Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

(Luận văn thạc sĩ) phân bổ ngân sách nhà nước dưới góc nhìn chính trị ở việt nam hiện nay luận văn ths chính trị học 60 31 02 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Nguyễn Thành Trung

PHÂN BỔ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC DƢỚI GĨC NHÌN
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Hà Nội -2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Nguyễn Thành Trung

PHÂN BỔ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC DƢỚI GĨC NHÌN
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: TS. Ngô Huy Đức

Hà Nội -2014


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1 ............................................................................................................. 7
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH TRỊ, KINH TẾ VÀ NGÂN SÁCH
NHÀ NƢỚC ............................................................................................................. 7
1.1. Lý luận chung về chính trị .............................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm về chính trị ............................................................................... 7
1.1.2. Quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước........................................... 10
1.2. Lý luận chung về kinh tế và chi tiêu ngân sách nhà nƣớc ......................... 19
1.2.1. Quan niệm về kinh tế ............................................................................... 19
1.2.2. Quan niệm về chi tiêu công ..................................................................... 21
1.2.3. Hoạt động phân bổ ngân sách nhà nước ............................................... 25
1.3. Mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế .......................................................... 27
1.3.1. Mối quan hệ chính trị và kinh tế trong lịch sử tư tưởng trước Mác..... 27
1.3.2. Mối quan hệ chính trị và kinh tế thời kỳ cận đại và hiện đại ................ 28
1.3.3. Mối quan hệ chính trị và kinh tế theo chủ nghĩa nghĩa Mác – Lênin .. 31
1.3.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ........ 37
1.3.5. Mối quan hệ chính trị và kinh tế trong xây dựng CNXH ở Việt Nam .. 39
1.4. Cơ sở lý luận của quan niệm về mối quan hệ giữa chính trị và phân bổ
ngân sách nhà nƣớc............................................................................................... 40
CHƢƠNG 2 ........................................................................................................... 46
MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÍNH TRỊ VÀ VẤN ĐỀ PHÂN BỔ NGÂN SÁCH
NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................ 46
2.1. Nội dung, vai trị của phân bổ ngân sách nhà nƣớc đới với nền kinh tế và
xã hội ...................................................................................................................... 46
2.1.1. Nội dung của phân bổ ngân sách nhà nước .......................................... 46
2.1.2. Vai trò của phân bổ ngân sách nhà nước đối với kinh tế - xã hội ........ 49
2.2. Tính chính trị trong các nội dung phân bổ ngân sách nhà nƣớc ở Việt
Nam hiện nay ......................................................................................................... 55
2.2.1. Thể hiện trước hết là cơng cụ, là nguồn lực chủ yếu trong q trình
đấu tranh giai cấp để giành lấy quyền thực thi quyền lực nhà nước ............. 55

2.2.2. Tính chính trị thể hiện trong quá trình tồn tại và duy trì quyền lực nhà
nước .................................................................................................................... 57
CHƢƠNG 3 ........................................................................................................... 85


NHỮNG YÊU CẦU TIẾP TỤC HOÀN THIỆN SỰ LÃNH ĐẠO CHÍNH
TRỊ VỚI VẤN ĐỀ PHÂN BỔ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN TỚI ................................................................................ 85
3.1. Quan điểm về nhận thức và giải quyết hài hịa mới quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam ............................................................. 85
3.2. Những yêu cầu đặt ra nhằm tiếp tục hoàn thiện sự lãnh đạo chính trị với
việc phân bổ ngân sách nhà nƣớc ........................................................................ 90
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................... 106
PHỤ LỤC 1: DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................. 1
PHỤ LỤC 2: DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ .............................................................. 2
PHỤ LỤC 3: DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU SỐ LIỆU................................... 3


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cƣ́ u khoa ho ̣c của riêng tôi. Kế t
quả trình bày trong luận

văn đảm bảo đô ̣ tin câ ̣y , chính xác và trung thƣ̣c .

Nhƣ̃ng kế t quả khoa ho ̣c của luâ ̣n văn chƣa tƣ̀ng đƣơ ̣c ai công bố trong bấ t kỳ
công trình khoa ho ̣c nào trƣớc đó./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Nguyễn Thành Trung


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, ở mỗi quốc gia, chính trị và kinh tế là những yếu tố cơ bản nhất
trong một hình thái phát triển xã hội cụ thể. Mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế
cũng là mối quan hệ cơ bản nhất, quyết định nhất tới sự vận động và phát triển của
mọi xã hội có giai cấp. Sự phát triển xã hội đƣợc lý giải theo nhiều lý thuyết khác
nhau với nhiều nhân tố khác nhau liên quan đến sự phát triển, nhƣng chính trị vẫn
luôn là một nguồn lực của sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Sự lãnh đạo của
chính trị với kinh tế trong một quốc gia, một khu vực có ý nghĩa quyết định tới
việc mỗi quốc gia, mỗi khu vực có phát triển đi lên hay rơi vào tình trạng kém
phát triển, khủng khoảng trầm trọng. Mặt khác kinh tế lại là nhân tố quyết định
toàn bộ lịch sử chính trị, từ lịch sử hình thành giai cấp và đấu tranh giai cấp đến
lịch sử hình thành các chính đảng và hoạt động của các chính đảng, lịch sử hình
thành các thiết chế quyền lực nhà nƣớc và tất cả những vấn đề khác của đời sống
chính trị; nói một cách khác, cơ sở kinh tế nào thì quan hệ chính trị ấy.
Mục tiêu cuối cùng của mọi nhà nƣớc là tiến bộ xã hội, tiến bộ xã hội lại
đƣợc tác động bởi các công cụ, phƣơng thức tác động là thể chế, thiết chế, chính
sách thông qua chủ thể quản lý là Nhà nƣớc. Nhà nƣớc, về mặt chính trị thì quyền
lực nhà nƣớc là trung tâm của quyền lực chính trị, về mặt kinh tế thì Nhà nƣớc
quản lý vĩ mô nền kinh tế thông qua việc vận dụng các phạm trù kinh tế, trƣớc hết
là phạm trù kế hoạch hóa và phạm trù tài chính với tƣ cách là những phạm trù kinh
tế mang tính tổng hợp cao. Lợi ích kinh tế và phân phối thu nhập là những vấn đề
rộng lớn liên quan đến các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ... của Nhà
nƣớc và nhân dân lao động. Luôn luôn gắn liền với việc thực hiện các chức năng
nhiều mặt của Nhà nƣớc, hoạt động của Tài chính công, mà Ngân sách nhà nƣớc là
mắt khâu quan trọng nhất giữ vai trò chủ đạo trong Tài chính công cũng rất đa
dạng, liên quan đến mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội và tác động đến mọi chủ thể

trong xã hội. Nhà nƣớc dùng nhiều công cụ để phục vụ mục tiêu quản lý xã hội,
trong đó có một thứ cơng cụ rất quan trọng đó là tài chính ngân sách. Thơng qua
quá trình động viên, phân phối các nguồn tài chính nói chung và Ngân sách nhà
1


nƣớc nói riêng, thu của Ngân sách nhà nƣớc đƣợc lấy từ mọi lĩnh vực kinh tế - xã
hội khác nhau, trong đó thuế là hình thức thu phổ biến dựa trên tính cƣỡng chế là
chủ yếu; chi tiêu (nói cách khác, là việc phân bổ) của Ngân sách nhà nƣớc nhằm
duy trì sự tồn tại của bộ máy Nhà nƣớc, và thực hiện các mục tiêu của Nhà nƣớc,
của Đảng cầm quyền trong mối quan hệ cùng tồn tại của nhiều tổ chức, tập đoàn
ngƣời khác nhau trong xã hội. Việc phân bổ ngân sách nhà nƣớc thể hiện ở 2 khía
cạnh (2 tính chất) tƣơng ứng với 2 phƣơng diện của quyền lực (quyền lực công và
quyền lực chính trị): Một là, phân bổ để hoàn thành các chức năng cơng ích để tạo
ra hàng hóa cơng cộng, có giá trị sử dụng cho toàn xã hội, bất kể tính chất chính
trị. Hai là, phân bổ nhằm ƣu tiên các mục tiêu chính trị cụ thể, ƣu tiên cho những
giai cấp, tầng lớp nhất định trong xã hội (nhƣ: đạt mục tiêu về kinh tế của hệ tƣ
tƣởng xã hội chủ nghĩa hoặc đạt mục tiêu về kinh tế của hệ tƣ tƣởng tƣ bản chủ
nghĩa, ...).
Từ những nhận thức nhƣ vậy, việc nghiên cứu khía cạnh chính trị (tức ƣu tiên
các mục chính trị cụ thể) trong việc phân bổ ngân sách nhà nƣớc vừa có ý nghĩa lý
luận, vừa mang tính thực tiễn cao, nhằm rút ra những giá trị thiết thực cho công
cuộc đổi mới toàn diện theo định hƣớng tiến lên xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta. Chính
vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Phân bổ Ngân sách nhà nƣớc dƣới góc nhìn chính trị ở
Việt Nam hiện nay” làm Đề tài luận văn Thạc sỹ của chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế nói chung, đặc biệt
giữa chính trị và việc chi tiêu Ngân sách nhà nƣớc (một bộ phận của chi tiêu cơng)
nói riêng trên thực tế chƣa thu hút đƣợc sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu lý
luận, nhà hoạt động thực tiễn trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Căn cứ vào nội dung

có thể chia thành các nhóm sau:
Nhóm thứ nhất gồm các vấn đề cơ bản, có liên quan trực tiếp với Đề tài,
gồm: lý luận chính trị, lý luận kinh tế, lý luận về lĩnh vực chi tiêu công của nhà
nƣớc trong hoạt động phân bổ nguồn lực ngân sách nhà nƣớc. Qua đó số giúp tác
giả có các nhìn bao quát và hình thành lên cơ sở lý luận cho việc thực hiện Đề tài.
Có thể nêu ra một số công trình tiêu biểu nhƣ sau:
2


- Cuốn sách của tác giả Lƣu Văn Sùng (2009): Tập bài giảng Chính trị học,
Nxb. Chính trị - Hành chính.
- Cuốn sách của tác giả Lê Văn Phụng (2010): Tập bài giảng Chính trị học,
Nxb. CTQG.
- Cuốn sách của tác giả Lƣu Minh Văn (2011): Tâ ̣p bài giảng chính trị học
đa ̣i cƣơng, Nxb. Khoa Chính trị, Đa ̣i ho ̣c Khoa ho ̣c xã hô ̣i & Nhân văn.
- Cuốn sách của tác giả Nguyễn Xuân Tế (2002): Nhập môn khoa học chính
trị, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
- Cuốn sách của tác giả Nguyễn Xuân Phong (2011): Giới thiệu một số tác
phẩm của C.Mác, Ph.Awngghen và V.I.LêNin về chính trị, Nxb. CTQG.
- Giáo trình kinh tế chính trị Mác - LêNin, Nxb. CTQG, 2004.
- Giáo trình lý thuyết tài chính, Nxb. Tài chính, 2003.
- Giáo trình quản lý tài chính công, Nxb. Tài chính, 2005.
- Giáo trình triết học Mác - LêNin, Nxb. CTQG, 2004.
Nhóm thứ hai gồm các nghiên cứu về nội dung cụ thể của chi tiêu ngân sách
nhà nƣớc Việt Nam, qua đó nêu ra một số mục đích, mục tiêu chính trị của các
khoản chi tiêu ấy đối với từng chủ thể trong nhà nƣớc. Có thể nêu ra một số cơng
trình tiêu biểu nhƣ sau:
- Cuốn sách của tác giả Bùi Đại Dũng (2007): Hiệu quả chi tiêu ngân sách
dƣới tác động của vấn đề nhóm lợi ích ở một số nƣớc trên thế giới, Nxb. CTQG.
- Cuốn sách của tác giả Nguyễn Ngọc Toàn (2013): Tái cấu trúc kinh tế Việt

Nam, Nxb. CTQG.
- Cuốn sách của tác giả Phạm Thị Khanh (2010): Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hƣớng phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb. CTQG.
- Một số văn bản quy phạm pháp luật của nhà nƣớc: Luật Ngân sách nhà
nƣớc do Quốc hội ban hành; Quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ về định mức
phân bổ ngân sách nhà nƣớc; Quyết định của Bộ Tài chính về công bố dự toán một
số năm gần đây; ...

3


Nhóm thứ ba gồm các đề xuất những yấu cầu để tiếp tục hoàn thiện sự lãnh
đạo chính trị với vấn đề phân bổ ngân sách nhà nƣớc ở việt nam trong thời gian
tới. Có thể nêu ra một số công trình tiêu biểu nhƣ sau:
- Cuốn sách của tác giả Dƣơng Xuân Ngọc (2012): Quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam, Nxb. CTQG.
- Cuốn “Quản lý nhà nƣớc về kinh tế”, Nguyễn Cúc, NXB Chính trị hành
chính, 2011.
- Cuốn “Mâu thuẫn, xung đột lợi ích nhóm - Thực trạng, xu hƣớng và giải
pháp”, Hồ Bá Thâm, NXB Chính trị quốc gia, 2011.
Nhƣ̃ng nô ̣i dung của các tác giả đã nghiên cƣ́u đã có một phần liên quan trƣ̣c
tiế p đế n vấ n đề của đề tài . Song sƣ̣ tích hơ ̣p, giao thoa giƣ̃a nhƣ̃ng nô ̣i dung đó đă ̣c
biê ̣t là vấn đề phân bổ Ngân sách nhà nƣớc dƣới góc nhìn chính trị ở Việt Nam
hiện nay thì chƣa đƣợc tác giả nào nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu nghiên cứu luận văn:
Nghiên cứu cơ sở lý luận và tính chính trị trong hoạt động của chi tiêu ngân
sách nhà nƣớc, từ đó liên hệ và đề ra một số quan điểm về chi tiêu ngân sách nhà
nƣớc trong mối quan hệ vừa đạt đƣợc mục đích, mục tiêu của Nhà nƣớc, của Đảng
cầm quyền (Đảng Cộng sản Việt Nam), vừa đạt đƣợc tiến bộ xã hội nói chung; từ

đó đƣa đất nƣớc ta đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu
xây dựng nƣớc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về chính trị, kinh tế và phân bổ ngân
sách nhà nƣớc, làm cơ sở phân tích, đánh giá, nhận thức mối quan hệ giữa chính trị
và việc chi tiêu công của nhà nƣớc (mục tiêu chính trị đề ra có đạt đƣợc khơng? hiệu
quả thế nào, ...); từ đó nhận làm rõ vai trò của phân bổ ngân sách nhà nƣớc trong
việc đạt đƣợc các mục tiêu chính trị của Đảng và Nhà nƣớc; và cũng chỉ ra rõ hơn
về tính lãnh đạo, chỉ huy của chính trị đối với việc chi tiêu ngân sách nhà nƣớc.
Thực hiện đề xuất những yêu cầu để tiếp tục hoàn thiện sự lãnh đạo chính trị
với vấn đề phân bổ ngân sách nhà nƣớc ở việt nam trong thời gian tới.
4


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu:
Các nội dung chi trong việc phân bổ ngân sách nhà nƣớc; các mục tiêu chính
trị cơ bản đối với một nhà nƣớc.
Vì nhiều điều kiện khác nhau, luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu một số
khoản chi tiêu cơ bản nhƣ: lĩnh vực chi đầu tƣ phát triển, chi thƣờng xuyên của
ngân sách nhà nƣớc trong nền kinh tế quốc dân.
- Phạm vi nghiên cứu:
Tính chính trị trong chi tiêu ngân sách nhà nƣớc là một vấn đề nhạy cảm, một
vấn đề lớn, vừa phong phú, vừa đa dạng, vừa phức tạp. Trong phạm vi nghiên cứu
của luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các nội dung chi tiêu của ngân sách
nhà nƣớc nói chung, đã đƣợc công khai trên thực tế (số liệu không thuộc tính chất:
mật, tối mật, tuyệt mật, ...), không đi sâu nghiên cứu các nghiệp vụ chuyên môn về
chi ngân sách nhà nƣớc.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận:
Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng những lý luận cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chính trị, nhà nƣớc và kinh tế; các
học thuyết về vị trí, vai trị các khoản chi tiêu cơng của nhà nƣớc đối với quốc gia,
dân tộc; các quan điểm, đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc
Việt Nam.
- Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
Triết học Mác-Lênin và những phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ phân tích, so
sách, tổng hợp, thống kê, tổng kết thực tiễn, ...
6. Đóng góp của luận văn
Về mặt lý luận: Về cơ bản đã tập hợp đƣợc các quan niệm, khái niệm có liên
quan về chính trị, kinh tế và ngân sách nhà nƣớc. Từ đó phân tích, chỉ ra mối quan
hệ mang tính khách quan, chủ quan của các đối tƣợng cần nghiên cứu.

5


Về mặt thực tiễn: Luận văn đi sâu phân tích đánh giá tính chính trị trong việc
phân bổ ngân sách nhà nƣớc đối với một số lĩnh vực, từ đó làm căn cứ thực tiễn để
hình thành những quan điểm và nhận thức về vấn đề chi tiêu công trong nền kinh
tế quốc dân.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn là tài liệu tham khảo cho việc đƣa ra các
quyết định chi tiêu từ đồng vốn ngân sách nhà nƣớc, để phù hợp với đặc trƣng, đặc
điểm của chính trị ở nƣớc ta hiện nay. Đây cũng là tài liệu tham khảo, phục vụ cho
việc nghiên cứu và giảng dạy.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của Luận văn gồm: Phần mở đầu; nội dung; kết luận; danh mục tài
liệu tham khảo. Phần nội dung của Luận văn gồm ba chƣơng.
Chương 1: Một số lí luận chung về chính trị, kinh tế và ngân sách nhà nƣớc.

Chương 2: Mối quan hệ giữa chính trị và vấn đề phân bổ ngân sách nhà nƣớc
ở việt nam hiện nay
Chương 3: Những yêu cầu tiếp tục hoàn thiện sự lãnh đạo chính trị với vấn
đề phân bổ ngân sách nhà nƣớc ở việt nam trong thời gian tới./.

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH TRỊ, KINH TẾ VÀ NGÂN
SÁCH NHÀ NƢỚC
1.1. Lý luận chung về chính trị
1.1.1. Khái niệm về chính trị
Chính trị là một trong bốn lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội (gồm: kinh tế,
chính trị, văn hóa và xã hội), đó là lĩnh vực bao hàm những quan hệ, hiện tƣợng,
những hình thức, khía cạnh rất đa dạng, phức tạp. Ở mỗi khía cạnh, mỗi hình thức
biểu hiện của nó thƣờng dẫn tới mộc cách cảm nhận, cách hiểu tƣơng ứng về chính
trị. Khó thống kê đƣợc hết những cách hiểu, định nghĩa nhƣ thế về chính trị, bản
chất của chính trị là gì? Vấn đề trung tâm then chốt nhất của nó là gì? Và kết cấu
của nó ra sao? ....
Thuật ngữ “chính trị” - “politic”(tiếng anh), “politique”(tiếng pháp) - trong
các ngôn ngữ phƣơng Tây đều đƣợc cấu tạo từ cung gốc chung có xuất xứ trong
tiếng Hy Lạp cổ đại - “politika”. Khởi thuỷ chữ politika có nghĩa: những công việc
nhà nƣớc hay những công việc xã hội. Cho đến nay, thuật ngữ “chính trị” còn tồn
tại nhiều cách hiểu khác nhau.
Thứ nhất, theo một số quan điểm ngoài Mác-xít, có rất nhiều cách hiểu về
chính trị: “Chính trị là công việc nhà nƣớc, công việc xã hội”; “chính trị là nghệ
thuật cai trị” (Platon: nền cộng hòa); “chính trị là khoa học lãnh đạo con ngƣời,
khoa học tổ chức xã hội” (Arixtot: chính trị); “chính trị là khát vọng tham gia vào
quyền lực” (M.Vâybe); “chính trị là sự phân phối có thẩm quyền các giá trị” (học

thuyết Weber của David Easton): quan niệm này tạo ra khuynh hƣớng nghiên cứu
chính trị tập trung vào nhà nƣớc, đặc biệt là vai trò, trách nhiệm và hoạt động của
chính phủ, các chính đảng, các cơ quan nhà nƣớc nhƣ bộ máy hành chính, quân
đội, cảnh sát và các cá nhân hoạt động trong bộ máy đó; “chính trị là sự dung hòa
các đòi hỏi chính đáng về phân phối hàng hóa và dịch vụ” (Bernard Crick - Anh):
quan niệm này cho rằng chính trị là một hoạt động thông qua đó các tập thể cùng
chung một số quyền lợi đƣợc hòa giải bằng cách chia cho họ một phần quyền lực

7


tƣơng xứng với tầm quan trọng của họ đối với sự tồn vong và lợi ích của cả cộng
đồng, và theo tác giả này, chính trị là điều tốt, bởi vì khơng có chính trị thì xã hội
sẽ phát triển theo hƣớng độc tài, chuyên chế; “chính trị là ai đƣợc gì, bao giờ và
bằng cách nào” (Harold Lasswell): quan niệm này tập trung vào hoạt động hơn là
vị trí của chính trị quyết định tính chất chính trị của một nhóm hay tổ chức, đồng
thời cho rằng hầu hết các nhóm, khơng chỉ là các cơ quan nhà nƣớc khi tham gia
hoạt động chính trị là đang tìm câu trả lời cho câu hỏi này.
Thứ hai, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-xít: Karl Marx (1818-1883) là
một trong những đại diện tiêu biểu cho quan điểm cho rằng chính trị thuộc lĩnh
vực “quyền lực” và vấn đề là ở chỗ quyền lực không đƣợc phân phối đồng đều
giữa các tầng lớp xã hội khác nhau. Chính sự phân phối không bình đẳng này đã
gây nên xung đột và đấu tranh giai cấp (giữa giai cấp tƣ sản, hay giai cấp sở hữu tƣ
liệu sản xuất, và giai cấp vô sản, hay giai cấp lao động). Theo Marx, chính trị là
một quá trình mà qua đó các giai cấp có xung đột về quyền lợi đấu tranh để giành
lấy, nắm giữ hoặc gây ảnh hƣởng quyền lực nhà nƣớc. Đối với Marx, chính trị là
xấu xa, không tốt đẹp. Từ đó ơng cho rằng, để có đƣợc cuộc sống tốt đẹp hơn,
chúng ta phải tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới một xã hội không giai cấp,
tức là loại bỏ chính trị ra khỏi đời sống của con ngƣời, vì chính trị là biểu hiện của
xung đột giai cấp, nên nếu khơng cịn giai cấp nữa thì cũng sẽ khơng cịn nhà

nƣớc, và chính trị cũng sẽ biến mất. Nói một cách khác, học thuyết của Marx chủ
trƣơng xây dựng một xã hội khơng có chính trị.
Những luận điểm của V.I. Lênin về chính trị: “Chính trị là sự tham gia vào
công việc của nhà nƣớc, là sự định hƣớng cho nhà nƣớc, xác định các hình thức,
nhiệm vụ và nội dung hoạt động của nhà nƣớc”; “Chính trị là lợi ích, là quan hệ lợi
ích giữa các giai cấp”; “Chính trị là sự tham gia của nhân dân vào các công việc nhà
nƣớc”; “Cái căn bản nhất của chính tri là việc tổ chức chính quyển nhà nƣớc”;
“Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế”; “Chính trị vừa là khoa học, vừa là
nghệ thuật”.
Về bản chất của chính trị, chủ nghĩa Mác-xít cho rằng: chính trị là quan hệ về
lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các quốc gia dân tộc, trong đó trƣớc hết
và cơ bản là lợi ích kinh tế. Về trung tâm then chốt trực tiếp nhất trong chính trị là
8


vấn đề quyền lực chính trị (tập trung ở quyền lực nhà nƣớc). Đó là cơng cụ cơ bản
nhất để định đoạt quan hệ với các giai cấp, các nhóm xã hội, theo hƣớng có lợi cho
lực lƣợng nắm quyền.
Bách khoa toàn thƣ triết học (của Liên Xô) viết: Chính trị là những công việc
nhà nƣớc, là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tộc và các
nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền
lực nhà nƣớc [11,10].
Từ đó, ta có thể đƣa ra khái niệm tổng quát về chính trị: “Chính trị là quan hệ
giữa các giai cấp, các lực lƣợng xã hội trong việc giành, giữ, và thực thi quyền lực
nhà nƣớc” [14,7].
Chúng ta nhận thấy: chính trị là quá trình bao gồm tranh luận, quyết định,
xung đột và (hoặc) hợp tác giữa các cá nhân, nhóm và tổ chức đối với sự chi phối,
kiểm soát, phân phối và sử dụng các nguồn tài nguyên, cũng nhƣ các giá trị và tƣ
tƣởng làm nền tảng cho các hoạt động đó.
Qua đó, ta thấy chính trị có các đặc trƣng sau:

+ Quan hệ chính trị về bản chất là quan hệ giai cấp: chính trị chỉ xuất hiện
trong xã hội có giai cấp; lợi ích của các giai cấp quy định nội dung, đặc điểm, bản
chất, xu hƣớng vận động của chính trị.
+ Nhà nƣớc là bộ phận trung tâm của chính trị: cái căn bản của chính trị là tổ
chức và sử dụng quyền lực nhà nƣớc.
+ Chính trị (với tƣ cách yếu tố thuộc kiến trúc thƣợng tâng) đều bị quy định
bởi quan hệ kinh tế, trong đó quan trọng (trực tiếp) nhất là các lợi ích kinh tế.
+ Chính trị là lĩnh vực nhạy cảm: phạm vi tác động của chính trị rộng (số đông).
+ Chính trị “vừa là khoa học vửa là nghệ thuật”: i/ Khoa học – có tri thức
chính trị = nắm và vận dụng đúng quy luật của đời sống chính trị; ii/ Nghệ thuật –
có kinh nghiệm, trải nghiệm, nhạy cảm chính trị.
Cấu trúc của chính trị bao gồm nhiều thành phần đặt trong mối quan hệ cụ
thể, hoạt động hài hịa và ổn định. Có nhiều cách hiểu về cấu trúc của chính trị có
sự khác nhau, nhƣ: Cách hiểu thứ nhất, gồm: Lợi ích chính trị; tổ chức chính trị;
hoạt động chính trị; ý thức chính trị; quan hệ chính trị. Cách hiểu thứ hai, gồm:
Quyền lực chính trị; thể chế chính trị; chính sách.
9


Cho đến nay, chính trị có một số chức năng chính nhƣ sau:
+ Tổ chức, quản lý, điều tiết các quá trình xã hội (các mâu thuẫn, xung đột),
thực hiện sự đối thoại giữa công dân và nhà nƣớc.
+ Thể hiện, kiểm soát, phân bổ quan hệ lợi ích của các giai cấp, nhóm, tầng
lớp xã hội.
+ Đảm bảo tính chỉnh thể, sự ổn định và trật tự của hệ thống xã hội.
+ Xã hội hoá cá nhân, hình thành tính tích cực xã hội, tính chủ động của con
ngƣời - công dân. Đảm bảo sự phát triển của xã hội và con ngƣời.
+ Điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia, các dân tộc, giữa con ngƣời với tự
nhiên.
Vì chính trị là lĩnh vực rộng, phức tạp có tác động đến mọi lĩnh vực hoạt

động của xã hội có giai cấp, mối quan hệ của chính trị với một số lĩnh vực của đời
sống xã hội đƣợc thể hiện qua sơ sơ đồ sau:
Kinh tế

Đạo đức
Chính trị

Văn hóa

Luật pháp

Hệ tƣ tƣởng

Tôn giáo

Sơ đồ số 1: Mối quan hệ với một số lĩnh vực của đời sống xã hội

Đời sống chính trị là chính trị đƣợc biểu hiện trên thực tế ở một giai đoạn lịch
sử, gắn với một xã hội nhất định. Đời sống chính trị - bầu không khí chính trị tác
động đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Tạo đƣợc đời sống chính trị lành
mạnh là điều kiện tiên quyết thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển và ngƣợc lại. Động
lực của đời sống chính trị là lợi ích và vai trò của quần chúng nhân dân lao động.
1.1.2. Quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước
Chính trị học là khoa học đấu tranh cho quyền lực chính trị, là khoa học về
giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị. Song quyền lực chính trị chỉ xuất hiện
10


và tồn tại khi xã hội có sự phân chia thành các giai cấp và đấu tranh giai cấp, còn
quyền lực là quan hệ khách quan trong đời sống xã hội, đã xuất hiện cùng với loài

ngƣời đƣợc tổ chức thành xã hội và sẽ tồn tại cùng với đời sống xã hội.
Quyền lực là quan hệ tất yếu, khách quan khi con ngƣời sống thành cộng
đồng: mọi ngƣời tƣơng tác, phụ thuộc, cố kết với nhau thành cộng đồng → cần có
hành động thống nhất, đƣợc tổ chức lại, quyền lực xuất hiện với tƣ cách là nhân tố
đảm bảo cho những hoạt động chung, thống nhất, có hƣớng của cộng đồng.
Cho đến nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quyền lực (một số nhà
nghiên cứu cho rằng có thể có đến hàng chục định nghĩa).
Sau đây là một số định nghĩa tiêu biểu: B. Russel (Anh): “quyền lực là khả
năng tạo ra những sản phẩm một cách có chủ ý”. Robert Dah (Mỹ): “quyền lực là
cái mà nhờ đó buộc ngƣời khác phải phục tùng”. Lebi Clipson (Mỹ): “ quyền lực
là khả năng đạt tới kết quả nhờ hành động phối hợp”. A. Toffler (Mỹ): “lực là cái
buộc ngƣời khác phải hành động theo ý mình”. Từ điển “Bách khoa triết học Liên
Xô”: “Quyền lực là khả năng thực hiện ý chí của mình có tác động đến hành vi của
ngƣời khác nhờ một phƣơng tiện nào đó nhƣ uy tín, sức mạnh”. Tập bài giảng
Chính trị học: “Quyền lực là mối quan hệ giữa các chủ thể hành động của đời sống
xã hội, trong đó chủ thể này có thể chi phối hoặc buộc chủ thể khác phải phục tùng
ý chí của mình nhờ sức mạnh, vị thế nào đó trong xã hội” [14,237].
Từ đó, có thể định nghĩa tổng quát: “Quyền lực là khả năng buộc ngƣời khác
phải hành động theo ý chí cuả mình”
Trong những định nghĩa trên chúng ta thấy nổi lên một số đặc điểm chủ yếu
sau đây của quan hệ quyền lực:
Thứ nhất, quan hệ quyền lực bao giờ cũng là quan hệ chủ thể (A – chủ thể chi
phối) và chủ thể (B – chủ thể bị chi phối), nhƣng đó khơng phải là mọi quan hệ
giữa (A) và (B) đều là quan hệ quyền lực, mà phải là những tác động điều chỉnh,
bắt buộc, cƣỡng chế đối với hành vi của ngƣời khác.
(A) và (B) có thể là một ngƣời, một nhóm ngƣời, giai cấp, liên minh giai cấp.
Thứ hai, những yếu tố tạo nên sức mạnh (nguồn gốc) của chủ thể quyền lực:
+ Rất đa dạng tùy thuộc loại quan hệ xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo
đức, tơn giáo....), tính chất của các quan xã hội (xã hội nguyên thủy, xã hội chiếm
11



hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tƣ bản...), trình độ phát triển xã hội (xã hội
tiền công nghiệp, công nghiệp, hậu công nghiệp).
+ Ngoài ra quyền lực của cá nhân có thể bị quy định bởi những nhân tố khác
nhƣ: thể lực, trí tuệ, tiền của, chủng tộc, dịng dõi, tuổi tác, văn hóa....
+ Trong xã hội có giai cấp những nhân tố sau đây thƣờng đƣợc chú ý: luật
pháp, uy tín, ý chí hay bạo lực.
Thứ ba, phƣơng thức đạt quyền lực: có nhiều nhƣng 02 phƣơng thức sau
đƣợc xem là chủ yếu:
+ Dùng sức mạnh bắt buộc ngƣời khác phục tùng
+ Dụ dỗ, thuyết phục, mua chuộc...
Thứ tƣ, dấu hiệu cơ bản của quyền lực: sức mạnh cƣỡng chế dựa nhờ sử dụng
những phƣơng tiện thực hiện quyền lực (trừng phạt, áp đặt đối với ngƣời khác)
(Những phƣơng tiện thực hiện quyền lực bao gồm: những thủ đoạn, truyền
thống, sự thuyết phục, sự cƣỡng chế, uy tín, luật pháp, sử dụng bạo lực trực tiếp,....).
Quyền lực chính trị: Một số quan niệm khá phổ biến về quyền lực chính trị,
nhƣ: Quyền lực chính trị = quyền lực nhà nƣớc; quyền lực chính trị = quyền lực công
cộng; quyền lực chính trị = khả năng áp đặt và thực thi các giải pháp phân bổ giá trị
có lợi cho một giai cấp; ... Nhƣng các quan niệm này đều có những điểm bất hợp lý.
Định nghĩa quyền lực chính trị: là quyền lực của một giai cấp hay liên minh
giai cấp để thực hiện sự thống trị chính trị trên cơ sở thực hiện chức năng công
quyền, cơ bản bằng quyền lực nhà nƣớc, là năng lực áp đặt và thực thi các giải
pháp phân bổ giá trị xã hội có lợi cho giai cấp mình và đảm bảo mức độ nhất định
sự công bằng xã hội.
Đặc trƣng cơ bản của quyền lực chính trị:
Một là, quyền lực chính trị - tất yếu khách quan trong các xã hội có giai cấp:
điều này đƣợc lý giải trong tƣơng quan với tính khách quan của các quan hệ giai
cấp trong xã hội có giai cấp.
Hai là, quyền lực chính trị bao giờ cũng mang tính giai cấp: đây đƣợc coi là

đặc trƣng bản chất của quyền lực chính trị vì: theo nguyên tắc của lý thuyết hình
thái kinh tế - xã hội, của lý thuyết về giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lênin thì tƣơng
12


ứng với mỗi hình thái kinh tế xã hội bao giờ cũng có quan hệ giai cấp nhất định với
tƣ cách là sản phẩm của phƣơng thức sản xuất, trong đó giai cấp thống trị về kinh tế
sẽ thống chị về chính trị, sẽ giành ƣu thế trong các phân bổ giá trị và lợi ích.
Ba là, quyền lực chính trị trong xã hội là quyền lực của giai cấp, tầng lớp và
nhóm xã hội thống trị về kinh tế: áp đặt và thực hiện phân bổ giá trị đối theo
hƣớng có lợi cho giai cấp, nhóm, tầng lớp thống trị; sự hiện diện của nhóm ngƣời
đặc biệt, của tầng lớp chun gia có thể thực hiện cơng việc quản lý và thực hiện ý
chí quyền lực; chuẩn bị, thông qua và hiện thực hoá các quyết định chính trị v.v.
Bốn là, quyền lực chính trị thể hiện tƣơng quan giữa lợi ích của giai cấp
thống trị và lợi ích của toàn xã hội (công bằng xã hội): điều này thể hiện chủ yếu
qua vai trò của quyền lực nhà nƣớc trong quyền lực chính trị.
Năm là, quyền lực chính trị phải đƣợc tập trung đủ mức và đƣợc kiểm soát: tập
trung đủ mức là điều kiện tiên quyết để quyền lực đƣợc thực thi; kiểm soát là yêu
cầu để tránh hiện tƣợng bộ phận nắm quyền lực nhà nƣớc tiếm quyền nhằm biến
quyền lực nhà nƣớc, quyền lực công thành cơng cụ phục vụ cho nhóm cầm quyền.
Bản chất của quyền lực chính trị là phản ánh quan hệ giữa các giai cấp trong
việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nƣớc. Song vấn đề đấu tranh cho quyền
lực chính trị, giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị còn là quan hệ giữa các lực
lƣợng xã hội, giữa các chủng tộc, giữa các dân tộc quốc gia trên trƣờng quốc tế,
giữa tôn giáo và chính quyền; thậm chí, đó cịn là vấn đề nội bộ của một giai cấp,
một chính đảng. Dĩ nhiên, sự biểu hiện phong phú, phức tạp ấy vẫn do cái trục cơ
bản chi phối - quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Đặc điểm chủ yếu của quyền lực chính trị: Quyền lực chính trị bao giờ cũng
mang tính giai cấp; là sự lãnh đạo của giai cấp, tầng lớp và nhóm xã hội thống trị
về kinh tế; quyền lực chính trị thể hiện khả năng sử dụng bạo lực có tổ chức trấn

áp giai cấp khác; ...
Chức năng quyền lực chính trị bao gồm: Thiết lập hệ thống chính trị của xã
hội; tổ chức đời sống chính trị; quản lý công việc nhà nƣớc và xã hội; lãnh đạo các
cơ quan quyền lực và các hoạt động chính trị; kiểm soát các quan hệ chính trị và
các quan hệ khác

13


Quyền lực chính trị trong một xã hội là quyền lực của giai cấp, lực lƣợng xã
hội giữ địa vị thống trị về kinh tế (sâu xa là quan hệ sở hữu). Điều này phản ánh
mục tiêu thực chất của quyền lực chính trị là nhằm thiết lập, duy trì một trật tự bảo
vệ và phát triển các lợi ích mà căn bản và trƣớc hết là lợi ích kinh tế cho giai cấp,
lực lƣợng xã hội nắm quyền. Đồng thời nó cũng thể hiện một quy luật là: giai cấp
nào thống trị về kinh tế sớm muôn sẽ thống trị về chính trị và nếu một giai cấp, lực
lƣợng xã hội đã làm chủ về quyền lực chính trị mà không xây dựng và giữ đƣợc
địa vị chủ đạo về kinh tế thì sớm muộn cũng sẽ không thể duy trì đƣợc quyền lực
chính trị.
Chủ thể quyền lực chính trị là các giai cấp, các lực lƣợng, cá nhân, các tổ
chức có mục tiêu và có khả năng trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình giành, giữ
và thực thi quyền lực chính trị. Chủ thể quyền lực chính trị có tính lịch sử cụ thể:
ra đời, thay đổi phụ thuộc vào sự phát triển của đời sống chính trị; mặt khác, đời
sống chính trị/ nền chính trị có nhiều chủ thể quyền lực chính trị khác nhau.
Những nhân tố đảm bảo giành, giữ, thực thi quyền lực chính trị:
Một là, có đƣờng lối, chính sách đúng: tức là xác định đúng mục tiêu chính
trị; con đƣờng đạt mục tiêu; lực lƣợng thực hiện; giải pháp cơ bản; sách lƣợc phù
hợp; đảm bảo mục tiêu giai cấp phù hợp với mục tiêu xã hội với xu thế thời đại;
phù hợp với đặc điểm lịch sử, văn hóa dân tộc...
Hai là, phải có hệ thống tổ chức: Đảng chính trị vững mạnh; Xây dựng hệ
thống nhà nƣớc; Các tổ chức chính trị quần chúng.

Ba là, tuyển lựa đƣợc những con ngƣời chính trị: ngƣời đứng đầu; đội ngũ
hoạt động chính trị có năng lực, phẩm chất; tính tích cực của quần chúng.
Bốn là, có quyết định chính trị, phƣơng thức và nghệ thuật hoạt động chính
trị đúng.
Nhà nước: Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-LêNin cho rằng: Nhà nƣớc là
một phạm trù lịch sử có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Nhà nƣớc nảy
sinh từ trong đời sống xã hội, xuất hiện khi xã hội loài ngƣời phát triển đến một
trình độ nhất định [26,19].

14


Tại tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của Nhà nƣớc”,
Ph.Awngghen cho rằng: Nhà nƣớc là bộ máy trấn áp của giai cấp này đối với giai
cấp khác. Đối với tất cả ngƣời dân sống trên lãnh thổ rộng lớn, thì nhà nƣớc đóng
vai trò là mối liên hệ để gắn kết họ lại với nhau và đồng thời Nhà nƣớc trở thành
kẻ áp bức, bóc lột họ. Nhà nƣớc ra đời nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị,
mà trƣớc tiên, cơ bản là lợi ích kinh tế, trấn áp sự phản kháng của các giai cấp
khác [22,89].
Nhƣ vậy, nhà nƣớc xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của một xã
hội phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nƣớc không phải là một quyền lực
từ bên ngoài áp đặt vào xã hội mà là một lực lƣợng nảy sinh từ xã hội.
Từ đó, có thể đƣa ra định nghĩa về Nhà nƣớc nhƣ sau: Nhà nƣớc là một tổ
chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cƣỡng chế
và thực hiện chức năng quản lý nhằm duy trì trật tự xã hội, bảo về địa vị và lợi ích
của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp [26,27].
Quyền lực nhà nước: Dƣới nhiều cách tiếp cận khác nhau, đã có nhiều quan
niệm về quyền lực nhà nƣớc. Nhiều ngƣời thƣờng cho rằng, quyền lực nhà nƣớc là
quyền lực chính trị của giai cấp thống trị đƣợc thực hiện bằng Nhà nƣớc. Một điều
hiển nhiên là, Nhà nƣớc và giai cấp thống trị mặc dù có liên quan mật thiết với

nhau nhƣng chứng là những thực thể xã hội khác nhau, mỗi thực thể đều có quyền
lực riêng. Quyền lực của giai cấp thống trị tồn tại trong quan hệ giữa nó với các
giai cấp, tầng lớp khác; giữa nó với các tổ chức do giai cấp đó lập ra. Trong khi
đó, quyền lực nhà nƣớc tồn tại trong quan hệ giữa Nhà nƣớc và các tổ chức, cá
nhân trong xã hội.
Có quan điểm lại cho rằng, quyền lực nhà nƣớc là quyền lực của giai cấp
thống trị đƣợc thực hiện bằng nhiều công cụ khác nhau của một hệ thống chuyên
chính do giai cấp đó lập ra [15,13].
Xuất phát từ các cách hiểu trên, chúng ta có thể đƣa ra khái niệm: “Quyền lực
nhà nƣớc là khả năng của Nhà nƣớc để buộc các cá nhân, tổ chức trong xã hội phải
phục tùng Nhà nƣớc” [15,14].

15


Tóm lại, quyền lực nhà nƣớc là quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền
đƣợc tổ chức thành nhà nƣớc. Vì vậy, về bản chất quyền lực nhà nƣớc là quyền
lực của giai cấp thống trị.
Quyền lực nhà nƣớc có đặc điểm:
Thứ nhất, là một bộ phận của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nƣớc có đầy
đủ các đặc trƣng của quyền lực chính trị.
Thứ hai, ngoài ra quyền lực nhà nƣớc có một số đặc thù:
+ Quyền lực nhà nƣớc đƣợc thực hiện bằng hệ thống bộ máy nhà nƣớc (cơ
quan lập pháp, hành pháp, tƣ pháp, kiểm sát)
+ Khả năng sử dụng các công cụ, phƣơng tiện, lực lƣơng nhà nƣớc để buộc các
giai cấp, tầng lớp xã hội khác phải phục tùng ý chí của giai cấp, tầng lớp thống trị.
+ Nhà nƣớc ngoài chức năng thống trị chính trị (công cụ chuyên chính của
giai cấp thống trị, bảo vệ sự thống trị về kinh tế của giai cấp cầm quyền, xác lập hệ
tƣ tƣởng của giai cấp cầm quyền, chống kể thù trong và ngoài) còn thực hiện nhiều
chức năng xã hội khác.

Quyền lực nhà nƣớc là bộ phận quan trọng nhất của quyền lực chính trị =>
nên sự thay đổi của quyền lực nhà nƣớc (chính quyền thuộc về giai cấp, tầng lớp
nào?) sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản tính chất của quyền lực chính trị, phƣơng
thức cầm quyền và chế độ chính trị.
Cơ chế vận hành quyền lực nhà nước (là bộ phận quan trọng nhất của quyền
lực chính trị): Thực tiễn cho thấy, cách thức tổ chức quyền lực nhà nƣớc sẽ quyết
định hiệu lực, hiệu quả của nó. Nhìn chung, cơ chế vận hành của quyền lực nhà
nƣớc có thể là:
Thứ nhất, thể hiện ý chí nhà nƣớc: ý chí nhà nƣớc có thể đƣợc diễn đạt bằng
ngơn ngữ nói hoặc viết, cũng có thể là những ký hiệu, tín hiệu, ... song tất cả đều
mang những nội dung: cho phép đối tƣợng quyền lực đƣợc làm gì, bắt đối tƣợng
thực thi phải làm gì, làm nhƣ thế nào; không cho đối tƣợng làm gì. Đây chính là
việc chủ thể quyền lực ban hành mệnh lệnh (quyết định) cho đối tƣợng quyền lực.
Thứ hai, tổ chức thực hiện nội dung ý chí nhà nƣớc: Tùy thuộc nội dung ý chí
nhà nƣớc, mà việc tổ chức thực hiện có thể đơn giản hay phức tạp.
16


Do có sự đa dạng, phức tạp của đối tƣợng quyền lực về chủ thể, sự đa dạng
về nhu cầu, lợi ích, điều kiện, hoàn cảnh sống, ... mà hành vi của các chủ thể, trong
những điều kiện, hoàn cảnh nhất định không hoàn toàn giống nhau. Việc không
thực hiện, không thực hiện đƣợc hoặc thực hiện không đúng nội dung ý chí nhà
nƣớc là điều khó tránh khỏi. Chính vì thế, để đảm bảo cho các đối tƣợng có thể
thực hiện đƣợc và thực hiện một cách chính xác, thống nhất nội dung ý chí nhà
nƣớc, cần có sự tuyên truyền, giải thích để đối tƣợng hiểu đƣợc, hiểu đúng nội
dung ý chí nhà nƣớc.
Thứ ba, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nội dung ý chí nhà nƣớc, xử lý vi
phạm xảy ra (nếu có).
Do nhiều nguyên nhân, có trƣờng hợp, đối tƣợng quyền lực chủ động, tực
giác, tích cực thực hiện một cách nghiêm chỉnh quyền, nghĩa vụ đã đƣợc xác định

cho mình, có trƣờng hợp, đối tƣợng tìm cách chống đối, không thực hiện, thực
hiện một cách khơng đúng với u cầu địi hỏi của Nhà nƣớc. Vì vậy, để nội dung
ý chí của nhà nƣớc đƣợc tuân thủ nghiêm chỉnh, đòi hỏi chủ thể quyền lực phải
tiến hành việc kiểm tra, giám sát các đối tƣợng trong quá trình thực hiện quyền,
nghĩa vụ của họ.
Tóm lại, nói một cách chung nhất, quyền lực nhà nƣớc đƣợc vận hành theo
cơ chế là lập pháp, hành pháp, tƣ pháp thông qua việc thực hiện các chính sách
quốc gia.
Quan hệ chính trị là những quan hệ xã hội đặc biệt, trong đó quan hệ giai cấp
là cơ bản, còn các quan hệ quốc gia, dân tộc là các quan hệ chính trị mang tính
chỉnh thể. Mỗi giai cấp chỉ có thể đi đến các mục tiêu lợi ích kinh tế của mình khi
nó nắm trong tay chính quyền. Do đó, trung tâm của các quan hệ chính trị là công
việc nhà nƣớc (công việc chính quyền), là việc giành, giữ chính quyền và thực thi
quyền lực nhà nƣớc, là việc xác định hình thức tổ chức, chính sách, cơ chế hoạt
động của nhà nƣớc đối với toàn bộ đời sống xã hội. Thực chất của các quan hệ
chính trị (quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia) là giải quyết các quan hệ về quyền
lực để đi đến các mục tiêu lợi ích kinh tế.

17


Chính sách cơng: là nội dung quan trọng của khoa học chính trị và của chính
trị. Nhà nƣớc (là bộ phận trung tâm của chính trị) là chủ thể đại diện cho quyền lực
của nhân dân, ban hành chính sách công để mƣu cầu lợi ích cho xã hội. Hoạt động
của Nhà nƣớc không chỉ tác động đến một khu vực, một bộ phận dân cƣ nhất định
mà tác động rộng khắp đến mọi đối tƣợng trên phạm vi quốc gia.
Chính sách công là những quy định về sự ứng xử của Nhà nƣớc với các vấn
đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, đƣợc thể hiện bằng nhiều hình thức khác
nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hƣớng [8,13].
Quan niệm trên cho thấy, chính sách là một công cụ đƣợc Nhà nƣớc sử dụng

để quản lý điều hành nền kinh tế xã hội theo định hƣớng. Ở nƣớc ta, công cụ chính
sách đƣợc quy định trong Hiếp pháp từ những năm 1992, tại Điều 26 đã ghi: “Nhà
nƣớc thống nhất quản lý kinh tế quốc dân bằng luật pháp, kế hoạch, chính sách”.
Mỗi công cụ đều có những vai trị nhất định phù hợp với mục đích, yêu cầu
sử dụng của chủ thể. Với vị trí là chính sách chung, chính sách cơng có các vai trò:
+ Vai trò định hƣớng (chính sách dài hạn): (1) định hƣớng hoạt động của các
chủ thể trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội theo những mục tiêu, phƣơng hƣớng, kế
hoạch xác định của nhà nƣớc; (2) ƣớng dẫn sử dụng các nguồn lực: nhân lực, vật
lực để theo định hƣớng chiến lƣợc của nhà nƣớc.
+ Vai trò kích thích phát triển: tạo ra động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
+ Vai trò điều tiết: điều tiết các quan hệ lợi ích (hay phân bổ lợi ích): (1) lựa
chọn lợi ích - xác định đối tƣợng thụ hƣởng lợi ích; (2) tổng hợp lợi ích: quan hệ
lợi ích giữa các thành viên, các nhóm… rất phức tạp, nhiều khi mâu thuẫn, xung
đột nhau, vì vậy tổng hợp lợi ích là phƣơng thức để đƣa ra những chính sách công
phù hợp; (3) phân phối lợi ích: bất cứ chính sách nào đƣợc ban hành đều có đối
tƣợng thu hƣởng lợi ích nhất định/ đặc điểm quan trọng của chính sách công là bảo
vệ những lợi ích lâu dài, lợi ích của đa số và lợi ích cơ bản của xã hội; (4) thực
hiện lợi ích: các đối tƣợng thụ hƣởng lợi ích chỉ hiện thực hóa khi chính sách đƣợc
thực hiện.
Với vị trí trong thực thi quyền lực chính trị, chính sách cơng có vai trị:
+ Chính sách cơng là cơng cụ thực hiện quyền lực chính trị: công cụ đặc
quyền của nhà nƣớc nhằm thực hiện các mục tiêu, các lợi ích khách quan của nó
(Nhà nƣớc hoạch định chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội, lựa chọn chính sách,
phƣơng thức điều tiết kinh tế vĩ mô).
18


+ Chính sách công là công cụ giải quyết các mâu thuẫn trong xã hội(chính
sách - tập hợp các phƣơng án giải quyết các mâu thuẫn, các xung đột xã hội trong
cộng đồng, có mục đích cuối cùng là tạo ra trất tự quan hệ lợi ích xã hội có thể

chấp nhận thông qua ý chí của chủ thể cầm quyền).
+ Chính sách cơng có vai trị quyết định trong việc giành, giữ và thực thi
quyền lực chính trị.
+ Chính sách công là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Trong thực tế, chủ thể sử dụng chính sách sử dụng nhiều loại chính sách khác
nhau trong lãnh đạo, điều hành hoạt động. Tùy theo mục đích, yêu cầu của chủ
thể, có các cách phân loại chính sách sau:
Theo lĩnh vực tác động gồm có: Chính sách kinh tế, chính sách xã hội, chính
sách giáo dục - đào tạo, chính sách khoa học cơng nghệ, chính sách văn hóa, chính
sách an ninh quốc phịng, ...
Theo khơng gian tác động gồm có: Chính sách đối nội, chính sách đối ngoại.
Theo cấp độ ban hành gồm có: Chính sách trung ƣơng, chính sách địa
phƣơng.
Theo thời gian thực hiện gồm có: Chính sách dài hạn, chính sách trung hạn,
chính sách ngắn hạn.
Theo chủ thể quyết định gồm có: Chính sách chủ động, chính sách thụ động.
Theo cách thức triển khai gồm có: Chính sách cƣỡng chế, chính sách thuyết phục.
Tóm lại, trong đời sống xã hội, có rất nhiều vấn đề cần có chính sách để giải
quyết một cách kịp thời. Tuy nhiên, với nguồn lực hữu hạn, nhà nƣớc chỉ có thể lựa
chọn một số vấn đề để giải quyết trƣớc. Mục tiêu của đảng cầm quyền là cơ sở cho việc
xác định các ƣu tiên chính trị trong việc lựa chọn các vấn đề, đối tƣợng hay tầng lớp,
giai cấp nào trong xã hội cần đƣợc ƣu tiên trong khi thiết kế chính sách.
1.2. Lý luận chung về kinh tế và chi tiêu ngân sách nhà nƣớc
1.2.1. Quan niệm về kinh tế
Thuật ngữ kinh tế (economy) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là “ngƣời
quản lý một hộ gia đình”. Mới nhìn qua, nguồn gốc này có vẻ chƣa thỏa đáng,
nhƣng trên thực tế, hộ gia đình và nền kinh tế có rất nhiều điểm chung.
Hộ gia đình phải đối mặt với nhiều quyết định. Nó phải quyết định mỗi thành
viên trong gia đình phải làm việc gì và nhận đƣợc cái gì. Nói một cách khác, hộ
19



gia đình phải phân bổ nguồn lực khan hiếm của mình giữa các thành viên khác
nhau sao cho phù hợp với năng lực, nỗ lực và ƣớc muốn của mỗi ngƣời.
Cũng giống nhƣ một gia đình, xã hội phải đối mặt với nhiều quyết định. Một
xã hội phải quyết định cái gì cần phải làm và ai sẽ làm việc đó. Cần phải có một số
ngƣời sản xuất thực phẩm, một số khác sản xuất quần áo và cũng cần có một số
ngƣời thiết kế các phần mềm máy tính nữa, ... Một khi xã hội đã phân bổ đƣợc mọi
ngƣời (và đất đai, nhà xƣởng, máy móc) vào những ngành nghề khác nhau, nó cũng
phải phân bổ sản lƣợng hàng hóa và dịch vụ mà họ đã sản xuất ra. Nó phải quyết
định ai ăn thịt và ăn rau. Nó phải quyết định ai đi xe xon và ai đi xe buýt. Việc quản
lý nguồn lực của xã hội có ý nghĩa quan trọng vì nguồn lực có tính khan hiếm.
Từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, đã có nhiều định nghĩa khác nhau về kinh
tế. Dƣới góc độ sản xuất của cải vật chất phục vụ nhu cầu của con ngƣời và xã hội,
có thể hiểu: kinh tế là những hoạt động để tạo ra cơ sở vật chất cho con ngƣời và
xã hội (kinh tế nông nghiệp, kinh tế cơng nghiệp, ...). Dƣới góc độ quan hệ giữa
con ngƣời với con ngƣời, quan hệ giữa các giai cấp trong xã hội về sở hữu tƣ liệu
sản xuất, về tổ chức quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm, có thể hiểu: kinh tế
là tổng hợp những quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của một hình
thái kinh tế - xã hội (kinh tế phong kiến, kinh tế tƣ bản chủ nghĩa, kinh tế xã hội
chủ nghĩa). Dƣới góc độ sử dụng hợp lý, có hiệu quả các nguồn lực để phát triển
sản xuất - kinh doanh, có thể coi: kinh tế là tiết kiệm, có hiệu quả, ít tốn kém (tính
toán làm ăn một cách rất kinh tế). Với cách tiếp cận của kinh tế học hiện đại, kinh
tế học là việc nghiên cứu xã hội sử dụng các nguồn lực khan hiếm nhƣ thế nào để
sản xuất ra các hàng hóa có giá trị và phân phối chúng cho các đối tƣợng khác
nhau, thì nhiệm vụ trọng tâm của kinh tế là giải quyết ba vấn đề cơ bản là: sản xuất
cái gì? sản xuất nhƣ thế nào? sản xuất cho ai? Theo từ điển Bách khoa toàn thƣ
mở, kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ tƣơng tác lẫn nhau của con ngƣời và xã
hội liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản
phẩm hàng hóa và dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con ngƣời

trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn. Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản
xuất, các điều kiện sống của con ngƣời, các mối quan hệ trong quá trình sản xuất
và tái sản xuất xã hội. Nói đến kinh tế, suy cho cùng là nói đến vấn đề sở hữu và
20


×