơn !
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Học viên
Nguyễn Thị Thu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận văn ............................................. 6
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu luận văn .................................................. 7
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn ........................ 7
6. Đóng góp của luận văn................................................................................ 7
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................ 8
8. Kết cấu của lận văn: ................................................................................... 8
Chƣơng 1: “ĐẠO HIẾU” TRONG PHẬT GIÁO VIỆT NAM .................. 9
NỘI DUNG VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CƠ BẢN ......................................... 9
1.1. Khái quát chung về Phật giáo Việt Nam ................................................ 9
1.1.1. Sự ra đời và quá trình phát triển của Phật giáo ................................... 9
1.1.2. Quá trình du nhập, phát triển Phật giáo ở Việt Nam ......................... 16
1.2. Nội dung cơ bản về “Đạo Hiếu” trong Phật giáo Việt Nam............... 20
1.2.1. Tư tưởng về “Đạo Hiếu” trong Phật giáo .......................................... 20
1.2.2. Tư tưởng “Đạo Hiếu” trong Phật giáo Việt Nam .............................. 26
Chƣơng 2: ẢNH HƢỞNG “ĐẠO HIẾU” TRONG PHẬT GIÁO ĐẾN ĐẠO
ĐỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ...........32
2.1. Thực trạng ảnh hƣởng “Đạo Hiếu” trong Phật giáo đến đạo đức ở
Việt Nam hiện nay ......................................................................................... 32
2.1.1. Những tư tưởng về “Đạo Hiếu” trong đạo đức Việt Nam ................. 32
2.1.2. Những ảnh hưởng tích cực từ “Đạo Hiếu” Phật giáo đến đạo đức ở
Việt Nam ......................................................................................................... 40


2.1.3. Những ảnh hưởng tiêu cực từ “Đạo Hiếu” Phật giáo đến đạo đức ở
Việt Nam ......................................................................................................... 51
2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những ảnh hƣởng tích cực
và hạn chế mặt tiêu cực của “Đạo Hiếu” trong Phật giáo đến đạo đức ở
Việt Nam hiện nay ......................................................................................... 55
2.2.1. Phát triển kinh tế cần gắn với việc giáo dục các giá trị “Đạo Hiếu”
của Phật giáo vào đời sống xã hội ................................................................. 55

2.2.2. Đổi mới nội dung giáo dục “Đạo Hiếu” Phật giáo cho phù hợp với
điều kiện nước ta hiện nay............................................................................. 59
2.2.3. Kết hợp giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục “Đạo Hiếu” cho mỗi
cá nhân trong xã hội ...................................................................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xƣa đến nay, cha ông ta rất coi trọng việc giáo dục đạo đức cho
con cháu, trong đó giáo dục đạo Hiếu đƣợc đặt lên hàng đầu. Đạo Hiếu vốn
là truyền thống quý báu tốt đẹp của dân tộc ta, tinh thần ấy đƣợc giữ gìn,
bảo tồn, phát huy qua bao thế hệ. Đạo Hiếu đƣợc bắt nguồn từ tấm lòng tri
ân, là sự bày tỏ, đền đáp công lao dƣỡng dục của mẹ cha - ngƣời đã đem lại
cho ta sự sống, nâng đỡ ta từ bƣớc đi đầu tiên. Đạo làm con phụng dƣỡng cha
mẹ là để báo đền ân đức nhƣng khơng có nghĩa là chỉ phụng dƣỡng cha mẹ về
vật chất mà cịn về tinh thần, khơng để cha mẹ lo lắng, phiền muộn. Cũng nhƣ
thế, Phật giáo với triết lý nhân sinh cao cả mang trong mình giá trị nhân văn
sâu sắc khi luôn hƣớng về cội nguồn. Phật giáo gần gũi với Hiếu đạo trong
truyền thống dân gian vì gia đình đƣợc xây dựng trên nền tảng của ln lý
thành kính, tấm lịng biết ơn của con cháu đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên. Ý
thức về trách nhiệm, bổn phận, lƣơng tâm đƣợc đánh thức dậy từ thái độ biết
ơn, đáp đền ân nghĩa của cuộc sống mà khởi đầu là đáp đền ân nghĩa mẹ cha.
Lớn lên, khi nhận thức và kinh nghiệm sống trƣởng thành, ngƣời con nhận ra
tình thƣơng cha mẹ khơng chỉ là ân nghĩa lớn mà còn là lẽ sống của mình.
Ngƣời phƣơng Đơng vốn coi trọng các giá trị đạo đức truyền thống, coi
các chuẩn mực đạo đức là thƣớc đo nhân cách con ngƣời. Cách ứng xử trong
gia đình cũng nhƣ ngồi xã hội đều trong vịng ln thƣờng đạo lí, trong đó
mối quan hệ gia đình đƣợc đề cao vì đó là nguồn gốc, nền tảng cho các mối

quan hệ khác. Trong quan hệ gia đình chữ Hiếu đóng vai trị vơ cùng quan
trọng, Hiếu khơng đơn thuần chỉ là hành vi ứng xử đạo đức của con cái đối
với cha mẹ mà hơn thế nữa, suy rộng ra chữ Hiếu còn bao gồm các mối quan
hệ giữa các thế hệ trong gia đình dịng tộc, là sự ghi nhận, tƣởng nhớ của con
của thế hệ sau đối với thế hệ trƣớc. Đạo Hiếu không chỉ là Hiếu với cha mẹ
1


mình nhƣ ngƣời xƣa vẫn nói, trong thời đại ngày nay, Hiếu cịn là Hiếu với
nhân dân, với tồn dân tộc. Đây là điều mà các nhà tƣ tƣởng đạo đức hƣớng
đến, chính cái nhìn từ bi của Phật giáo đã tiếp thêm sức sống cho dân tộc và
khơi nguồn thêm cho dòng thác nhân đạo của dân tộc Việt Nam chảy mạnh
vào nghĩa sống vơ cùng, đó là lịng hiếu thảo.
Nền kinh tế nƣớc ta hiện nay đang trong giai đoạn quá độ, chuyển tiếp
từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trƣờng có sự quản lý của
nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những mặt tích cực,
kinh tế thị trƣờng cũng gây ra những tác động tiêu cực đến đời sống đạo đức,
tinh thần của thế hệ trẻ - chủ nhân tƣơng lai đất nƣớc. Thực trạng đó đã gióng
lên hồi chng cảnh báo cho tồn xã hội, địi hỏi cộng đồng phải dành sự
quan tâm, nghiên cứu nhiều hơn đến đạo đức - vấn đề cần đƣợc quan tâm
trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
Tình hình đạo đức ở Việt Nam hiện nay đặt ra vần đề muốn giữ gìn,
phát huy các giá trị đạo đức của dân tộc cần nghiên cứu tƣ tƣởng đạo Hiếu
trong Phật giáo, bởi đạo Hiếu trong Phật giáo có tầm ảnh hƣởng rộng lớn tới
nếp sống, phong tục, tập quán ngƣời Việt, là tƣ tƣởng mang giá trị nhân văn
sâu sắc. Với những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài: “Đạo Hiếu trong Phật giáo
và ảnh hƣởng của nó đến đạo đức ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn
thạc sĩ Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề “Đạo Hiếu” trong Phật giáo giống nhƣ thỏi nam châm thu hút

nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu. Nhiều bài giảng, bài viết đã làm rõ
hơn các khía cạnh của đạo Hiếu, trong đó có thể kể đến:
- Bài giảng “Đạo Phật và chữ Hiếu” của Hịa Thƣợng Thích Minh
Châu. Số ra đăng ngày 21 tháng 8 năm 2010.

2


- Bài giảng “Chữ Hiếu trong Kinh điển Phật giáo” của Hịa thƣợng
Thích Nhật Từ, Tạp chí Hƣơng Sen, 1991.
- Bài giảng “Đạo Hiếu và chữ Hiếu” của Hòa Thƣợng Thích Minh
Châu, Thƣ viện Hoa Sen, 2011.
- Bài giảng “Đạo Hiếu trong nhà Thiền” của Hịa Thƣợng Thích Minh
Thơng (Tháng 6/2014).
- Bài viết “Quan niệm về Hiếu trong giáo lý Phật giáo”, Thanh Dũng,
Trung tâm văn hóa Phật Giáo Liễu Quán. Đăng ngày 21 tháng 7 năm 2014
- Bài viết “Từ Đạo Hiếu truyền thống nghĩ về Đạo Hiếu ngày nay”.
Nguyễn Thị Thọ, đăng trên tạp chí Triết học số 8/2013
- Bài viết “Lễ Vu Lan và đạo lý sống của dân tộc Việt Nam” của Hịa
Thƣợng Thích Phƣớc Đạt, đăng ngày 31/8/2012 trên báo Văn hóa - giáo dục.
- Bài viết “ Hiếu và xây dựng đạo Hiếu trong xã hội hiện nay” của GS.
Nguyễn Tài Thƣ, đăng trên Tạp chí Triết học tháng 8/2013.
Những bài giảng, bài viết nêu trên phần nào giúp chúng ta hiểu thêm
về đạo Phật nói chung cũng nhƣ quan niệm về chữ Hiếu trong Phật giáo. Tuy
nhiên, với những bài viết nêu trên các tác giả chƣa đi sâu vào nghiên cứu ảnh
hƣởng “đạo Hiếu”, cũng nhƣ chƣa đƣa ra đƣợc giải pháp nhằm phát huy mặt
tích cực cũng nhƣ hạn chế mặt tiêu cực của “đạo Hiếu” tới đạo đức ở Việt
Nam hiện nay.
Liên quan đến văn hóa, lối sống Phật giáo và ảnh hƣởng của nó tới đời
sống đạo đức trong xã hội Việt Nam cịn có một số luận văn, luận án nhƣ:

- Luận án tiến sĩ Triết học “Ảnh hưởng của những tư tưởng Triết học Phật
giáo trong đời sống văn hóa tinh thần dân tộc Việt Nam”, Lê Hữu Tuấn, 1999.
- Luận án tiến sĩ Triết học “Vai trò của Phật giáo ở Việt Nam”, Phạm
Văn Sinh, Trƣờng đại học tổng hợp, 1995.

3


- Luận án tiến sĩ Triết học “Ảnh hưởng của “Tâm” trong Phật giáo đối
với đời sống đạo đức ở nước ta hiện nay”, Ngô Thị Lan Anh.
- Luận án tiến sĩ Triết học “Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong
đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam hiện nay”, Tạ Chí Hồng, 2004.
- Luận văn thạc sĩ “Nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó
đến lối sống con người Việt Nam”, Nguyễn Minh Nhựt, Trƣờng khoa học xã
hội nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, (tháng 9, 2011)
- Luận văn thạc sĩ “Thế giới quan, nhân sinh quan đạo Phật và sự ảnh
hưởng của nó tới xã hội Việt Nam”, Mai Xuân Hội, Trƣờng đại học khoa học
xã hội nhân văn, 1996.
- Luận văn thạc sĩ “Đạo Hiếu trong lễ Vu Lan Phật giáo”, Nguyễn Thị
Phƣơng Hà, Trƣờng đại học khoa học xã hội nhân văn, Hà Nội, 2014.
- Luận văn thạc sĩ “ Đạo Hiếu trong giáo dục đạo đức ở Việt Nam hiện
nay”, Lý Thị Cẩm Vân, Trƣờng đại học khoa học xã hội nhân văn, Hà Nội, 2014.
Các luận văn, luận án trên đã phân tích rõ ảnh hƣởng của Phật giáo đến
đạo đức, đời sống con ngƣời Việt Nam, vai trò của Phật giáo ở Việt Nam.
Ảnh hƣởng của “Tâm” trong Phật giáo đối với đời sống đạo đức ở nƣớc ta
hiện nay, ảnh hƣởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống đạo đức của xã hội
hiện nay, nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hƣởng của nó đến lối sống con
ngƣời Việt Nam… Tuy nhiên các tác giả chƣa đi sâu vào nghiên cứu “đạo
Hiếu” mà mới chỉ dừng lại ở mức độ khái quát ảnh hƣởng của Phật giáo đến
đạo đức nói chung.

Một số cuốn sách của các nhà nghiên cứu tâm huyết cũng đề cập một
cách rõ ràng hơn đến đạo Phật nhƣ:
Cuốn sách "Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam", ủy
ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện triết học xuất bản năm 1984, tập hợp 25
bài tham luận của các nhà nghiên cứu có tên tuổi của giới khoa học nƣớc ta.

4


Các tác giả đã phân tích và làm sáng tỏ mối quan hệ tác động qua lại giữa
Phật giáo và lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam, tính chất của Phật giáo và Phật giáo
Việt Nam và đề cập đến một số tông phái Phật giáo ở Việt Nam, ảnh hƣởng
của Phật giáo tới chủ nghĩa yêu nƣớc, tới văn hóa Việt Nam.
Cuốn sách "Lịch sử Phật giáo Việt Nam" của Viện Triết học do PGS
Nguyễn Tài Thƣ chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 1988. Cuốn sách đề cập đến
quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo vào Việt Nam từ đầu Công
nguyên cho đến nửa đầu thế kỷ XX.
Cuốn sách “Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo”, Thích Tâm Thiện,
Nxb Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh, 1994. Đây là cuốn nhập
mơn Phật học. Tác giả trình bày vị trí và giá trị của Phật giáo với những
nguyên lý nền tảng của Phật giáo.
Cuốn sách“Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam”, TS.
Nguyễn Hùng Hậu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997. Trong đó tác giả phân
tích khía cạnh bản thể luận, quan niệm nhân sinh của các thiền sƣ thời Trần.
Ngoài ra cịn có nhiều cơng trình trên các tạp chí cũng đề cập đến
những ảnh hƣởng của Phật giáo trên các phƣơng diện khác nhau trong văn
hoá, lối sống của ngƣời Việt Nam nhƣ:
“Phật giáo và sự hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay”
(Tạp chí Triết học số 2/1994) của GS.TS Nguyễn Tài Thƣ. “Tơn giáo và tín
ngưỡng trong đời sống văn hố hiện nay” (Tạp chí Cộng sản số 15/1999) của

GS.TS Đỗ Quang Hƣng. “Vài suy nghĩ về Phật giáo dân gian Việt Nam” (Tạp
chí Nghiên cứu Phật học số 2/1997) của Hoàng Thị Lan. “Phật giáo và tâm
hồn người Việt” (Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 6/1998) của Vũ Minh
Tuyên. “Một vài đóng góp của Phật giáo đối với văn hố Việt Nam” (Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo, số 5/2005) của Lê Đức Hạnh. Công trình nghiên cứu

5


“Phật giáo và văn hóa dân gian Việt Nam, mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư
tưởng Việt Nam”, Vũ Ngọc Khánh, Viện Triết học Hà Nội, 1986.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên, từ
nhiều góc độ khác nhau phần nào giúp chúng ta hiểu về đạo Phật, lịch sử Phật
giáo nƣớc ta. Tuy nhiên các tác giả chƣa đi sâu vào tìm hiểu về đạo Hiếu và
định hƣớng, giải pháp, ảnh hƣởng của đạo Hiếu trong Phật giáo đến đạo đức ở
Việt Nam hiện nay. Những đề tài trên đã cung cấp cơ sở khoa học lý luận và
thực tiễn quan trọng để tác giả đi sâu nghiên cứu những vấn đề mà đề tài của
tác giả đặt ra.
Với tình hình nghiên cứu nhƣ vậy, theo chúng tơi cần có một cái nhìn
hệ thống hơn, tồn diện hơn về quan niệm đạo Hiếu trong Phật giáo, đồng
thời từ đó áp dụng vào nhận thức và thực tiễn xã hội nƣớc ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu nội dung tƣ tƣởng “đạo Hiếu” trong Phật giáo Việt Nam,
chỉ ra ảnh hƣởng của tƣ tƣởng này ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đƣa ra giải
pháp chủ yếu nhằm phát huy những ảnh hƣởng tích cực và hạn chế mặt tiêu
cực của “đạo Hiếu” trong Phật giáo đến đạo đức ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt mục tiêu trên, luận văn đề ra và tập trung giải quyết những vấn đề chủ
yếu sau:

Thứ nhất, khái quát chung về Phật giáo Việt Nam – Nội dung và
những biểu hiện cơ bản.
Thứ hai, nội dung cơ bản về “Đạo Hiếu” trong Phật giáo Việt Nam.
Thứ ba, thực trạng và ảnh hƣởng “đạo Hiếu” trong Phật giáo đến đạo
đức ở Việt Nam hiện nay.

6


Thứ tư, một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những ảnh hƣởng tích
cực và hạn chế mặt tiêu cực của “đạo Hiếu” trong Phật giáo đến đạo đức ở
Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tƣ tƣởng về “đạo Hiếu “ trong Phật giáo và ảnh hƣởng của nó đến đạo
đức ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi nghiên cứu, tác giả tập trung vào ảnh hƣởng của “đạo
Hiếu” đến đạo đức ở Việt Nam từ sau năm 1986 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Để thực hiện đƣợc nhiệm vụ trên, luận văn dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin và quan điểm, đƣờng lối, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc
ta về tôn giáo. Đồng thời, luận văn kế thừa một cách có chọn lọc những lý
luận thích hợp của các cơng trình nghiên cứu của nhiều tác giả có liên quan
đến nội dung của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận chung là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận văn sử dụng
phƣơng pháp: lôgic – lịch sử, phân tích – tổng hợp, so sánh để trình bày

những vấn đề đặt ra.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung cơ bản tƣ tƣởng
“đạo Hiếu” trong Phật giáo, quá trình du nhập, biến đổi cũng nhƣ những ảnh
hƣởng của nó đến đạo đức ở Việt Nam hiện nay. Luận văn cố gắng đem lại
những tri thức, quan niệm về “đạo Hiếu” dƣới góc nhìn của đạo Phật, từ đó

7


giúp ngƣời đọc hiểu đƣợc tầm quan trong “đạo Hiếu”, đền đáp công ơn sinh
thành dƣỡng dục của ông bà, cha mẹ, nhận thức rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của
bản thân đối với gia đình, xã hội.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn cung cấp một cách hệ thống, bao quát khái quát về sự ra đời
và phát triển Phật giáo nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng.
Làm rõ nội dung quan niệm “đạo Hiếu” trong Phật giáo, từ đó thấy
đƣợc nét đặc sắc riêng của “đạo Hiếu” trong đạo Phật ở nƣớc ta có tầm ảnh
hƣởng nhƣ thế nào đến đạo đức ngƣời Việt hiện nay. Đề tài sẽ là cơ sở lý luận
cho việc nghiên cứu về “đạo Hiếu” ở Phƣơng Đông, đặc biệt là ở Việt Nam.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Cơng trình này có thể dùng làm tài liệu tham khảo nghiên cứu, giảng
dạy môn tôn giáo, đạo đức học, lịch sử triết học phƣơng Đông...Đặc biệt đề
tài là cơ sở để giáo dục đạo đức, đạo Hiếu, góp phần vào sự phát triển hồn
thiện cho mỗi cá nhân.
8. Kết cấu của lận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn đƣợc trình bày gồm hai chƣơng, bốn tiết.


8


Chƣơng 1: “ĐẠO HIẾU” TRONG PHẬT GIÁO VIỆT NAM
NỘI DUNG VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CƠ BẢN
1.1. Khái quát chung về Phật giáo Việt Nam
1.1.1. Sự ra đời và quá trình phát triển của Phật giáo
Nếu gọi phƣơng Đông là cái nơi của nền văn minh nhân loại thì Ấn Độ
là một trong những trung tâm văn hóa và triết học cổ xƣa. Đây là vùng đất
thuộc Nam Châu Á với đặc điểm khí hậu đất đai đa dạng, khắc nghiệt cùng
với sự án ngữ của vòng cung dãy Hy-Mã-Lạp-Sơn kéo dài hai ngàn ki-lô-mét.
Yếu tố địa lý trên ảnh hƣởng sâu sắc tới q trình hình thành văn hóa, tơn
giáo và tƣ tƣởng triết học của ngƣời Ấn Độ cổ đại, trong đó có tƣ tƣởng triết
học Phật giáo.
Phật giáo xuất hiện ở miền Bắc Ấn Độ cổ đại (nay thuộc Nêpan) vào
cuối thế kỷ thứ VI trƣớc công nguyên. Trong xã hội phân chia đẳng cấp rất
khắc nghiệt, sự ra đời đạo Phật thể hiện tinh thần phản kháng của những
ngƣời nghèo khổ mong tìm con đƣờng giải thốt cho riêng mình. Thái tử Tất
Đạt Đa Gơ Ta Ma (Siddhartha Gauta - ma) - Ngƣời sáng lập ra Phật giáo vào
khoảng năm 528 trƣớc công nguyên tại Ấn Độ. Thái tử Tất Đạt Đa ra đời vào
năm 563 trƣớc công nguyên tại thị trấn Kapilavaster, ngày xƣa thuộc Ấn Độ,
ngày nay thuộc miền nam xứ Nêpal. Thân sinh của thái tử là Suddhodhana,
một tiểu vƣơng có thế lực và giàu sang của bộ tộc Shakya. Đến năm 18 tuổi,
thái tử Tất Đạt Đa vâng lệnh vua cha, cƣới ngƣời em họ tên Yasodhara làm
vợ. Sau thời gian chung sống, hai vợ chồng có đƣợc một ngƣời con trai, đặt
tên là La Hầu La. Cuộc sống trên nhung lụa trong hồng cung khơng đem lại
cho thái tử Tất Đạt Đa một sự thỏa lịng. Trái lại, thái tử ln cảm thấy một sự
trống rỗng khó chịu trong tâm hồn mình. Theo tục truyền, vào năm thái tử Tất
Đạt Đa 29 tuổi, lúc đi dạo ngoài thành, thái tử gặp một cụ già, một ngƣời đau
bệnh và nhìn thấy một xác chết. Những điều này làm cho thái tử nhận ra cuộc


9


đời là “sinh, lão, bệnh, tử” và đời ngƣời chỉ là biển khổ nên thái tử quyết định
từ giã gia đình vợ con, tiền tài và danh vọng để đi tìm ánh sáng cho cuộc đời.
Trong nỗ lực tu luyện, thái tử Tất Đạt Đa tiếp xúc với các ẩn sĩ để tìm
hiểu Ấn Độ giáo nhƣng khơng thỏa lịng về cách khổ tu của tơn giáo này. Sau
đó, thái tử đi lên núi Tuyết Sơn với hy vọng áp dụng phƣơng pháp khổ tu sẽ
đem lại cho chính mình sự giác ngộ. Một hơm, thái tử quyết định lìa bỏ nơi
khổ tu để đi đến bờ sông Ni Liên, ở vùng Buddh Gaya, thuộc tỉnh Bihar. Sau
khi tắm rửa xong và uống một bát sữa do một cô gái chăn dê mang đến cho,
thái tử quyết định ngồi thiền dƣới bóng cây bồ đề cho đến khi nào tìm ra đƣợc
chân lý và sự siêu thoát. Đến ngày thứ 43, thái tử Tất Đạt Đa nhận thấy mình
giác ngộ, tức là hiểu biết hết mọi bí mật của cuộc đời và vũ trụ. Sau đó thái tử
Tất Đạt Đa tuyên bố đắc đạo và thành Phật. Nhƣ vậy, thái tử Tất Đạt Đa thành
Phật năm 35 tuổi, lấy danh hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Sau khi đắc đạo, thái tử đi về
miền sông Hằng thu thập thêm môn đệ và rao giảng phƣơng cách tu hành. Thái tử
cho rằng nếu ai làm đúng theo lời giảng dạy của ngài đều có thể thành Phật.
Phật giáo phát triển thịnh vƣợng ở Ấn Độ vào thế kỷ III trƣớc công
nguyên. Ngay sau khi Phật tịch diệt, các học trò của ông tập hợp nhau lại tại
thành Vƣơng Xá, để biên soạn Kinh điển Phật giáo. Đây đƣợc coi là lần tập
kết lần I. Khoảng 100 năm sau, kết tập lần II họp ở Vaisali. Trong nội bộ Phật
giáo có mâu thuẫn, số đơng địi chữa lại, biên soạn luật tạng, những ngƣời này
bị trục xuất và tập hợp nhau lại thành phái Đại Chúng Bộ. Năm 245 trƣớc
công nguyên, kết tập lần III ở Pataliputra, có mƣời một phái ly khai, chia ra
làm nhiều trƣờng phái Phật giáo khác nhau, trong đó có hai trƣờng phái lớn
“Đại thừa”, “Tiểu thừa”.
“Đại thừa” hồn tồn khơng xa rời Phật pháp, nhƣng về chủ trƣơng, nó
khác với “Tiểu thừa” vốn xuất phát từ Phật giáo Nguyên thủy. Đại thừa (cỗ xe

lớn): Con ngƣời có thể giác ngộ bằng tự lực, bằng tha lực (sự dẫn dắt ngƣời

10


khác) đặc biệt là vị Bồ Tát, tức là mình đã giác ngộ đƣợc thì sẽ giác ngộ cho
ngƣời khác. Đại thừa chủ trƣơng “tự giác” và “giác tha”, tức giác ngộ cho
chính mình và cho ngƣời khác. Tiểu thừa (cỗ xe nhỏ): Mọi ngƣời phải lo tu
dƣỡng tự thân, một mình đến chỗ giác ngộ bằng tự lực mà không chú ý cứu
độ cho ngƣời khác, nhƣ đƣợc chở cỗ xe nhỏ. Tiểu thừa chỉ thờ một Phật
Thích Ca và bậc tu cao nhất là đến La Hán. Đối với Đại thừa, họ thờ nhiều
Phật, và bậc tu cao nhất lên đến Bồ Tát. Có thể nói những quan niệm, chủ
trƣơng của Đại thừa - một trong những tông phái lớn nhất của Phật giáo (một
tông phái lớn khác là Kim Cang thừa) có xuất phát điểm từ Trung Hoa, đã có
một sự thâm nhập mạnh mẽ xuống phƣơng Nam kể từ thế kỷ thứ ba trở đi, để
lại những dấu ấn phổ biến trong sinh hoạt Phật giáo, cũng nhƣ trong tín
ngƣỡng dân gian. Đại thừa hay Tiểu thừa đƣợc coi nhƣ những cỗ xe đƣa
chúng ta đến nơi thanh tịnh, giải thốt. Tuy cơng năng giữa chúng ít nhiều có
sự khác nhau nhƣng cả hai phái đều tơn trọng những tƣ tƣởng cơ bản của Phật
Thích Ca Mâu Ni, nhất là những tƣ tƣởng về thế giới quan và nhân sinh quan.
Những nguyên lý cơ bản của Phật giáo đƣợc thể hiện trong giáo lý là
một hệ thống rất đồ sộ nằm chủ yếu trong Tam tạng kinh điển, gồm Kinh
tạng, Luật tạng, Luận tạng.
Kinh tạng bao gồm các bài giảng của chính đức Phật hoặc các đại đệ tử.
Hiện tại Phật giáo có hau hệ Kinh tạng: Kinh Nam truyền đƣợc phiên dịch
từ tiếng Pali và đƣợc xem là gần gũi với lời Phật dạy nhất; gồm năm bộ:
Trƣờng bộ kinh, trung bộ kinh, tƣơng ƣng bộ kinh, tăng chi bộ kinh và tiểu
bộ kinh. Ngoài ra cịn có bốn bộ A-hàm: Trƣờng A-hàm, Trung A-hàm, Tăng
Nhất A-hàm và Tạp A-hàm Kinh Bắc truyền: điển hình nhƣ các bộ Pháp Hoa,
Hoa Nghiêm, Bảo Tích, Đại Tập, Kim Cang, Bát Nhã.


11


Luật tạng chứa đựng lịch sử phát triển của các giới luật của ngƣời xuất
gia, đƣợc xem là tạng sách cổ nhất, ra đời chỉ vài mƣơi năm sau khi Phật
nhập Niết-bàn.
Luận tạng chứa đựng các quan niệm đạo Phật về triết học và tâm lí học.
Luận tạng đƣợc hình thành tƣơng đối trễ, có lẽ là sau khi các trƣờng phái đạo
Phật tách nhau mà vì vậy nó khơng cịn giữ tính chất thống nhất, mặc dù sự
khác biệt giữa các trƣờng phái không đáng kể
Thứ nhất: Thế giới quan Phật giáo có tính chất duy vật và vơ thần.
Theo Phật giáo vũ trụ là tự nó, khơng do ai sinh ra, khơng có một thế lực nào
có thể dùng ý muốn của mình chi phối sự vận hành của nó, vũ trụ khơng sinh,
khơng diệt. Thế giới quan Phật giáo thể hiện qua bốn luận thuyết cơ bản:
Thuyết vô thƣờng, thuyết vô ngã, thuyết nhân quả, thuyết lý nhân duyên sinh.
“Thuyết vô thường” là không ở mãi một trạng thái nhất định mà thay
hình đổi dạng, đi từ trạng thái hình thành để rồi biến hình đổi dạng và sau
cùng đi đến sự tan rã. Thật vậy, mọi vật đều phải đƣợc tạo ra, tức là còn ở
điều kiện tốt, sau đó phải chuyển từ từ sang xấu và sau cùng đi đến sự tan rã.
Tất cả sự vật trong vũ trụ, từ nhỏ nhƣ hạt cát, đến lớn nhƣ trăng sao, đều phải
tuân theo luật vô thƣờng. Luật vô thƣờng chi phối vũ trụ, vạn vật, thân và tâm
ta. Sự vật ln ln biến đổi khơng có gì là thƣờng trụ, bất biến, ta lầm tƣởng
sự vật là yên tĩnh, là bất động nhƣng thật ra nó ln ln ở thể động, nó
chuyển biến khơng ngừng. Thuyết vô thƣờng là một trong những thuyết cơ
bản trong giáo lý Phật, là cơ sở của lý luận cho phƣơng thức sống, cho triết lý
sống của những con ngƣời tu dƣỡng theo giáo lý Phật.
Chúng ta hiểu “Thuyết vô ngã” dƣới cái nhìn đạo Phật là tất cả sự vật,
hiện tƣợng, chính bản thân ta là khơng có thực. Thế giới là sự hợp lại các yếu
tố vật chất (sắc), tinh thần (danh), đó là năm yếu tố ngũ uẩn: Sắc - Thụ Tƣởng - Hành - Thức. Nhƣng Danh - Sắc chỉ hội tụ trong thời gian ngắn rồi


12


chuyển sang trạng thái khác nên khơng có cái tơi “vơ ngã”. Thuyết “vơ ngã”
làm cho ngƣời ta khơng cịn ai tin là có một linh hồn vĩnh cửu, tồn tại kiếp
này sang kiếp khác, đời này qua đời khác.
Thuyết “vô thường”, “vô ngã” là hai thuyết cơ bản trong giáo lý Phật,
căn cứ vào hai thuyết này Phật giáo đã xây dựng cho đệ tử một phƣơng thức
sống, triết lý sống lấy vị tha làm đầu, hay nói cách khác chính là cuộc sống
một ngƣời vì mọi ngƣời, mọi ngƣời vì một ngƣời.
Với “Thuyết lý nhân duyên sinh” Phật giáo muốn nói tới một định lý,
theo định lý ấy sự vật vạn vật phát triển trên thế gian đều do các nhân duyên
hội họp mà thành, sự vật, vạn pháp sẽ diệt khi nhân duyên tan rã. Thế giới vũ
trụ, vạn pháp đều cấu thành bởi hệ thống nhân duyên trùng trùng điệp điệp.
Lý nhân duyên cho chúng ta thấy sự vật hình thành là do nhân dun hồ hợp,
sự vật là hƣ giả, là giả hợp khơng có tính tồn tại. Nhƣ vậy con ngƣời làm chủ
đời mình, làm chủ vận mệnh của mình. Cuộc sống của con ngƣời có tƣơi đẹp
hạnh phúc hay phiền não đau khổ là đều do nhân duyên mà con ngƣời tạo ra.
Với nhận thức nhƣ vậy, con ngƣời tìm đƣợc một phƣơng thức sống, sống vì
hạnh phúc của mọi ngƣời, sống an lạc, tự tại, giải thoát.
Thuyết nhân quả là một trong những thuyết cơ bản của giáo lý Phật.
Phật chủ trƣơng khơng bao giờ tự nhiên mà có, mà sinh ra và cũng cho rằng
không một thần quyền nào hay một đấng thiêng liêng nào tạo ra sự vật. Sự vật
sinh ra là có ngun nhân. Cái ngun nhân một mình cũng khơng tạo ra đƣợc
sự vật mà phải có đủ duyên thì mới tạo ra quả đƣợc. Sự vật là một tràng nhân
quả nối tiếp nhau không bao giờ đứt quãng.
Thuyết vô thƣờng, thuyết vô ngã, thuyết nhân quả, thuyết nhân duyên
sinh là điểm cốt lõi trong thế giới quan Phật giáo. Nó đóng vai trị quyết định
đối với việc hình thành quan điểm về con ngƣời và quan điểm nhân sinh quan

trong thế giới này.

13


Thứ hai: Nhân sinh quan Phật giáo: Triết học phƣơng Đơng, trong đó
có Phật giáo nghiêng về nghiên cứu những vấn đề chính trị - xã hội, đạo đức,
tơn giáo với mục đích làm sáng tỏ, vạch ra những nguyên tắc ứng xử, giải
quyết mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời.
Giáo lý Phật giáo bao gồm hệ thống quan niệm về nhận thức luận, thế
giới quan, nhân sinh quan có kết cấu chặt chẽ với nhau. Triết lý nhân sinh
quan Phật giáo bắt nguồn từ thế giới quan, do thế giới quan Phật giáo chi
phối. Mục đích chủ yếu của Phật giáo là thốt khổ, giải phóng con ngƣời nên
mang giá trị nhân sinh sâu sắc. Theo Phật giáo, sự mất đi ở chỗ này là để sinh
ra ở chỗ khác, quá trình thác sinh luân hồi do nghiệp chi phối theo nhân quả.
Dƣới cái nhìn đạo Phật, để đến đƣợc sự giải thoát mọi ngƣời phải nhận thức
đƣợc bốn chân lý thiêng liêng tuyệt diệu (Tứ Diệu Đế), đây là giáo lý nền
tảng, là quan điểm cốt lõi về nhân sinh quan, định hƣớng cơ bản nhất của những
tƣ tƣởng Phật giáo. Tứ Diệu Đế bao gồm: Khổ đế - Tập đế - Diệt đế - Đạo đế.
Khổ đế, nói về sự khổ ở đời. Khổ khơng chỉ có nghĩa là cảm giác đau
đớn, khổ nhọc thân mà cịn chỉ trạng thái cảm thấy khơng n ổn, khơng thỏa
mãn những mong muốn trong lịng. Tƣ tƣởng Phật giáo cho rằng, con ngƣời
sinh ra ở đời là khổ. Từ khi sinh ra đến lúc nhắm mắt xuôi tay khơng có lúc
nào hết khổ. Vũ trụ tự nhiên thì ln trong q trình biến đổi Thành - Trụ Hoại - Khơng. Về thân xác con ngƣời thì trải qua Sinh - Lão – Bệnh - Tử mà
cả bốn quá trình ấy khơng khi nào xa lìa nỗi khổ: Sinh khổ (sinh ra là khổ),
lão khổ (quá trình già nua của thân thể là khổ), bệnh khổ (có bệnh tật đau ốm
là khổ), tử khổ (chấm dứt sự sống là khổ). Trong xã hội con ngƣời cũng ln
có nỗi khổ: Sở cầu bất đắc khổ (mong muốn mà không đạt đƣợc là khổ), ái
biệt ly khổ (yêu thƣơng nhau mà phải xa lìa là khổ), ốn tăng hội khổ (ghét
thù nhau mà phải sống gần nhau là khổ), ngũ thụ uẩn khổ (năm giác quan

tƣơng tác với thế giới bên ngồi, thọ nhận tƣớng sắc của vật chất, bị hình

14


tƣớng của vật chất che mất bản chất và mãi bị mê muội theo nó là khổ). Đó là
tám nỗi khổ của con ngƣời mà Phật giáo gọi là bát khổ.
Tập đế, nói về nguyên nhân sự khổ. Tập có nghĩa là nhóm họp, gộp lại.
Nếu quá khứ hay hiện tại con ngƣời không biết đƣợc đời là khổ, không biết
vạn vật hữu hình hay vơ hình chỉ là giả tạm, ln biến đổi, khơng biết những
ý nghĩ, lời nói và hành động của mình sẽ gây ra nghiệp nên lần hồi cứ làm
theo mãi, vì suy nghĩ và hành động điều xấu, bị xô đẩy trong sinh tử luân hồi
nên gọi là Tập. Mọi nỗi khổ đều có nguyên nhân. Phật giáo đƣa ra “Thập nhị
nhân duyên” chỉ ra ngun nhân của sự khổ đau. Đó là vơ minh, hành, thức,
danh sắc, lục căn, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão, tử.
Đức Phật dạy rằng, vì vơ minh che lấp nên con ngƣời không nhận ra
thực tƣớng của vạn vật, chạy theo cái hƣ ảo khơng vĩnh viễn đó nên tạo ra
nghiệp. Đó là nguyên nhân của nỗi khổ. Trong đó, có ba thứ độc (tam độc):
Tham (tham lam), sân (giận, bực, nóng nảy), si (ngu dốt, mê muội) là nguyên
nhân chính nhất của nỗi khổ. Xét cho kỹ thì mọi việc làm thiện, ác (sẽ tạo ra
các nghiệp) gắn liền với sinh tử trong tam giới mà con ngƣời không ai không
vƣớng mắc, nên gọi là Tập đế.
Diệt đế, nói về sự khổ bị tiêu diệt, đƣợc giải thoát. Diệt tức là tịch diệt
hay Niết bàn, nghĩa là nghiệp đã hết khơng cịn khổ lụy sinh tử ln hồi nữa.
Khổ là mầm gốc của phiền não mà phiền não đƣợc diệt nên những nghiệp quả
trong tam giới cũng diệt. Nếu các nghiệp phiền não trong tam giới đã diệt thì
liền chứng đắc đƣợc cảnh giới Niết bàn. Cảnh giới Niết bàn là nơi an lạc,
đoạn diệt hết thảy hoặc nghiệp luân hồi nên gọi là Diệt đế.
Đạo đế, nói về phƣơng pháp diệt trừ nguyên nhân sự khổ. Đạo là luân
lý, là con đƣờng đúng đắn, đạo còn có nghĩa là năng thơng năng đạt, nó chính

là những phƣơng pháp, là con đƣờng tu tập để mong cầu vƣợt thoát khỏi trầm
luân, khổ ải trong tam giới. Đức Phật chỉ ra tám con đƣờng chính, bao gồm:

15


thấy biết chân chính (chính kiến); suy nghĩ chân chính (chính tƣ duy); lời nói
chân chính (chính ngữ); nghề nghiệp chân chính (chính nghiệp); đời sống
chân chính (chính mệnh); siêng năng chân chính (chính tịnh tiến); tƣởng nhớ
chân chính (chính niệm); định tâm chân chính (chính định). Tám con đƣờng
chân chính ấy Phật giáo gọi là Bát chính đạo.
Phật giáo ln đề cao vai trị con ngƣời trong cuộc sống hiện thực, đây
là nét độc đáo trong thế giới quan, nhân sinh quan Phật giáo. Triết lý Phật
giáo đã biến đổi, phát triển ngày càng đa dạng để thích nghi với truyền thống
mỗi quốc gia, dân tộc trong thời kỳ lịch sử nhất định.
1.1.2. Quá trình du nhập, phát triển Phật giáo ở Việt Nam
Phật giáo du nhập vào nƣớc ta ở cả hai hệ phái: Phật giáo Nam Tông
(từ phía nam truyền xuống). Phật giáo Bắc Tơng (từ phía bắc truyền sang).
Tất cả đều qua hai con đƣờng: Đƣờng bộ và đƣờng thủy. Đƣờng bộ: Năm 198
Phật giáo chính thức đƣợc truyền vào Việt Nam qua đƣờng bộ từ Trung Quốc
xuống với tên tuổi các danh tăng nhƣ: Ma Ha Kỳ Vực, Khâu Đà La…Đƣờng
Thủy: Đạo Phật đƣợc truyền vào nƣớc ta theo hai hƣớng: Thế kỷ XIII: Đạo
Phật truyền từ Srilanca vào “Thủy chân lạp” nay là khu vực Đồng Bằng Sông
Cửu Long. Khoảng giữa thế kỷ XVI vào thời nhà Thanh Trung Quốc xảy ra
biến loạn. Một số thiền sƣ thuộc Thiền phái Lâm Tế đã đi theo các tàu buôn
sang lánh nạn ở Việt Nam, địa phƣơng tiếp nhận phái thiền này đầu tiên là
Bình Định ngày nay. Phật giáo đƣợc truyền đến Việt Nam trƣớc khi đến
Trung Hoa cũng nhƣ trong giai đoạn khai sinh Phật giáo Việt Nam cũng hƣng
thịnh hơn Phật giáo Trung Hoa cùng thời.
Trong bƣớc phát triển về mọi mặt nói chung và những giá trị lịch sử

văn hóa nói riêng, các nhà nghiên cứu nhìn chung đều thống nhất, đó là nền
văn hóa đƣợc kết hợp một cách khoan dung, hịa hợp giữa các tín ngƣỡng dân
gian Nho - Phật - Đạo, hay còn gọi là “Tam giáo đồng nguyên”, “Phật giáo

16


Việt Nam kết hợp chặt chẽ việc đạo với việc đời. Vốn là một tôn giáo xuất thế
nhƣng vào Việt Nam, Phật giáo trở nên nhập thế” [50, tr. 22]. Kể từ khi du
nhập đến nay, Phật giáo luôn gắn liền với mạch sống của dân tộc, trải qua bao
thăng trầm, binh lửa của lịch sử đã cùng với dân tộc tồn tại tới tận ngày nay.
Phật giáo vào Việt Nam đã dung hịa đƣợc với hệ tƣ tƣởng, tín ngƣỡng
dân tộc, nhanh chóng tìm đƣợc chỗ đứng nên ăn sâu, bám rễ vào nƣớc ta rất
sớm. Lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua ba giai đoạn: Thời kỳ từ đầu công
nguyên; thời kỳ độc lập tự chủ (938) qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần đến
triều nguyễn; thời kỳ Pháp thuộc và sau 1954.
Ở thời kỳ đầu công nguyên, Phật giáo đƣợc xác định là du nhập vào
nƣớc ta thế kỷ II - sau công nguyên bằng đƣờng biển và đƣờng bộ từ Ấn Độ
và Trung Quốc tại Giao Chỉ và Chăm Pa. Nhìn chung, Phật giáo Việt Nam
thời kỳ sơ khai là Phật giáo mang nặng yếu tố Đại thừa. Ngoài ra, Phật giáo
Việt Nam phần nào ở buổi sơ khai đã giao thoa với tín ngƣỡng bản địa. Vì thế
Phật giáo nhanh chóng chiếm lĩnh vực tình cảm của ngƣời dân bản xứ và trở
thành một tơn giáo chính thống của ngƣời Việt. Đó là sự thành công của Phật
giáo khi du nhập vào nƣớc ta. Phật giáo Việt Nam vào cuối thời kỳ Bắc thuộc
khơng chỉ lan toả trên đất Giao Châu mà cịn rộng sang cả Á Châu, thậm chí
sang cả vùng sâu nhƣ Thông Châu, Vĩnh Phú, Trƣờng Châu, trung tâm Phật
giáo lúc bấy giờ nhƣ chùa Kiến Sơ, Phổ quang, Sùng Nghiệp, Kiến Dƣơng,
Lâm Tuyền, Song Lâm, Khai Quốc…Các cơ sở này phần lớn nằm trong khu
vực Luy Lâu, Đại La là trung tâm chính trị văn hố của cả nƣớc, đặc biệt tháp
thờ xá lợi Phật đã đƣợc xây dựng khắp nơi. Trong giai đoạn này các Tăng sĩ

không chỉ giỏi chun mơn về Phật học mà cịn rất am hiểu các nền triết học
nhƣ Nho - Lão. Phật giáo chiếm đƣợc ƣu thế ngay từ buổi sơ khai và ảnh
hƣởng đến văn hoá Đại Việt sau này.

17


Ở thời kỳ độc lập tự chủ, trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần đến
triều Nguyễn: Nhà Đinh và Tiền Lê đã đƣa Phật giáo lên thành quốc giáo với
chức tăng thống và thiền sƣ có vai trị cố vấn cho các nhà vua; thời nhà Lý,
Phật giáo phát triển cực thịnh, xuất hiện dòng thiền thứ ba là Thảo Đƣờng (do
ngài Thảo Đƣờng ngƣời Trung Quốc sáng lập). Giai đoạn này có sự hiện diện
của cả ba dịng thiền và Phật giáo có xu hƣớng nhập thế mạnh mẽ. Nhà Trần
với vai trò nổi bật của Trần Nhân Tơng - Ngƣời sáng lập ra dịng thiền Trúc
Lâm Yên Tử; Thời Hậu Lê Phật giáo chính thức bƣớc vào thời kỳ suy thối
với nhiều ngun nhân.
Lý Cơng Uẩn lên ngôi lập ra nhà Lý. Sự xác lập của vƣơng triều Lý đã
mở ra một bƣớc phát triển mới cho Phật giáo. Nhà Lý đã có cơng làm cho Đại
Việt trở thành một quốc gia hùng mạnh suốt hơn hai thế kỷ. Dƣới triều đại
nhà Trần, nhà nƣớc phong kiến đƣợc khơi phục và củng cố. Nền văn hố thời
kì này kết hợp với thời nhà Lý phát triển rực rỡ. Từ thế kỷ X nƣớc ta bƣớc
vào kỷ nguyên độc lập tự chủ tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển thêm một
bƣớc mới. Hai triều đại Đinh - Lê Phật giáo đƣợc công nhận là tôn giáo chính
thức và có chính sách nâng đỡ Phật giáo, trọng dụng, phong thƣởng cho
những nhà sƣ có cơng. Thiền sƣ Ngơ Chân Lƣu (933-1011) đƣợc vua Đinh
Tiên Hồng phong làm Khuông Việt Thái Sƣ ngang với hàng tam công và
phong chức Tăng Thống đứng đầu Phật giáo cả nƣớc. Thời kỳ này nhiều chùa
chiền đƣợc xây dựng ở cố đô Hoa Lƣ biến nơi đây thành trung tâm Phật
giáo lớn của cả nƣớc.
Vua Lý Công Uẩn xuất thân từ chốn thiền mơn nên ơng hết lịng ủng hộ

Phật giáo. Năm 1019, vua sai hai sứ thần sang Trung Quốc thỉnh kinh để góp
phần quảng bá giáo lý của Phật giáo. Đời vua Lý Thái Tông (1054-1072) là
ngƣời sùng bái đạo Phật và có lịng khoan dung, nhân ái. Tuy khơng xuất gia
tu hành nhƣng nhà vua đƣợc suy tôn là Sƣ tổ thứ XII của phái thiền lớn trong

18


thời kỳ này là Tỳ-ni-da-lƣu-chi. Đặc biệt ông đƣợc suy tôn là ngƣời khai lập
và là tổ sƣ thứ nhất của phái thiền mới: Thiền Thái Đƣờng. Thời Lý có nhiều
nhà sƣ nổi tiếng về việc tu hành và có những đóng góp với đất nƣớc nhƣ nhà
sƣ Vạn Hạnh, Huệ Sinh, Mãn Giác.
Triều Trần, Phật giáo Việt Nam phát triển cực thịnh gắn với các vị vua
nổi tiếng nhƣ vua Trần Thái Tơng là một ngƣời có trình độ Phật học un
thâm. Ơng có sáu tác phẩm là sách luận Phật giáo và văn thơ mang tƣ tƣởng
Phật giáo. Đời vua Trần Nhân Tông đã truyền ngôi cho con, lên núi xuất gia
tu hành và là sƣ tổ của phái thiền Trúc Lâm Yên Tử. Ông vừa là vua, vừa là
nhà thiền học, vừa là nhà thơ lớn. Văn thơ của ơng góp phần tạo nên dịng văn
học Phật giáo nổi tiếng thời Lý Trần.
Từ thế kỷ XV, Phật giáo dần dần suy thối. Nó rời bỏ chốn cung đình
để về nơi thơn dã, chủ yếu do giai cấp phong kiến Việt Nam đã lấy Nho giáo
làm chỗ dựa về chính trị, tƣ tƣởng và đạo đức thay thế cho Phật giáo, vì Nho
giáo có khả năng đƣa ra một thiết chế xã hội có thể duy trì, củng cố trật tự phong
kiến đƣợc xây dựng theo lối tập quyền. Mặc dù vậy Phật giáo vẫn tồn tại cùng
Lão giáo, trong đó mỗi tơn giáo đáp ứng một phƣơng diện của cuộc sống.
Dƣới thời nhà Nguyễn, Phật giáo tiếp tục suy tàn. Những năm 30 của
thế kỷ XX, một số nhà tu hành và một số trí thức đã đứng ra vận động phong
trào “Chấn hƣng Phật giáo” vì thế Phật giáo có bƣớc khởi sắc. Thực dân Pháp
tìm cách lôi kéo một số nhân vật và tổ chức Phật giáo nhƣng không đƣợc. Đại
bộ phận tăng ni phật tử vẫn giữ đƣợc truyền thống yêu nƣớc, gắn bó với dân

tộc và đi theo cách mạng, ủng hộ phong trào kháng chiến.
Thời hiện đại, nhân dân hăng hái tham gia kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ. Sau đại thắng mùa Xuân 1975, đất nƣớc thống nhất tạo
điều kiện cho Phật giáo thống nhất. Tháng 11-1981 Đại hội Đảng bộ thống
nhất Phật giáo đƣợc tổ chức, lập ra Giáo hội Phật giáo Việt Nam đáp ứng nhu

19


×