Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.86 KB, 4 trang )
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam
Trong yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị quốc tế Vác Xây năm 1919,
Hồ Chí Minh đã đòi phải cải cách nền pháp lý ở Đông Dương, thay thế chế độ
cai trị bằng sắc lệnh (hiện thân của nhà nước không dân chủ) bằng chế độ cai
trị theo luật, người bản xứ cũng có quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp
luật như người Âu, xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt. Trong bức thư 8 điểm
gửi hội nghị Vác Xây năm 1919, Hồ Chí Minh đã thể hiện tử tưởng nhà nước
pháp quyền của mình trong câu thơ:
Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền
Trong tuyên ngôn độc lập của nướ Việt Nam Dân Chủ cộng hoà năm 1945, Hồ
Chí Minh đã trích tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1976 “Tất cả mọi người
sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền mà không ai có thể
xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc”
Không dừng lại ở đó Người đã nâng quyền con người lên thành quyền dân tộc.
Người nói:
“Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là, tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có
quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do. Trong điều 7 Hiến pháp 1946 do Hồ Chí Minh soạn thảo quy định “Tất cả
công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền
và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình” “Pháp luật của ta
là bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người, vì vậy không chỉ nhân dân mà các cơ
quan nhà nước cũng phải tuân thủ pháp luật, tôn trọng tính tôi cao của pháp luạt và
phải trừng trị nghiêm khắc những kẻ phạm tội”
Mặc dù coi trọng pháp luật nhưng Hồ Chí Minh không cho rằng pháp luật là độc
tôn trong xã hội. Người nó rằng “nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp cũng như mọi vấn
đề khác trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người, ở đời và làm người là phải