Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

(Luận văn thạc sĩ) vận dụng tư tưởng hồ chí minh về công tác dân vận ở việt nam hiện nay luận văn ths luật 60 22 85

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

MAI THỊ BÍCH NGỌC

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CƠNG TÁC DÂN VẬN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Hà Nội-2013
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

MAI THỊ BÍCH NGỌC

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CƠNG TÁC DÂN VẬN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 03 08

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thanh Tuấn



2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
NỘI DUNG ..................................................................................................... 11
Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC DÂN VẬN VÀ
TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐÓ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY ........................................................................................... 11
1.1. Hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận .......... 11
1.2. Tầm quan trọng của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác
dân vận ở nước ta hiện nay .......................................................................... 39
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC DÂN VẬN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......... 49
2.1. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận ở nước
ta hiện nay .................................................................................................... 49
2.2. Một số giải pháp góp phần thực hiện có hiệu quả cơng tác dân vận theo
tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta thời gian tới. ............................................ 73
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 90

94


Hà Nội-2013

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu của luận văn
Từ sau Ðại hội lần thứ VI (1986), Ðảng ta đã ban hành nhiều nghị

quyết, chỉ thị về tăng cường mối quan hệ giữa Ðảng và nhân dân, về đại đồn
kết tồn dân tộc, về dân tộc, tơn giáo, về Mặt trận và các đồn thể nhân dân.
Thơng qua việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị đó, quyền làm chủ của nhân
dân trong tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội đã từng bước
được phát huy, góp phần tích cực động viên nhân dân phấn khởi đẩy mạnh
sản xuất, kinh doanh, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng
cố quốc phòng, an ninh.
Việc tập hợp nhân dân với các hình thức đa dạng đã có bước phát triển
mới; nhờ đó đã động viên, lơi cuốn được đơng đảo các tầng lớp nhân dân
tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước. Ðạt được thành
tựu trên là do nhân dân ta có truyền thống yêu nước, đồn kết trong q trình
dựng nước và giữ nước; từ ngày có Ðảng, ln gắn bó với Ðảng, với cách
mạng. Ðường lối đổi mới đúng đắn của Ðảng là ngọn cờ đoàn kết, tập hợp
nhân dân trong thời kỳ phát triển mới của đất nước. Tổ chức đảng và chính
quyền các cấp có bước chuyển biến về cơng tác dân vận. Mặt trận và các đoàn
thể nhân dân nỗ lực đổi mới công tác tập hợp và động viên các tầng lớp nhân
dân, và hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn.
Tuy vậy, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Ðảng, Nhà
nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước những thách thức mới.
Lòng tin vào Ðảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận nhân dân
chưa vững chắc. Kỷ cương phép nước nhiều lúc, nhiều nơi không nghiêm,
đạo đức xã hội có mặt xuống cấp, trật tự an tồn xã hội cịn phức tạp. Các vụ
khiếu kiện đơng người vẫn cịn nhiều, và có lúc, có nơi rất gay gắt. “Việc
tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia vào các phong
trào, cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc các đồn thể nhân dân cịn hạn chế”
3


[17, tr.171], nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi, ở một số vùng có đơng đồng bào theo đạo, đồng bào dân

tộc thiểu số.
Nguyên nhân, một mặt, trước tiên do đời sống của đa số người dân cịn
nhiều khó khăn; và một số chủ trương, chính sách của Nhà nước chưa thể
hiện đầy đủ quan điểm đại đoàn kết tồn dân tộc; việc thực hiện cịn nhiều
thiếu sót. Người dân bất bình trước những bất cơng xã hội và tình trạng tham
nhũng, quan liêu, lãng phí cịn khá phổ biến, nghiêm trọng.
Ðảng ta chưa phân tích và dự báo đầy đủ những biến đổi trong cơ cấu
xã hội và những mâu thuẫn mới nảy sinh trong nhân dân, nên trong một thời
gian dài chưa có chủ trương khắc phục những mâu thuẫn ấy một cách đúng
đắn, kịp thời. Nhiều tổ chức đảng, chính quyền cịn coi nhẹ cơng tác dân vận.
Hệ thống chính trị ở cơ sở cịn yếu kém về nhiều mặt. Ở một số nơi, cấp ủy
đảng cịn mất đồn kết; một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu,
thậm chí suy thối về tư tưởng, đạo đức, lối sống. Một số cấp ủy, cán bộ, đảng
viên cịn hẹp hịi, định kiến với những người ngồi Ðảng, người làm kinh tế
tư nhân, chức sắc tôn giáo,... Từ đó làm giảm sút vai trị hạt nhân lãnh đạo và
đoàn kết của tổ chức đảng. “Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân
chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân” [17, tr.171], cịn hình thức và nặng về
hành chính. Sự suy thối về lối sống và đạo đức trong xã hội, mà biểu hiện là
lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền; từ đó làm xói mịn tình làng, nghĩa
xóm. Ý thức cơng dân, ý thức chấp hành kỷ cương, chính sách, pháp luật của
một bộ phận nhân dân còn yếu kém.
Mặt khác, hiện nay cùng với việc đẩy mạnh hội nhập quốc tế, các thế
lực thù địch ra sức phá hoại khối đoàn kết của nhân dân ta, ln kích động
những vấn đề "dân chủ, nhân quyền", dân tộc, tôn giáo... để gây ly gián, chia
rẽ nội bộ Ðảng, Nhà nước và nhân dân. Từ những điểm nóng ở Tây Nguyên,
Tây Bắc (trong các năm 2004, 2011) đòi hỏi phải giải đáp các câu hỏi bức xúc
hiện nay là: Tại sao hệ thống chính trị cơ sở ở sát dân, thực hiện “ba cùng” và
4



hoạt động liên tục trong điều kiện đời sống của người dân bước đầu đã được
cải thiện - nhưng một bộ phận trong số đồng bào dân tộc thiểu số ở đây vẫn
chưa tin tưởng vào đường lối, chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà nước?
Vì sao vẫn khơng ít người dân, kể cả ở đồng bằng, đô thị lại hoang mang,
thậm chí tin và làm theo những “tin đồn” hoặc tin trên những trang mạng hoạt
động trái phép.
Trước tình hình trên, việc tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
về cơng tác dân vận nhằm vận dụng sáng tạo vào công tác dân vận ở nước ta
trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, có nghĩa lý luận và thực tiễn sâu
sắc. Xuất phát từ vai trị của cơng tác dân vận đối với sự nghiệp phát triển của
đất nước và trên cơ sở tiếp thu thành quả nghiên cứu của các tác giả đi trước,
tơi chọn vấn đề: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận văn
Cơng cuộc đổi mới, xây dựng đất nước địi hỏi việc không ngừng nâng
cao chất lượng và hiệu quả công tác dân vận, hướng tới thực hiện mục tiêu:
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Việc củng cố, tăng
cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân được coi là
nhiệm vụ trọng tâm trong công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới. Nhận
thức được sự cần thiết và tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả công tác
dân vận trong thời kỳ đổi mới và hội nhập ở Việt Nam hiện nay đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu, sách, các bài viết đăng trên các báo, tạp chí tìm hiểu về
vấn đề này, đặc biệt từ khi có Nghị quyết số 23 - NQ/TW của Hội nghị
BCHTW 7, khóa IX, về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì "dân
giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh" (12.3.2003).
Thứ nhất, các đề tài, đề án nghiên cứu
- Đề tài “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân
vận trong thời kỳ mới” mã số KHBĐ (2006)-40; chủ nhiệm: Vũ Trọng Kim
(Phó trưởng ban thường Trực, Ban dân vận Trung ương). Nội dung đề tài tập
5



trung làm rõ thực trạng và phương hướng đổi mới, phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với công tác dân vận ở nước ta hiện nay.
- Đề tài Thực trạng công tác vận động quần chúng và những chủ
trương, giải pháp đổi mới công tác vận động quần chúng theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội X của Đảng” của Trung tâm nghiên cứu khoa học Dân vận,
Ban dân vận Trung ương. Đề tài tập trung đánh giá thành tựu, hạn chế và
những nguyên nhân; từ đó đề xuất một số chủ trương, giải pháp đổi mới công
tác vận động quần chúng trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, các sách chuyên khảo
- Trung tâm nghiên cứu khoa học dân vận, Ban dân vận Trung ương
(1995), Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội: Tài liệu đã làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
vận. Đồng thời, các tác giả tổng kết những nội dung cơ bản nhất tư tưởng về
dân vận và công tác dân vận của Người Tuy nhiên, các tác giả chưa tập trung
nghiên cứu sâu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận
trong bối cảnh hiện nay.
- Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương (2000), Sơ thảo lịch sử cơng tác
dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam 1930 – 2000”, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội: Cơng trình đã đề cập một cách khái quát nhất về chặng đường
thực hiện công tác dân vận của Đảng ta từ khi thành lập Đảng đến năm 2000,
trong đó đã đề cập đến những thành tựu và một số hạn chế trên con đường
thực hiện công tác dân vận của Đảng; đồng thời đã chỉ ra một số giải pháp
nhằm làm tốt hơn nữa công tác dân vận của Đảng trong những chặng đường
tiếp theo. Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước đang hịa mình vào cơng cuộc
hội nhập hiện nay cần có sự đầu tư nghiên cứu sâu hơn về việc vận dụng tư
tưởng của Người về công tác dân vận.
- Nguyễn Tiến Thịnh (2005), Công tác dân vận của các cơ quan nhà

nước trong thời kỳ mới, Nxb. Tư pháp, Hà Nội: Tác giả đã tổng kết một số
6


quan điểm về công tác dân vận và giá trị của nó đối với cơng tác dân vận của
Đảng trong thời kỳ mới. Đồng thời, tổng kết một số điển hình cơng tác dân
vận trong cơ quan nhà nước thời kỳ mới. Tác giả cũng chưa đi sâu tìm hiểu
việc vận dụng tư tưởng của Bác về công tác dân vận trong bối cảnh hiện nay.
- Ban dân vận Trung ương Đảng (2011), Một số văn kiện của Đảng về
công tác dân vận thời kỳ đổi mới (1986-2011”), Nxb. Lao động, Hà Nội:
Cơng trình đã tổng kết một số văn kiện của Đảng từ năm 1986 đến năm 2011
về các vấn đề: thực hiện quy chế dân chủ; công tác dân tộc, tơn giáo; cơng tác
vận động doanh nhân, trí thức; cơng tác vận động người Việt Nam ở nước
ngồi; mặt trận tổ quốc; công nhân lao động và công đồn Việt Nam; nơng
nghiệp, nơng dân, nơng thơn; thanh niên và đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh; hội cựu chiến binh,…
Thứ ba, các báo và tạp chí
- Lê Xuân Nam (2003), Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
dân vận để thực hiện thắng lợi nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ bảy
(khóa IX), Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6/2003.
- Vũ Ngọc Lân (2005), Quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo tiến hành
công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Dân vận, số 10/2005
- Nguyễn Thanh Tuyền (2005), Phương pháp dân vận của Chủ tịch Hồ
Chí Minh qua bài báo “Dân vận” – ý nghĩa thực tiễn, Tạp chí Dân vận,
10/2005 ;
- Mạch Quang Thắng (2006), Dân vận – vấn đề luôn luôn mới (Qua
nghiên cứu tác phẩm dân vận của Hồ Chí Minh), Tạp chí Lý luận chính trị, số
8/2006;
- Lê Khả Phiêu (2008), Dân làm gốc, dân làm chủ - vị trí trung tâm
trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tạp chí

Cộng sản, số 783 tháng 1/2008;
- Vũ Ngọc Lân (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận,
Tạp chí Lý luận chính trị, số 1/2008;
7


- Hà Thị Khiết (2012), Củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng, nhà nước với nhân dân – nhiệm vụ trọng tâm của công tác dân vận của
Đảng trong thời kỳ mới, Tạp chí Cộng sản, số 831 tháng 1/2012;
Đới Văn Tặng (2012), Giải pháp tăng cường công tác tào tạo, bồi
dưỡng cán bộ dân vận trong giai đoạn mới, Tạp chí Giáo dục Lý luận, số
1/2012;
- V.v...
Các cơng trình nghiên cứu trên đây là nguồn tài liệu quý giá cho việc
nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận trong
bối cảnh hiện nay. Nhưng phần lớn các cơng trình trên hoặc là những ý kiến
trong các bài viết ngắn, hay chỉ là kỷ yếu tập hợp những ý kiến đánh giá,
nhìn nhận tư tưởng dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Trong khi đó, việc
nghiên cứu vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh đỏi hỏi phải có một cơng
trình nghiên cứu chun biệt với cách tiếp cận khơng chỉ dưới góc độ triết
học, lịch sử, xã hội học,… mà phải nhìn nhận dưới nhiều góc độ, theo hướng
tiếp cận liên ngành, và địi hỏi ln phải có cách tiếp cận mới để có thể bám
sát hơn nữa thực tế hiện nay ở nước ta. Bởi lẽ, quá trình tun truyền, vận
động, tập hợp, đồn kết nhân dân đang và sẽ chịu sự tác động sâu sắc bởi ý
thức, lợi ích, nhu cầu và lối sống của các giai tầng xã hội trong điều kiện
phân hóa - phân tầng xã hội ngày càng sâu sắc do tác động của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế hiện nay. Vì thế, việc
nghiên cứu vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận
trong bối cảnh Việt Nam hiện nay có ý nghĩa thời sự, và vẫn là một đòi hỏi
phải được tiếp tục quan tâm nghiên cứu sâu hơn nữa.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận, luận văn
xác định tầm quan trọng và tập trung đánh giá thực trạng vận dụng tư tưởng

8


đó phù hợp với bối cảnh hiện nay ở nước ta; từ đó đề xuất một số giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Thứ nhất, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận và xác
định tầm quan trọng của việc vận dụng tư tưởng đó phù hợp với bối cảnh hiện
nay ở nước ta.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong
việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận ở nước ta hiện nay.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công
tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống các quan điểm của Hồ
Chí Minh về công tác dân vận và sự vận dụng những tư tưởng cơ bản của Hồ
Chí Minh về cơng tác dân vận ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Từ sau năm 2000 đến nay, tức là từ khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, khóa IX, về phát huy sức mạnh đại
đồn kết tồn dân tộc vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh" (12.2003); đặc biệt là quyết định số 290 –QĐ/TW của Bộ chính trị
ngày 25/2/2010 về việc ban hành quy chế công tác dân vận của hệ thống
chính trị liên quan trực tiếp đến cơng tác dân vận.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận, phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở những quan điểm lý luận và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng
cộng sản Việt Nam về công tác dân vận.
5.2. Về phương pháp nghiên cứu

9


Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp:
phân tích, tổng hợp, lơgic - lịch sử và so sánh, trên cơ sở kế thừa kết quả
nghiên cứu đã có, nhất là kế thừa kết quả khảo sát thực tế và tổng kết thực
tiễn của các tổ chức đảng và tổ chức đoàn thể, trung ương và địa phương.
6. Đóng góp chính của luận văn
- Làm rõ nội dung vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác dân
vận ở nước ta trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần vào việc hình thành được nhận thức đúng đắn về
vai trị của cơng tác dân vận. Từ đó giúp các cấp ủy đảng và tổ chức đoàn
thể đưa ra những chủ trương, giải pháp nâng cao hiệu quả cơng tác dân vận
hiện nay.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác
giảng dạy ở trường chính trị thành phố; và có thể dùng làm tài liệu tham khảo
nghiên cứu tại các cấp uỷ đảng, tổ chức đoàn thể ở nước ta hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương với 4 tiết.


10


NỘI DUNG
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC DÂN VẬN
VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC VẬN DỤNG
TƯ TƯỞNG ĐÓ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận
1.1.1. Hồ Chí Minh bàn về cơng tác dân vận
Cơng tác dân vận có ý nghĩa chiến lược quan trọng trong mọi thời kỳ
cách mạng. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa nó lại càng quan trọng vì cách
mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc, triệt để, tác động
đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân, các
giới đồng bào. Trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước hiện nay, cơng tác dân vận nhằm góp phần phát huy sức mạnh đại đồn
kết toàn dân tộc, tạo ra sức mạnh nội lực, kết hợp với sức mạnh bên ngoài,
sức mạnh truyền thống với sức mạnh của thời đại để thực hiện mục tiêu giữ
vững độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác dân vận cho nên trong
suốt quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn
đề này. Tư tưởng về công tác dân vận - công tác vận động quần chúng là một
hệ thống những quan điểm, phương thức dân vận được thấm nhuần trong cả
cuộc đời và trong các tác phẩm của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã
khẳng định đây là một nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa quyết định cho sự
thành bại của cách mạng... Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận thể
hiện những nội dung cơ bản như sau:
1.1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, “dân là tồn dân, tồn dân tộc Việt

Nam bao gồm mọi người thuộc các dân tộc đa số và thiểu số, sống ở trong
11


nước hay nước ngồi, khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu nghèo, tôn
giáo” [38, tr.23-26]. Người khẳng định dân không phải là một khối đồng nhất,
mà là một cộng đồng gồm nhiều dân tộc, giai cấp, tầng lớp, có sự thống nhất
và khác biệt về lợi ích, có thái độ và vai trò khác nhau đối với sự phát triển
của xã hội. Hồ Chí Minh đã nhận định với đặc thù là một nước nơng nghiệp,
thuộc địa, nói đến dân chủ yếu là nói tới nhân dân lao động gồm nông dân,
công nhân,… là những lực lượng trực tiếp sản xuất, có tiềm lực tinh thần và
vật chất to lớn nhất. Về đại thể “dân chúng chính là những người chịu đựng
cái kết quả của sự lãnh đạo của ta” [29,tr 285]. Dân là tập hợp của ba hạng
người: “hạng hăng hái, hạng vừa vừa và hạng kém. Mà trong ba hạng đó,
hạng vừa vừa, hạng ở giữa, nhiều hơn hết, hạng hăng hái và hạng kém đều ít
hơn” [29, tr 289].
Quan niệm về “dân” của Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng tới khía cạnh
tinh thần, đây là một điểm khác biệt so với một số chính trị gia phương Tây
khác. Như vậy, khái niệm “dân” của Hồ Chí Minh có sự tiếp nối tinh thần của
chủ nghĩa Mác – Lênin về quan điểm giai cấp khi tập hợp lực lượng cách
mạng, lại rất phù hợp và hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam - nơi giai
cấp cơng nhân cịn ít ỏi, nơng dân chiếm đa số dân cư, tầng lớp trí thức có tinh
thần u nước cao. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh khái niệm dân, nhân
dân, đồng bào đều là đồng nghĩa, đều chỉ con dân nước Việt, tùy hoàn cảnh
khác nhau mà sử dụng khái niệm nào cho thích hợp. Người dân Việt Nam dù
thuộc tộc người nào, hoàn cảnh xã hội nào, chính kiến nào đều là người Việt
Nam, mang dịng máu Việt Nam, đó là cái chung nằm trong cái riêng của mỗi
cá thể. Khơng có người dân nào khơng gắn liền với dân tộc, với đất nước.
Cuộc sống và vận mệnh của mỗi người dân gắn liền với vận mệnh hữu cơ của
cả dân tộc. Chính vì quan điểm biện chứng ấy mà Hồ Chí Minh đã phát hiện

và rút ra kết luận hết sức quan trọng: Hễ là người Việt Nam thì dù trong bất
cứ hồn cảnh xã hội và điều kiện lịch sử nào cũng đều có tinh thần dân tộc,
đều có lịng u nước và tinh thần ấy bao trùm lên hết thảy, vượt lên mọi tín
12


điều và trở thành lẽ sống của mỗi con người. Cái vĩ đại trong triết lý của Hồ
Chí Minh về Dân đã vượt lên mọi sự hẹp hòi, phân biệt, đố kỵ thường xảy ra
trong khi thực tế ảnh hưởng của ý thức hệ truyền thống đã đưa đến sự phân
hóa và đấu tranh giai cấp, phân tầng xã hội vơ cùng quyết liệt.
Theo Hồ Chí Minh, Dân là một khái niệm rất cụ thể, rõ ràng. Dân
không phải là trìu tượng, chung chung, khơng xác định mà chính là những con
người cụ thể bằng xương, bằng thịt, sống làm việc quanh ta. Hồ Chí Minh
nhìn thấy từng con người trong cộng đồng, hiểu rất rõ từng con người, cảm
thông trân trọng đặc tính, hồn cảnh xã hội, tâm linh tôn giáo, bản sắc dân
tộc...Cái triết lý hiểu dân qua từng con người cụ thể của Hồ Chí Minh thật
giản dị, rõ ràng minh bạch nhưng lại đạt tới trình độ siêu việt, vượt lên mọi
người. Trong triết lý về Dân của Hồ Chí Minh ta cịn tìm thấy một nhân cách
luận Hồ Chí Minh đó là rất coi trọng cá nhân để coi trọng cộng đồng vì mỗi
cá nhân là thành phần chủ động, tích cực của cộng đồng, cịn là cái nơi của
cộng đồng, là mơi trường ni dưỡng cái tích cực của mỗi cá nhân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh khái niệm Dân ln gắn liền với vị trí, vai
trị của Dân trong xã hội. Nếu Dân gắn với dân tộc, với đất nước thì đồng thời
Người cũng khẳng định vị trí làm chủ xã hội, làm chủ đất nước của Dân. Như
vậy, Dân – Dân tộc – Dân chủ là một chùm khái niệm liên hệ mật thiết với
nhau. Chỉ có khẳng định được chỗ đứng và tư cách của người Dân với xã hội,
với đất nước thì mới làm rõ, đầy đủ khái niệm và quan niệm về Dân. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của Dân trong xã hội là rõ ràng, dứt khốt: Dân
là chủ đất nước. Vì là người chủ của đất nước cho nên quyền lợi, nghĩa vụ,
trách nhiệm đều là của Dân, khơng có sự chia sẻ, khơng được phép xâm phạm

và khơng thể bị thối thác. Người khẳng định “Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”. Hồ Chí Minh đi đến kết luận: “Trong bầu trời khơng gì
q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết
của nhân dân”. Từ đó, Hồ Chí Minh cho rằng cần phải tiến hành Dân vận để
“vận động tất cả các lực lượng của mỗi một người dân khơng để sót một
13


người nào, góp thành lực lượng tồn dân để thực hành những việc nên làm,
những nhiệm vụ được giao”. Dân vận theo quan niệm của Hồ Chí Minh. Hồ
Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa rất rõ ràng, cụ thể về công tác dân vận của
Đảng. Định nghĩa trên của Hồ Chí Minh gồm hai vấn đề chính của công tác
dân vận, phải hiểu sâu sắc từng vấn đề mới nhận thức đầy đủ, thấu đáo quan
điểm dân vận trong tư tưởng của Người. Trước hết, theo Hồ Chí Minh dân
vận là “vận động tất cả các lực lượng của mỗi người dân, khơng để sót lại một
người dân nào”. Đây chính là một cơng việc khơng dễ dàng, không đơn giản
chút nào, nhưng lại là vấn đề cốt lõi trong công tác dân vận. Nếu không vận
động, không tập hợp được hết thảy mọi người dân thuộc mọi tầng lớp xã hội
tham gia cách mạng, thực chất là chúng ta chưa làm được và chưa làm tốt
công tác dân vận theo tư tưởng của Hồ Chí Minh. Bởi tư tưởng nhất quan
xuyên suốt của Người là tập trung sức xây dựng lực lượng cho cách mạng,
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc – một trong những nhân tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Người từng khẳng định “lực lượng của
dân rất to, việc dân rất quan trọng”. Thứ hai, trong định nghĩa về dân vận
chúng ta cịn thấy cơng tác dân vận bao giờ cũng gắn với một nhiệm vụ chính
trị của từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Kết quả của công tác dân vận
là tạo được phong trào hành động cách mạng của quần chúng sôi nổi, rộng
khắp nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế xã hội, an ninh quốc
phịng, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và các đồn thể vững mạnh.
Do đó, trong cơng tác dân vận vai trị của các tổ chức chính trị xã hội khơng

chỉ có động viên, giáo dục, khích lệ mà quan trọng hơn là phải đáp ứng cho
được lợi ích thiết thực của đồn viên, hội viên, những gì “ích nước lợi nhà”
đều là những cơng việc mà các đoàn thể phải quan tâm và dồn sức chăm lo”.
Như vậy, Công tác dân vận được xem là công việc (hay cịn gọi là
nhiệm vụ chính trị) của các tổ chức đảng, Nhà nước và các đồn thể chính trị xã hội cần phải làm tròn trước Đảng và nhân dân nhằm tun truyền, giải
thích, động viên làm cho đơng đảo nhân dân ủng hộ hoặc tự nguyện làm theo
14


những cơng việc mang lại lợi ích chung. Quan điểm của Hồ Chí Minh trong
cơng tác dân vận là “khơng để sót một người dân nào” vì mỗi người dân, mỗi
tầng lớp xã hội đều giữ một vai trò quan trọng trong công cuộc cách mạng.
Công tác dân vận trong thời kỳ đổi mới và hội nhập hiện nay là công tác
tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục mọi người dân thực hiện các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đáp ứng
yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
Xuất phát từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tình hình thực tiễn
của đất nước cùng với một cảm quan chính trị nhạy bén, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đưa ra định nghĩa về công tác dân vận rất đầy đủ và ý nghĩa, trong đó
đã thể hiện rất rõ quan điểm của Người, thể hiện rõ tính đúng đắn với công tác
dân vận trong suốt thời kỳ thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc và vẫn phù
hợp với điều kiện của đất nước ta hiện nay.
1.1.1.2. Mục đích của cơng tác dân vận
Bằng những lời văn ngắn gọn, giản dị, dễ hiểu Hồ Chí Minh đã giúp
cho người đọc có cái nhìn tổng qt nhất về khái niệm “dân vận”. Trên cơ sở
đó Người tiếp tục đưa ra những lý giải về sự cần thiết phải tiến hành cơng tác
dân vận.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chính quyền từ xã đến chính phủ Trung ương
do dân cử ra. Đoàn thể Trung Ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại,
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [29, tr. 689]. Khơng có dân, Đảng,

Chính phủ khơng có lực lượng, khơng có sức mạnh. Do đó phải làm tốt cơng
tác vận động quần chúng, “góp thành lực lượng tồn dân, để thực hành
những cơng việc nên làm, những cơng việc chính phủ và đồn thể đã giao
cho” [15, tr.689].
Vị trí, vai trị của quần chúng nhân dân rất to lớn nhưng năng lực làm
chủ còn nhiều hạn chế do đó chưa phát huy được sức mạnh vốn có của nó. Vì
vậy, Đảng, Chính phủ và cán bộ đảng viên cần phải tiến hành công tác dân
vận để bồi dưỡng năng lực làm chủ cho nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: Ở
15


nơi nào mà vấn đề đặt ra là phải cải tạo hồn tồn tổ chức của xã hội, thì bản
thân quần chúng phải tự mình tham gia vào cơng cuộc cải tạo ấy, phải tự mình
hiểu rõ đó là vấn đề gì, vì sao mình phải tham gia vào cơng cuộc cải tạo ấy
với cả thể xác lẫn sinh mệnh của mình. Đó là điều mà lịch sử trong 50 năm
gần đây đã dạy cho chúng ta. Nhưng muốn cho quần chúng hiểu rõ là phải
làm gì thì cần phải tiến hành công tác dân vận lâu dài và kiên nhẫn. Như vậy
sự cần thiết phải tiến hành công tác dân vận theo Hồ Chí Minh được xuất phát
từ chủ trương xây dựng một nền dân chủ qua đó khẳng định vai trò to lớn của
nhân dân đối với sự nghiệp phát triển đất nước.
Người đã chỉ ra rằng: “Vấn đề Dân vận nói đã nhiều, bàn đã kỹ nhưng
vì nhiều địa phương, nhiều cán bộ chưa hiểu thấu, làm chưa đúng, cho nên
cần phải nhắc lại”. Một bộ phận cán bộ đảng viên trong đó có cán bộ làm
cơng tác dân vận chưa hoàn thành nhiệm vụ của Đảng và nhà nước giao phó,
mà cịn tỏ thái độ quan liêu, nhũng nhiễu, gây khó dễ cho nhân dân. Điều này
đã ảnh hưởng không nhỏ tới niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp cách mạng
của Đảng.
Xuất phát từ tính cấp bách của công tác dân vận, Đảng ta đã có rất
nhiều Nghị quyết, Chỉ thị nhằm góp phần nâng cao vai trò của quần chúng
nhân dân, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Tuy nhiên, việc

thể chế hóa các chủ trương này vào trong thực tiễn cuộc sống cịn khá hạn
chế. Do đó, mối quan hệ Đảng và nhân dân vẫn trong tình trạng có “vấn đề”
và cần được chú trọng giải quyết hơn nữa. Nếu thực trạng này khơng được
nhanh chóng khắc phục thì nguy cơ Đảng xa dân, dân xa Đảng ngày càng
trầm trọng hơn. Từ đó nguy cơ làm giảm sút năng lực cầm quyền, thậm chí
dẫn đến sự tan rã của tổ chức Đảng rất có thể sẽ xảy ra trong tương lai. Bài
học xương máu này được rút ra từ sự sụp đổ của Đảng cộng sản Liên Xô và
nhiều Đảng cầm quyền ở Đông Âu cuối những năm 80 đầu những năm 90 của
thế kỷ XX. Như vậy, xuất phát từ chính thực trạng của cơng tác dân vận của
Đảng, nhà nước và các tổ chức trong các chặng đường phát triển Hồ Chí
16


Minh cho rằng công tác dân vận ở nước ta cần phải được tiến hành thường
xuyên, liên tục trên con đường phát triển của đất nước.
Vai trò của nhân dân và một số hạn chế trong công tác dân vận của
Đảng ta trong thời gian vừa qua là hai nguyên nhân cơ bản mà Hồ Chí Minh
đưa ra để lý giải cho câu hỏi “Vì sao phải tiến hành cơng tác dân vận?”. Dùng
những ngôn từ đơn giản nhưng hàm chứa những lý lẽ sắc bén Hồ Chí Minh đã
tiếp tục đưa ra luận điểm quan trọng về nội dung và cách thức tiến hành công
tác dân vận. Đây là cơ sở quan trọng cho việc hình thành hệ thống các quan
điểm của Đảng ta, nhà nước và các tổ chức về công tác dân vận trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.1.1.3. Đối tượng của công tác dân vận
Lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu
tranh dựng nước và giữ nước. “Dân ta có một lịng nồng nàn yêu nước. Đó là
một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ,
to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán
nước và cướp nước”[30, tr. 171]. Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập

bị thực dân Pháp xâm lược trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Trong
suốt thời kỳ bị áp bức, bóc lột bởi thực dân Pháp và tay sai, nhân dân ta không
ngừng nổi dậy “chống cả triều lẫn Tây”nhưng đều thất bại. Đất nước chìm
trong đêm tối như khơng có đường ra. Đối với người dân mất nước thì mong
muốn, khao khát lớn nhất của họ là đất nước độc lập, người dân được tự do.
Khát khao lớn nhất của Người là :“Tơi chỉ có một điều ham muốn là làm cho
Tổ quốc tôi được độc lập, thống nhất, dân chủ”.
Một mặt, Người kế thừa, đúc rút những bài học sâu sắc của cha ơng
trong q trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong đó có nhấn mạnh đến tầm
quan trọng đặc biệt của nhân dân trong công cuộc ấy “Đẩy thuyền cũng là
dân, lật thuyền cũng là dân” và quan niệm rằng: “Khoan thư sức dân để làm
kế sâu gốc, bền rễ, đó là thượng sách giữ nước”. Tức là phải chăm lo cho dân,
17


dân có giàu thì nước mới mạnh, nước mạnh thì mới giữ được nước. Mặt khác,
Người thấm nhuần quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân ngay từ những ngày đầu dấn thân vào sự nghiệp cách mạng: nhân dân là
người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và những giá trị tinh thần - nhân tố
quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội. Nhân dân là lực lượng cơ bản của
mọi cuộc cách mạng xã hội. Từ đó, Người đi đến kết luận đối tượng của cơng
tác dân vận chính là tồn thể nhân dân như một lẽ rất tự nhiên bởi:
Người thấy được tầm quan trọng, vị trí của nhân dân: “...Trong bầu
trời khơng gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực
lượng đồn kết của nhân dân”[32, tr.276]. Hoặc “Ở trong xã hội muốn thành
cơng phải có ba điều kiện là thiên thời, địa lợi và nhân hịa. Nhưng thiên thời
khơng quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi khơng quan trọng bằng nhân hịa.
Nhân hịa là quan trọng hơn hết” và ''lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại
hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó'' [28, tr.20 - 152.]. Người
ln đánh giá rất cao vai trị của nhân dân và chính sức mạnh của toàn dân vũ

trang là một ưu thế tuyệt đối để đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Toàn dân
đứng dậy sẽ tạo ra sức mạnh vô cùng, không vũ khí nào chống lại nổi. Chính
bởi vậy mà quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử và họ rõ ràng là
người quyết định thắng lợi của mọi cuộc chiến tranh cách mạng. Vấn đề quan
trọng hàng đầu là phải xây dựng cơ sở chính trị trong nhân dân “phải dựa vào
dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được”. Trong cuốn
Đường Kách mạng, xuất bản năm 1927, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “cách mạng là việc chung chứ không phải việc của một hai người”.
Nghĩa là, việc chung thì mọi người phải cùng làm, muốn mọi người cùng làm
thì phải vận động họ tham gia. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ II của Đảng (2/1951), Hồ Chủ Tịch đã khẳng định “chúng ta
tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc”. Từ đó,
Người tiếp tục khẳng định sự nghiệp cách mạng là của quần chúng nhân dân.
Bởi theo Người “ có dân là có tất cả” “khó trăm lần khơng dân cũng chịu, khó
18


vạn lần dân liệu cũng xong”. Chính vì vậy, “chúng ta phải dùng tinh thần
hăng hái của toàn dân để tìm cách giải quyết sự yếu kém vật chất”.
Quần chúng là lực lượng đơng đảo, có sức mạnh to lớn là động lực chủ
yếu để đưa cách mạng đến thành công. “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc
thành một bức tường đồng xung quanh tổ quốc, dù địch hung tàn, xảo quyệt
đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng sẽ phải thất bại”, “khơng
qn đội nào, khơng khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hi sinh của
toàn thể một dân tộc” [27, tr. 77]. Do đó, ''Nước lấy dân làm gốc...Gốc có
vững cây mới bền... Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân''[ 29, tr.409-410.]
Quần chúng nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là bí quyết
thắng lợi của mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta. Ngay từ năm 1923, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Xã hội bây giờ ngày một
phát triển. Tư tưởng hành động cũng phát triển. Nếu cứ giữ lấy cái kẹp giấy

cũ không thay đổi là không đi đến đâu cả”. Người suy nghĩ “về một kế hoạch
sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo để xây dựng lại đất nước đẹp đẽ, đàng hoàng hơn
trước chiến tranh”. Người chỉ rõ “thắng đế quốc phong kiến là tương đối dễ;
thắng bần cùng và lạc hậu cịn khó hơn nhiều”. Cách mạng xã hội chủ nghĩa
là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng
một xã hội hồn tồn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Phải
tạo lập một lực lượng sản xuất hiện đại và cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ
giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh
coi “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái
mới mẻ, tốt tươi là cuộc chiến đấu khổng lồ”. Hư hỏng ở đây không đơn giản
chỉ là vật chất mà nguy hại hơn là con người, tư tưởng, tổ chức. Người lường
trước những khó khăn, phức tạp cho cách mạng Việt Nam, đòi hỏi Đảng đoàn
kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, vượt qua khó khăn, chiến đấu với niềm tin nhất
định thắng lợi. Thực hiện thành cơng sự nghiệp đó hay khơng chính là do
nhân dân quyết định vì “cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới”, và “công
việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”.
19


Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt niềm tin tuyệt đối vào nhân dân. Người không
chỉ tin tưởng vào sức mạnh phi thường của nhân dân mà còn tin tưởng vào cả
tấm lịng u nước, ý chí, quyết tâm, lịng dũng cảm và sự trung thành tuyệt đối
vào Đảng của nhân dân. Người khẳng định: “nhân dân ta rất anh dũng, dũng
cảm, hăng hái cần cù. Từ ngày có Đảng nhân dân ta luôn đi theo Đảng, rất trung
thành với Đảng... Dù khó khăn mấy nhân dân ta nhất định thắng lợi…”. Ngay cả
khi cách mạng đang ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” Người vẫn một lịng
tin tưởng vào nhân dân. Người cho rằng “có dân sẽ có tất cả”, “có dân việc gì
cũng làm được” và Người thường xuyên động viên nhắc nhở: “chúng ta phải ghi
tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc khó khăn mấy họ
cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng khơng sợ”. Từ đó, Người cho rằng, “ phải

liên lạc mật thiết với dân chúng. Không được xa rời dân chúng. Rời xa dân
chúng là cơ độc. Cơ độc thì nhất định bị thất bại”[29, tr.238]. Vì vậy, “biết làm
cho dân tin, dân phục, dân yêu thì việc gì cũng mỹ mãn” [ 29, tr.699].
Như vậy, Hồ Chí Minh đã kế thừa những luận điểm tích cực trong tư
tưởng của các bậc tiền bối (đặc biệt là tư tưởng “trọng dân” của Phan Bội
Châu), đồng thời cũng đã có sự sáng tạo trong suy nghĩ để phù hợp với hoàn
cảnh của đất nước. Khác với một số nhà cách mạng đi trước ở trong nước và
nước ngồi Hồ Chí Minh đã nhận thấy tiềm năng, sức mạnh to lớn của đông
đảo các tầng lớp quần chúng nhân dân, từ đó nêu cao tinh thần tập hợp tất cả
họ vào công cuộc đấu tranh cách mạng, giải phóng chính bản thân mình. Sự
khác biệt giữa tư tưởng cơng tác dân vận của Hồ Chí Minh với nhiều nhà yêu
nước thời kỳ trước xuất phát từ hoàn cảnh dân tộc, kinh nghiệm rút ra từ hoạt
động tìm hiểu cơng tác dân vận ở nhiều quốc gia. Chính sự khác biệt này đã
tạo nên nét độc đáo và thành công trong công cuộc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về cơng tác dân vận vào cơng cuộc cách mạng của Việt Nam.
1.1.1.4. Phương thức tiến hành công tác dân vận
Khơng chỉ giúp cho người đọc có cái nhìn tổng quát về khái niệm thế
nào là “dân vận”, lý giải một cách đơn giản nhất về vai trò của công tác dân
20


vận trong tiến trình phát triển đất nước, mà Hồ Chí Minh lại tiếp tục đưa ra
nhiều lập luận chặt chẽ, lý lẽ sắc bén để trả lời cho câu hỏi: “Cơng tác dân
vận phải làm những gì?” và “Cơng tác dân vận phải làm bằng cách nào?”
Với những lý lẽ về khái niệm “nhân dân” và vai trò của họ, Hồ Chí
Minh nhận định rằng: “quần chúng khơng nhất luật như nhau”, trong dân
chúng có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý thức khác nhau, ý
kiến khác nhau, có lớp tiền tiến, có lớp lừng chừng, có lớp lạc hậu, nên Người
đã đưa ra những nhận định đầu tiên cho công tác dân vận: “Người lãnh đạo
phải dùng hạng hăng hái trung kiên cho sự lãnh đạo, do trung kiên đó mà kéo

hạng vừa vừa và hạng kém lên”[29, tr.289-290]. Hồ Chí Minh khẳng định làm
cơng tác dân vận trước hết cần phải lựa chọn và sử dụng phương pháp cụ thể
cho từng đối tượng quần chúng nhân dân. Chỉ như vậy mới có thể khai thác
được hết tiềm năng và sức mạnh của họ. Từ đó, Hồ Chí Minh khẳng định
cơng tác dân vận phải được tiến hành theo từng bước:
Một là, thực hiện quy trình bốn điểm về dân vận và cơng tác dân vận:
giải thích cho dân hiểu, bàn với dân, tổ chức để dân thi hành, cùng dân kiểm
thảo lại công việc; phải thực hành dân chủ.
Theo Người, công tác dân vận “Trước nhất là phải tìm mọi cách giải
thích cho mỗi một người dân hiểu rõ rằng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm
vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được” [29, tr.689]. Công tác dân vận
phải bắt đầu bằng việc giải thích cho nhân dân hiểu được rằng việc đó là cần
thiết, là có lợi cho họ. Nếu chỉ có sách vở, chỉ thị…thì dân vận khó có thể đi
vào thực tiễn, điều này đồng nghĩa với việc Đảng và nhà nước ta không bao
giờ có thể phát huy hết được sức mạnh to lớn từ nhân dân.
Người đã căn vặn cán bộ đảng viên: “… phải ghi tạc vào đầu cái chân
lý: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy
sinh mấy họ cũng không sợ. Nhưng trước hết phải chịu khó tìm cách giải
thích cho họ hiểu rằng: những việc gì đó là vì lợi ích của họ mà phải làm”[29,
tr.246]. Phải làm cho dân hiểu được rằng: “Bao nhiêu cách tổ chức và cách
21


làm việc đều vì lợi ích của quần chúng, vì cần cho quần chúng”. Chỉ khi nào
cách mạng xuất phát từ lợi ích của nhân dân thì cách mạng mới có hiệu quả,
bởi “Kinh nghiệm của Đảng ta trong quá trình cách mạng đã chỉ rõ là nơi nào,
lúc nào cán bộ ta giải quyết tốt lợi ích thiết thân của nơng dân, nắm vững liên
minh cơng nơng, thì nơi đó, lúc đó cách mạng đều tiến mạnh” [29, tr.239]
Cơng tác dân vận không chỉ dừng lại ở việc làm cho dân nghe, dân
hiểu mà phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân. Khi dân đã được biết,

được hiểu thì phải tạo điều kiện cho dân được bàn bạc thực sự, bàn tất cả mọi
vấn đề và mọi người đều được tham gia bàn bạc: “Bất cứ việc gì đều phải bàn
bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt ra kế hoạch
cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương” [29, tr.698-699]. Người nhấn mạnh:
“mỗi khẩu hiệu, mỗi cơng tác, mỗi chính sách của chúng ta, phải dựa vào ý
kiến và kinh nghiệm của dân chúng, phải nghe theo nguyên vọng của dân
chúng” [29, tr.293]. Người làm công tác dân vận phải giữ vững nguyên tắc:
“1.Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân
chúng. 2. Tin vào dân chúng. Đưa mỗi vấn đề cho dân chúng thảo luận và giải
quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng.
Nghị quyết gì mà dân chúng cho là khơng hợp thì để họ đề nghị sửa chữa.
Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”[29,
tr.297]. Bởi lẽ, người dân muốn thể hiện nguyện vọng của mình, muốn được
tơn trọng, được bày tỏ ý kiến. Họ rất tốt, rất khôn khéo, họ biết rất nhiều điều
mà chúng ta không biết. Hơn nữa: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải
được tự do… Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình,
góp phần tìm ra chân lý” và từ đó họ “tự do phục tùng chân lý”[32, tr.216].
Phải chăng năng suất, chất lượng, hiệu quả của mọi cơng việc đều có nguồn
gốc từ đây bởi ở đây, nhân dân đã phát huy được quyền dân chủ bằng năng
lực và sức sáng tạo của mình. Xuất phát từ những hiểu biết sâu sắc về nhân
dân, Hồ Chí Minh khẳng định: lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhân dân
nhưng “chúng ta tuyệt đối không theo đuôi quần chúng”[29, tr.289]. Người
22


chỉ ra rằng: “Tơn trọng có nhiều cách khơng phải ở chỗ chào hỏi kính thưa có
lễ phép mà đủ. Khơng được phung phí vật lực của dân. Khi huy động nên vừa
phải, khơng nên nhiều q lãng phí vơ ích. Phải khơn khéo tránh điều gì có
hại cho đời sống nhân dân. Biết giúp đỡ nhân dân cũng là biết trọng dân”.
Người làm công tác dân vận phải giữ mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân, làm

việc gì cũng phải giữ nguyên tắc bàn bạc cùng dân và quan trọng là để giải
thích cho dân hiểu, để qua đó khơi dậy tinh thần dân chủ và sự hăng hái ở họ.
Phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
“Khi thi hành xong phải cùng với nhân dân kiểm thảo lại cơng việc, rút
kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng” [29, tr.699]. Đây là công đoạn cuối
cùng của quy trình tiến hành thực hiện dân chủ của mỗi tổ chức, đơn vị, địa
phương, cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng việc kiểm tra, rút kinh nghiệm
là vô cùng quan trọng và cần thiết giúp chúng ta thực hiện tốt những nhiệm vụ
khác. Dân kiểm tra cán bộ, cán bộ kiểm tra dân, dân và cán bộ cùng kiểm tra
mọi hoạt động và lề lối làm việc sao cho dân chủ, cấp trên phải thường xuyên
kiểm tra cấp dưới, cấp dưới phải phê bình cấp trên, nhất là phê bình từ dưới
lên. Kiểm tra chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện một cách nghiêm túc, được
đánh giá một cách khách quan, được tiến hành bằng những giải pháp khéo
léo, tinh tế mà Người gọi là “phải kín đáo”. Thanh tra chỉ có hiệu lực nếu
được tiến hành một cách đột xuất và bất ngờ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm
kiểu mẫu cho phương pháp kiểm tra, thanh tra khoa học và có hiệu quả ấy.
Đồng thời với mong muốn của Chính phủ: “đồng bào giúp đỡ, đơn đốc, kiểm
sốt và phê bình để cán bộ làm tròn nhiệm vụ… người đầy tớ trung thành, tận
tụy của nhân dân” [31, tr.361-362.] Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên kêu
gọi nhân dân giám sát công việc của Chính phủ từ Trung ương. Bằng tình cảm
chân thành nhất, Người nói: “Từ ngày thành lập Chính phủ, trong nhân viên
có nhiều khuyết điểm. Có người làm quan cách mạng, chợ đỏ, chợ đen, khinh
dân, mưu vinh thân, phì gia… Xin đồng bào hãy phê bình giúp đỡ giám sát
cơng việc Chính phủ” [29, tr.61].
23


Người dạy rằng “Cơng việc gì bất kỳ thành cơng hoặc thất bại, chúng
ta phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi mới kết luận. Kết
luận đó sẽ là cái chìa khóa để phát triển cơng việc và để giúp cho cán bộ tiến

tới”[29, tr.243]. Do đó, cần phải thực hành dân chủ, dựa vào quần chúng, đi
đường lối quần chúng “có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra
sáng kiến” [29,tr. 244] và “có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động
viên tổ chức tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên”[33,
tr.592]. Như vậy, thực hành và đề cao dân chủ cũng là đề cao, tơn trọng
nhân dân “Thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi
khó khăn” [36, tr.249]
Hai là, cán bộ và đảng viên phải tự mình làm gương cho quần chúng.
Trong bài nói chuyện tại lễ bế mạc Hội nghị cán bộ của Đảng lần thứ
VI, ngày 18-1-1949. Bác khuyên cán bộ đảng viên chúng ta phải là những tấm
gương sáng cho quần chúng noi theo; trong bất luận trường hợp nào, ở đâu,
trong chiến đấu, lao động, học tập cũng như chuyện sinh hoạt hàng ngày,
đảng viên nếu thật sự gương mẫu, mẫu mực, luôn học tập, rèn luyện về tư
tưởng, chính trị và đạo đức lối sống, nâng cao tính tự giác chấp hành mọi quy
định của Đảng và pháp luật của Nhà nước; được vậy, đảng viên sẽ là người
“đi trước làng nước (mới) theo sau”. Cho nên phát huy cao độ vai trò tiền
phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên về ý thức tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, thường xuyên tự học nâng
cao trình độ chính trị, chun mơn, nghiệp vụ và sáng tạo trong các hoạt động
để cho quần chúng noi theo. Bác nhấn mạnh với người làm cơng tác dân vận
“mình phải là mực thước cho người ta noi theo”.
Bác khẳng định: “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách,
đạo đức…, chứ không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ
yêu mến” cho nên cán bộ, đảng viên phải tự mình làm gương cho quần chúng.
Chính vì vậy, ngay từ những ngày đầu thành lập Đảng, Bác đã chú ý vai trò
tiên phong, gương mẫu của người đảng viên, bởi lẽ theo Người: “Mỗi đảng
24



×