Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

(Luận văn thạc sĩ) vai trò của nông dân tỉnh thái bình trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN VĂN LONG

Vai trß của việc giảng dạy các môn lý luận chính trị
đối với việc hình thành thế giới quan khoa học
cho sinh viên cao đẳng s- phạm nam định

LUN VN THC S TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN VĂN LONG

Vai trß của việc giảng dạy các môn lý luận chính trị
đối với việc hình thành thế giới quan khoa học
cho sinh viên cao đẳng s- phạm nam định

Chuyờn ngnh: TRIT HC
Mó số: 60 22 80

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. DƢƠNG MINH ĐỨC

HÀ NỘI - 2010



LỜI CAM ĐOAM

Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên
cứu của tơi dưới sự hướng dẫn của TS. Dương Minh Đức.
Các số liệu, tài liệu trong luận văn đều trung thực,
đảm bảo tính khách quan, khoa học và có nguồn gốc xuất
xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày 26 tháng 8 năm 2010.
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Long


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu .................................................................................................

1

Chƣơng 1: GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
VỚI Q TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THẾ GIỚI
QUAN KHOA HỌC CHO SINH VIÊN ...........................................

8

1.1 Vai trò của thế giới quan khoa học đối với con ngƣời nói
chung và sinh viên CĐSP nói riêng ..................................................
1.1.1 Vai trị của thế giới quan khoa học đối với sự phát triển con
người .....................................................................................................

1.1.1.1 Thế giới quan khoa học ............................................................
1.1.1.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành thế giới quan
khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định hiện nay ..............................
1.1.2 Vai trò của thế giới quan khoa học đối với sinh viên CĐSP
Nam Định ..............................................................................................
1.1.2.1 Sinh viên - một bộ phận quan trọng trong thanh niên ..............

8
8
8
14
28
28

1.1.2.2 Vai trò của thế giới quan khoa học đối với sinh viên CĐSP
Nam Định .............................................................................................

30

1.2 Tầm quan trọng của việc giảng dạy các mơn Lý luận chính trị
với q trình hình thành và phát triển thế giới quan khoa học
cho sinh viên CĐSP Nam Định ..........................................................

38

1.2.1 Giáo dục thế giới quan khoa học là mục tiêu quan trọng nhất
của các môn Lý luận chính trị ...............................................................

38


1.2.2 Nhiệm vụ của các mơn Lý luận chính trị ...................................

41

Chƣơng 2: GIẢNG DẠY CÁC MƠN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
VỚI VIỆC HÌNH THÀNH THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
CHO SINH VIÊN CĐSP NAM ĐỊNH - THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ...............................................................

50

2.1 Tình hình giảng dạy các mơn Lý luận chính trị ở CĐSP Nam
Định hiện nay ......................................................................................

50

2.1.1 Sinh viên - đối tượng của quá trình giáo dục thế giới quan .........

50

2.1.2 Giảng viên - chủ thể của quá trình giáo dục thế giới quan ..........

55

2.2 Những vấn đề đặt ra trong việc giảng dạy các môn lý luận
chính trị ở CĐSP Nam Định hiện nay ...............................................

62



2.2.1 Khảo sát nội dung chương trình, những điều kiện dạy học .........

62

2.2.2 Thực nghiệm dạy học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin cho sinh viên CĐSP Nam Định ..............................

65

2.2.3 Những vấn đề đặt ra .....................................................................

68

Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIÁO
DỤC THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC CHO SINH VIÊN CĐSP
NAM ĐỊNH .........................................................................................

74

3.1 Phƣơng hƣớng

74

3.1.1 Việc giáo dục thế giới quan phải đặt trong q trình giáo dục và
đào tạo tồn diện nhân cách sinh viên .................................................

74

3.1.2 Giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên phải gắn với các
môn khoa học chuyên ngành ................................................................


78

3.2 Giải pháp ......................................................................................

82

3.2.1 Đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực
của sinh viên .........................................................................................

82

3.2.2 Gắn lý luận với thực tiễn, đặc biệt là thực tiễn tỉnh Nam Định ...

87

3.3.3 Xây dựng đội ngũ giảng viên có đủ năng lực, phẩm chất chính
trị vững vàng đảm bảo tốt công tác giảng dạy ......................................

90

3.3.4. Nâng cao khả năng tự giáo dục của sinh viên ........................

95

3.3.5. Từng bước hoàn thiện điều kiện dạy học ....................................

98

Kết luận ................................................................................................


101

Danh mục tài liệu tham khảo .............................................................

103

Phụ lục .................................................................................................

107


BẢNG QUY ƢỚC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CĐSP

: Cao đẳng sư phạm

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

TBCN

: Tư bản chủ nghĩa

Nxb


: Nhà xuất bản

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định:
"Đối với thế hệ trẻ chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển tồn diện
về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải
quyết việc làm, phát triển tài năng, sức sáng tạo, phát huy vai trị xung kích
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"[7, tr.126]. Đến Đại hội X Đảng
ta đã khẳng định: "Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh" [11, tr.70]. Trên tinh thần đó cách mạng của dân tộc ta đang
bước vào giai đoạn mới, giai đoạn thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN. Trong bối cảnh lịch sử
mới, hơn lúc nào hết Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: Sự nghiệp cách mạng
của Đảng và nhân dân ta đòi hỏi phải phát huy hơn nữa sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, đặc biệt là sứ mệnh của thế hệ trẻ. Đại hội X Đảng ta
còn chỉ rõ:"Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam,
bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ cơng nghiệp hố,
hiện đại hố, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong
thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí
tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam" [11, tr.106].
Trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN,
công tác tư tưởng, lý luận được Đảng ta đặc biệt quan tâm và coi trọng, nhất

là việc giáo dục thế giới quan khoa học đối với thế hệ trẻ nói chung và sinh
viên nói riêng nhất là sinh viên sư phạm – những thầy giáo, cơ giáo tương lai những người lao động có trình độ cao, đây là nguồn nhân lực quan trọng của
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN. Vì vậy, sự
phát triển bền vững của đất nước theo định hướng XHCN đòi hỏi khách quan
1


phải trang bị cho họ thế giới quan khoa học, những kiến thức về mục tiêu, con
đường đi lên CNXH của dân tộc ta. Chính vì thế, giáo dục thế giới quan khoa
học cho sinh viên sư phạm hiện nay vừa là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn cấp thiết. Bởi vì, Trước sự biến đổi phức tạp của tình hình kinh tế,
chính trị trên thế giới; trước chiến lược diễn biến hịa bình của chủ nghĩa đế
quốc, các thế lực thù địch chống phá CNXH, đặc biệt là trên lĩnh vực tư
tưởng, đối tượng chúng hướng tới là thế hệ trẻ, nhằm làm cho hệ tư tưởng tư
sản chiếm vị trí thống trị trong xã hội. Hơn nữa, do ảnh hưởng của mặt trái cơ
chế thị trường đang hình thành lối sống thực dụng trong một bộ phận sinh
viên. Trong cơ chế thị trường xuất hiện sự may rủi làm nảy sinh tư tưởng cầu
may dễ dẫn đến thế giới quan tôn giáo, duy tâm. Thực tế là một bộ phận
không nhỏ trong sinh viên cịn tình trạng suy thối đạo đức, sống thiếu hồi
bão lập thân, lập nghiệp, phai mờ về lý tưởng XHCN và đây là một bộ phận
dễ bị các thế lực phản động lơi kéo. Đó là một trong những vấn đề bức xúc
nhất hiện nay của giáo dục, như Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 (Khóa IX) đã chỉ
ra:"Vấn đề bức xúc nhất trong giáo dục nước ta hiện nay là chất lượng giáo
dục toàn diện, trước hết là chất lượng giáo dục chính trị, lý tưởng, đạo đức, lối
sống, đặc biệt ở bậc đại học, cao đẳng" [9, tr.40-41]. Tình hình giáo dục thế
giới quan khoa học trong trường CĐSP Nam Định khơng nằm ngồi cái
chung đó. Bên cạnh đó việc tích hợp ba mơn (triết học Mác – Lênin, kinh tế
chính trị Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học) thành một môn (những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin) đã có những khó khăn nhất định
cho người dạy và người học (giảng viên trước đây thường chỉ dạy một môn

giờ phải dạy tất cả, chương trình thì mới, nên địi hỏi phải có một phơng kiến
thức rộng, phải truyền thụ hết nội dung chương trình mà thời gian thì rút ngắn
lại. Đối với sinh viên, địi hỏi có những vấn đề phải tự nghiên cứu, mà có
những vấn đề mới rất khó). Vì những lẽ trên đây, tơi chọn đề tài: "Vai trò của
2


việc giảng dạy các mơn Lý luận chính trị đối với việc hình thành thế giới
quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định”
2. Tình hình nghiên cứu
Cơng tác nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục thế giới quan khoa
học ở các trường đại học, cao đẳng đang được nhiều người quan tâm cho nên
trong thời gian gần đây xuất hiện nhiều bài viết xung quanh vấn đề này ở
nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau.
Ở nước ngồi có một số cơng trình tiêu biểu như:
- Ch.L.Xmiếc Cốp, "Những vấn đề cấp bách của việc hình thành thế
giới quan Mác - Lênin". Tạp chí Giáo dục lý luận, 1985, số 3.
- V.I.L Vaxilenco, "Thế giới quan khoa học và những vấn đề lý luận
của việc xây dựng thế giới quan khoa học trong xã hội xã hội chủ nghĩa". Bản
tự lược thuật, Luận án tiến sĩ triết học, 1975.
Ở trong nước có một số cơng trình đáng chú ý như:
- Bùi Ngọc, "Thế giới quan khoa học một tất yếu lịch sử". tạp chí thơng
tin khoa học xã hội, 1981, số 8.
- Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận Mác Lênin ở các trường đại
học hiện nay. Tạp chí Lý luận chính trị, số 7 – 2000.
- Hồ Tấn Phong: "Nên giảng dạy các môn lý luận chủ nghĩa Mác –
Lênin như thế nào", Tạp chí cộng sản, tháng 9 năm 1994.
- Lương Minh Cừ:"Một số ý kiến về cơng tác giáo dục chính trị tư
tưởng cho sinh viên hiện nay". Tạp chí giáo dục số 60 tháng 6 năm 2003.
- Lương Gia Ban: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận và học tập lý

luận". Tạp trí triết học, tháng 1 năm 2004.
- Lê Bình:"Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục chính trị"
Lý luận chính trị số 3 – 2004.

3


- Lê Xuân Vũ, "Thế giới quan Mác Lênin trong đời sống tinh thần của
nhân dân ta ", Tạp chí cộng sản, 1986, số 6.
- Nguyễn Trọng Chuẩn, "Một số khía cạnh về vai trị của sinh học hiện
đại đối với sự hình thành và củng cố thế giới quan khoa học", Tạp chí Triết
học 1988, số 3.
- Trần Trọng Tân: "Góp phần đổi mới cơng tác lý luận cơ bản", NXB
CTQG, HN, 1995.
- Hoàng Thúc Lân, Giảng dạy triết học Mác – Lênin với việc nâng cao
năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên các trường đại học. Luận văn thạc
sĩ triết học, 2003.
- Phạm Đình Đạt, "Vai trị lý luận đối với q trình đổi mới xã hội ở
nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ triết học, 1993.
- Trần Thước, "Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp
trí thức Việt Nam", Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 1993.
- Trần Thanh Hà, "Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ
đảng viên người dân tộc Khơme ở Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn
hiện nay", Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 1993.
- Trần Viết Quân, "Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên hiện nay", Luận văn thạc sĩ triết
học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2002.
Tất cả các cơng trình trên đã có đóng góp to lớn trong việc giáo dục thế

giới quan khoa học cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện
nay. Tuy nhiên đây là vấn đề rộng lớn và phức tạp nó cịn có những khoảng
trống cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Đặc biệt vấn đề vai trò của việc

4


giảng dạy các mơn Lý luận chính trị đối với việc hình thành thế giới quan
khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định hiện nay chưa được nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Nghiên cứu vai trò của thế giới quan khoa học đối với con người nói
chung, sinh viên nói riêng, vai trị của của việc giảng dạy các mơn Lý luận
chính trị với việc hình thành thế giới quan khoa học; chỉ ra thực trạng và quy
trình giảng dạy các mơn Lý luận chính trị cho sinh viên CĐSP Nam Định, từ
đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp giáo dục thế giới quan khoa
học cho sinh viên CĐSP Nam Định trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu vai trò của thế giới quan khoa học đối với con người nói
chung và sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng; luận giải tầm quan trọng của
việc giảng dạy các môn Lý luận chính trị đối với q trình hình thành và phát
triển thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định.
+ Làm rõ thực trạng và quy trình giảng dạy các mơn Lý luận chính trị
để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục thế giới quan khoa học của sinh
viên CĐSP Nam Định.
+ Đề xuất một số phương hướng và giải pháp giáo dục thế giới quan
khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn chỉ nghiên cứu vai trò của việc gỉang dạy các mơn Lý luận

chính trị đối với việc hình thành thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP
Nam Định.
- Phạm vi nghiên cứu:

5


Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vai trò của việc giảng dạy các mơn Lý
luận chính trị (mơn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin) đối
với việc hình thành thế giới quan khoa học cho sinh viên ở trường CĐSP Nam
Định hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
+ Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Các quan điểm
của Đảng ta về giáo dục – đào tạo và giáo dục lý luận Mác – Lênin cho sinh
viên các trường đại học, cao đẳng trong giai đoạn hiện nay.
+ Luận văn tham khảo, kế thừa kết quả của các cơng trình nghiên cứu,
bài viết có liên quan đã được công bố.
- Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận triết học Mác – Lênin, luận văn sử dụng
các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như phương pháp phân tích – tổng hợp,
lịch sử - logic, khái quát hóa – trừu tượng hóa… đồng thời kết hợp với
phương pháp điều tra xã hội học, thống kê, so sánh…
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn nêu lên tầm quan trọng của giảng dạy các mơn Lý luận
chính trị đối với việc giáo dục thế giới quan khoa học, thực trạng và một số
phương hướng, giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng giáo dục thế giới
quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác lý luận

chính trị và giáo dục đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu làm 3 chương 6 tiết.
6


Chương 1: Giảng dạy các mơn lý luận chính trị với quá trình hình thành
và phát triển thế giới quan khoa học cho sinh viên
Chương 2: Giảng dạy các môn lý luận chính trị với việc hình thành thế
giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định - thực trạng và những vấn
đề đặt ra
Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp giáo dục thế giới quan
khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định

7


Chƣơng 1
GIẢNG DẠY CÁC MƠN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VỚI QUÁ TRÌNH
HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
CHO SINH VIÊN
1.1 Vai trò của thế giới quan khoa học đối với con ngƣời nói chung
và sinh viên CĐSP nói riêng
1.1.1 Vai trị của thế giới quan khoa học đối với sự phát triển con
người
1.1.1.1 Thế giới quan khoa học
Thế giới quan xuất hiện từ rất sớm ngay từ thời nguyên thuỷ và cho tới
nay nó có nhiều định nghĩa khác nhau. Song có thể nói, thế giới quan là toàn
bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về vị

trí của con người trong thế giới ấy. Trong thế giới quan, những yếu tố cảm
xúc và trí tuệ, niềm tin và tri thức hồ quyện vào nhau. Rõ ràng, thế giới quan
khơng tự nhiên mà có. Nó được hình thành trên cơ sở hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người. Nó ln được bổ sung,
hồn thiện, phát triển cùng q trình phát triển của thực tiễn xã hội. Do đó,
Thế giới quan có những đặc điểm cơ bản sau:
(1) Thế giới quan phát triển cùng với sự phát triển của con người và xã
hội thơng qua hoạt động của mình.
(2) Thế giới quan ln có mối quan hệ con người với thế giới. Sự hiểu
biết đúng đắn mối quan hệ đó sẽ định hướng và chỉ đạo hoạt động của con
người phù hợp với hiện thực luôn luôn vận động và phát triển nhằm thoả mãn
ngày càng cao nhu cầu và lợi ích của con người cũng như của xã hội.
(3) Thế giới quan là sản phẩm tinh thần của con người, phản ánh hiện
thực thơng qua nhận thức, nhu cầu, lợi ích của cá nhân, của những tập đoàn
người hay của toàn xã hội.
8


(4) Thế giới quan phụ thuộc vào trình độ nhận thức, nhu cầu, lợi ích
của mỗi cá nhân, mỗi nhóm người, mỗi tập đoàn người và của toàn xã hội. Do
đó, trong mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi xã hội, mỗi dân tộc, mỗi giai cấp có thể
tồn tại nhiều thế giới quan khác nhau.
Thế giới quan có vai trị hết sức quan trọng trong đời sống của mỗi
người, mỗi giai cấp, cộng đồng người và của cả loài người. Nó giúp con
người định hướng đúng trong cuộc sống, xác lập được nhân sinh quan đúng
đắn, tích cực. Trên cơ sở đó, con người xác định đúng thái độ, cách thức hoạt
động và cách sống của riêng mình. Khi xác định đúng được mục tiêu, lý
tưởng, hoài bão, ước mơ con người mới phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng, hồi
bão, ước mơ đó.
Thế giới quan cịn giúp con người định hướng trong hoạt động nhận

thức và hoạt động thực tiễn. Đối với nhận thức, thế giới quan giúp con người
xác định xem con người có khả năng nhận thức thế giới hay khơng. Trên cơ
sở đó, con người mới tin vào sức mạnh nhận thức thế giới của mình hay
khơng, mới có các giải pháp để nhận thức thế giới hiệu quả nhất. Đối với hoạt
động thực tiễn thế giới quan giúp con người tự giác, chủ động xác định tính
hướng đích trong hoạt động thực tiễn. Do vậy, tránh được mị mẫm, tự phát,
chệch hướng, vơ định.
Thế giới quan giúp con người xác định đúng mối quan hệ của bản thân
với người khác trong xã hội. Trên cơ sở đó giúp con người điều chỉnh những
quan hệ qua lại giữa người với nhau và hành vi của bản thân sao cho phù hợp
với mục tiêu chung của xã hội và phù hợp quy luật khách quan của sự phát
triển xã hội.
Thế giới quan là sự thống nhất hữu cơ giữa tri thức, niềm tin, lý trí và
tình cảm.

9


Tri thức là sự hiểu biết sâu sắc của con người về thế giới, là kết quả của
quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn đúng đắn của con người,
là sự phản ánh của thế giới khách quan của con người. Tri thức có nhiều loại
khác nhau, trong đó có tri thức về tự nhiên, về xã hội và về con người. Sự
hình thành và phát triển tri thức là một q trình, thơng qua tồn bộ hoạt động
sống của con người. Tri thức có thể được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Tuy nhiên, bản thân tri thức chưa trở thành thế giới quan. Tri thức chỉ
gia nhập vào thế giới quan khoa học khi nó chuyển thành niềm tin khoa học
của con người. Chỉ khi đó thì tri thức mới trở nên bền vững và sâu sắc, mới có
giá trị định hướng cho hoạt động của con người.
Niềm tin là một trạng thái tâm lý, tinh thần đặc biệt được phát triển trên
cơ sở của tri thức. Nó là động lực thúc đẩy khát vọng nhận thức và cải tạo

hiện thực của con người. Niềm tin có thể chia làm hai loại: (1) niềm tin mù
quáng. (2) niềm tin khoa học.
Niềm tin chính là động lực mạnh mẽ, giúp cho mỗi con người có nghị
lực phi thường, có thể vượt qua những giây phút hiểm nguy, giám hy sinh tính
mạng vì mục tiêu lý tưởng mà mình đã theo đuổi.
Thế giới quan thể hiện trí tuệ của con người, thể hiện trình độ tương đối
cao của lý trí, bởi vì lý trí dựa trên cơ sở hiểu biết của con người với tư cách
là một chỉnh thể và sự thống nhất những biểu hiện muôn màu, muôn vẻ trong
hoạt động của con người. Lý trí của con người là sự thống nhất chặt chẽ giữa
niềm tin và tri thức. Lý trí khơng tách rời tình cảm mà gắn bó khăng khít, mật
thiết tình cảm.
Tình cảm là hình thức phản ánh đặc biệt mối quan hệ của con người về
thế giới và quan hệ của con người với nhau, thể hiện thái độ của con người về
những tác động của thế giới đối với bản thân.

10


Vì vậy, tình cảm góp phần củng cố lý trí, làm cho lý trí có thêm sức
mạnh. Như vậy, từng yếu tố đơn lẻ trên không phải là thế giới quan. Thế giới
quan cũng không phải là số cộng giản đơn của các yếu tố đó. Trong thế giới
quan có sự thống nhất hữu cơ, biện chứng giữa tri thức, niềm tin, lý trí và tình
cảm, là sự thể hiện toàn bộ sự hiểu biết và kinh nghiệm sống, hoạt động của
con người.
Thế giới quan sử dụng chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở lý luận của
mình được gọi là thế giới quan Mácxit hay thế giới quan cộng sản chủ nghĩa.
Thế giới quan đó cịn được gọi là thế giới quan khoa học, bởi vì nó phản ánh
đúng đắn những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy con người
dựa trên cơ sở của các thành tựu khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân
văn, đồng thời đã được thực tiễn kiểm nghiệm.

Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thế giới quan cũng phát
triển và đã được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó rõ rệt nhất
đã trải qua ba hình thức sau:
Một là, thế giới quan huyền thoại. Xuất hiện trong buổi bình minh của
lịch sử lồi người. Đó là sự cảm nhận thế giới rất đặc trưng của người nguyên
thuỷ. Nó phản ánh những quan niệm của người nguyên thuỷ về thế giới. Mỗi
dân tộc có những huyền thoại để giải thích về nguồn gốc dân tộc mình; nguồn
gốc của những hiện tượng tự nhiên như trái đất, bầu trời, sấm, sét, mây mưa,
nhật thực, nguyệt thực... Chẳng hạn như thần thoại Hy Lạp; huyền thoại về
Sơn Tinh, Thuỷ Tinh; Lạc Long Quân, Âu Cơ của Việt Nam... Trong thế giới
quan huyền thoại, các yếu tố thực và ảo (tưởng tượng), cảm xúc và trí tuệ, lý
trí và niềm tin, cái người và cái thần hoà quyện vào nhau, chưa phân biệt rõ.
Hai là, thế giới quan tơn giáo. Đó là hình thức phản ánh thế giới khách
quan một cách hư ảo, là sự giải thích thế giới trên cơ sở thừa nhận sự sáng tạo
ra thế giới bởi lực lượng siêu nhiên, thần thánh. Trong thế giới quan tôn giáo,
11


niền tin tơn giáo đóng vai trị chi phối đối với lý trí, cái ảo lấn át cái thực, cái
thần lấn át cái người. Mặc dù vậy, thế giới quan tôn giáo cũng phản ánh khát
vọng của con người muốn được giải phóng khỏi những bất cơng, đau khổ,
muốn vươn tới thế giới hạnh phúc, ấm no. Đồng thời, thế giới quan tơn giáo
cũng phản ánh trình độ phát triển thế giới quan nhất định của con người.
Ba là, thế giới quan triết học. Đó là hình thức phản ánh thế giới quan
bằng hệ thống các khái niệm, nguyên lý, phạm trù, quy luật. Nếu thế giới
quan huyền thoại, yếu tố biểu tượng cảm tính giữ vai trị chi phối; trong thế
giới quan tôn giáo yếu tố niềm tin giữ vai trị chủ đạo, thì trong thế quan triết
học, yếu tố tư duy lý tính đóng vai trị chủ đạo. Thế giới quan triết học đã
chứng minh những quan niệm của mình bằng những lập luận logic, bằng tư
duy logic.

Vấn đề cơ bản của thế giới quan khoa học cũng chính là vấn đề cơ bản
của triết học. Theo Ph.Ăngghen "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc
biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ tư duy với tồn tại". [18, tr.403].
Trên cơ sở cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học mà người ta phân biệt
các hình thức thế giới quan triết học. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt,
mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn:
Mặt thức nhất: Giữa tư duy và tồn tại, cái nào có trước, cái nào có sau,
cái nào quyết định cái nào?
Mặt thức hai: Tư duy của con người có khả năng nhận thức được thế
giới hay không?
Trả lời cho hai câu hỏi này sẽ quyết định tới việc hình thành thế giới
quan triết học cũng như các học thuyết về nhận thức khác nhau. Giải quyết
mặt thức nhất trong vấn đề cơ bản của triết học gắn liền với việc phân định
các trường phái triết học. Có hai trường phái lớn. Những ai cho rằng vật chất,
giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý thức của con người được coi là
12


các nhà duy vật; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ
nghĩa duy vật. Ngược lại, những ai cho rằng, ý thức, tinh thần có trước giới tự
nhiên được gọi là các nhà duy tâm; họ hợp thành các môn phái khác nhau của
chủ nghĩa duy tâm.
Thế giới quan triết học cũng phản ánh tồn tại xã hội. Do vậy, trong xã
hội có giai cấp, thế giới quan triết học cũng mang tính giai cấp. Triết học
được coi là hạt nhân lý luận của thế giới quan, bởi lẽ, thông qua thế giới quan
triết học mà những quan niệm về kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức... được thể
hiện. Hơn nữa, triết học còn đóng vai trị định hướng cho sự củng cố, phát
triển thế giới quan của mỗi cá nhân, cộng đồng trong lịch sử.
Như chúng ta đã rõ, thế giới quan triết học duy vật đã trải qua ba loại
hình lịch sử phát triển của mình:

Một là, thế giới quan triết học thơ sơ, mộc mạc thời kỳ cổ đại. Nó thể
hiện những quan điểm duy vật mộc mạc, chất phát, giản đơn về thế giới.
Những quan niệm này chưa được khái quát, thể hiện thông qua hệ thống khái
niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật. Tuy còn rất nhiều hạn chế nhưng về cơ
bản là đúng vì nó lấy giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên, khơng viện đến
Thần linh hay Thượng đế.
Hai là, thế giới quan triết học duy vật siêu hình ở thế kỷ XVII – XVIII.
Đây là thời kỳ cơ học cổ điển thu được những thành tựu rực rỡ nên trong khi
tiếp tục phát triển quan điểm chủ nghĩa duy vật thời kỳ cổ đại, chủ nghĩa duy
vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu
hình, máy móc. Do đó, đặc trưng của thế giới quan triết học này là có quan
niệm duy vật siêu hình, máy móc về thế giới. Theo thế quan duy vật siêu hình
này, mọi bộ phận, mọi yếu tố, mọi quá trình trong thế giới (cả tự nhiên và xã
hội) khơng có mối liên hệ tác động lẫn nhau, nếu có chỉ là ngẫu nhiên. Tuy
không phản ánh đúng hiện thực nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình cũng đã
13


góp phần khơng nhỏ vào việc chống lại thế giới quan duy tâm và tơn giáo,
điển hình là thời kỳ chuyển tiếp từ đêm trường trung cổ sang thời kỳ phục
hưng.
Ba là, thế giới quan triết học duy vật biện chứng. Thế giới quan triết
học duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của thế giới quan duy
vật, khoa học. Thế giới quan triết học duy vật biện chứng ra đời vào những
năm 40 của thế kỷ XIX do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng sau đó được
V.I.Lênin phát triển. Do tiếp thu được toàn bộ những tinh hoa trong lịch sử tư
tưởng nhân loại, lại được hậu thuẫn bởi những thành tựu khoa học tự nhiên
đương thời, nên thế giới quan triết học duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra
đời đã khắc phục được những hạn chế của thế giới quan triết học duy vật thô
sơ, mộc mạc; thế giới quan triết học duy vật siêu hình. Thế giới quan triết học

duy vật biện chứng (gọi tắt là thế giới quan khoa học) không chỉ phản ánh
hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại mà cịn là một cơng cụ hữu hiệu
giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực.
1.1.1.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành thế giới quan
khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định hiện nay
Sinh viên CĐSP Nam Định là con em của mọi tầng lớp nhân dân
sống ở tỉnh Nam Định về học tập ở trên địa bàn thành phố Nam Định, do
đó điều kiện kinh tế xã hội của thế giới cũng như của trong nước cùng
những điều kiện đặc thù của tỉnh Nam Định đều tác động đến việc giáo dục
thế giới quan khoa học cho sinh viên.
* Sự tác động của những điều kiện trong nước
Trước hết phải tính đến sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội.
Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, qua hơn hai mươi năm đổi
mới, Đảng và nhân dân ta đã thu được những thành tựu hết sức quan trọng
về kinh tế và xã hội: "Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ
14


tăng trưởng khá cao... Văn hóa và xã hội có những tiến bộ trên nhiều mặt...
Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường; quan hệ
đối ngoại có bước phát triển mới" [11, tr.14]. Những thành tựu này đã tạo
điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta, và nó là tiền
đề trực tiếp cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tiếp tục thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN. Tuy
nhiên, cần nhận thấy rằng, nền kinh tế nước ta hiện nay vẫn ở trạng thái
chậm phát triển so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Đời sống của
một bộ phận nhân dân hiện nay vẫn ở mức thấp. Nguyên nhân căn bản là
chúng ta xuất phát từ một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp, nghèo nàn lạc
hậu, tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Nền sản xuất nông
nghiệp lạc hậu, tồn tại lâu dài ở nước ta đã tác động không nhỏ đến đời

sống tinh thần của nhân dân ta và tác động đến cả quá trình giáo dục thế
giới quan khoa học cho sinh viên hiện nay. Phần lớn sinh viên Nam Định là
con em của nhân dân ở khắp các vùng quê. Vì vậy, họ ln ln được kế
thừa cả những yếu tố tích cực và hạn chế của người nông dân Việt Nam.
Những yếu tố tích cực ví dụ như lịng u nước, tính cần cù chịu khó, dũng
cảm, ln được thế hệ trẻ kế thừa và phát huy. Bên cạnh đó, những hạn chế
của người nơng dân như: đầu óc tư hữu, nếp nghĩ và tư duy thiển cận, tư
duy kinh nghiệm là chủ yếu, cung cách làm ăn tủn mủn, tùy tiện, thiếu tổ
chức kỷ luật đã ảnh hưởng rất lớn đến việc giáo dục thế giới quan khoa học
cho thế hệ ngày nay nói chung và sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng.
Thực tiễn xã hội lồi người đã chứng minh con người vừa là chủ thể
của hoàn cảnh, nhưng đồng thời vừa là sản phẩm của hoàn cảnh. Mác đã
viết:"Con người trong chừng mực mà họ là hiện thân của những phạm trù
kinh tế, là kẻ đại biểu cho những quan hệ lợi ích giai cấp nhất định"
[19,tr.21]. Do đó, trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nước ta chuyển
15


sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, thì tất cả những ưu và nhược
điểm của nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường đã
và đang tác động đến quá trình giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh
viên CĐSP Nam Định hiện nay. Có thể khẳng định rằng sự tác động tích
cực là chủ yếu, song sự tác động tiêu cực cũng không nhỏ.
Sự tác động tích cực được thể hiện như: góp phần phá vỡ tình trạng
chia cắt, cục bộ, manh mún, vốn là sản phẩm của nền kinh tế tự cung tự cấp
gây ra. Đồng thời, khắc phục được tình trạng thụ động, ỷ lại của cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển và
từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Điều kiện này đã tác động
quan trọng tới sự phát triển năng lực tư duy biện chứng của mỗi người đặc
biệt là sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng. Bởi tư duy kinh nghiệm, siêu

hình đã trở thành lực cản rất lớn cho quá trình học tập, nghiên cứu khoa
học và rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức mới của sinh viên. Cơ chế thị
trường có những địi hỏi khắt khe về thị trường lao động, về nguồn lực đó
là những con người phải có trình độ học vấn cao, có năng lực chun mơn
vững chắc, năng động sáng tạo trong các lĩnh vực lao động và cuộc sống.
Những đòi hỏi khắt khe của cơ chế thị trường đã và đang tác động đến sinh
viên, đòi hỏi sinh viên khắc phục được tính thụ động, ỷ lại, dựa dẫm, lười
học tập, lười nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy, sinh viên ngày nay đặc
biệt là sinh viên sư phạm năng động hơn, thơng minh hơn, dám tự khẳng
định mình, dám đương đầu với những khó khăn bước đầu trên con đường
lập nghiệp, thôi thúc sinh viên không chỉ coi trọng việc học tập, nghiên cứu
những tri thức chuyên môn ngành nghề, mà còn ham muốn được học tập
nghiên cứu lý luận, tìm hiểu về đường lối, chính sách pháp luật của Đảng
và Nhà nước.

16


Khi chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường định hướng XHCN, nền kinh tế của đất nước đã có những bước
chuyển lớn. Đời sống vật chất của nhân dân được cải thiện, đời sống tinh
thần của nhân dân được nâng cao, đời sống văn hóa có những bước tiến bộ
rõ rệt. Những thành tựu đó đã bước đầu tạo ra niềm tin của nhân dân nói
chung và sinh viên nói riêng về sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước. Vì vậy, sinh viên đã có niềm tin CNXH, họ gắn bó với lý tưởng cách
mạng XHCN. Đa số sinh viên ngày nay nêu cao tinh thần dám nghĩ, dám
làm, dám chịu trách nhiệm. Vì vậy, nó đã tạo ra điều kiện để khắc phục
những nhận thức lệch lạc, dao động, suy giảm niềm tin khi họ bị tác động
của mặt trái cơ chế thị trường và sự xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Trong cơ chế mới hiện nay, việc mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác

phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật với nhiều nước trên thế giới
đã tạo điều kiện cho nhân dân trong đó có sinh viên học hỏi, tiếp thu và kế
thừa những tư tưởng tiến bộ, văn minh, những thành tựu về khoa học, kỹ
thuật và văn hóa của nhân loại và của thời đại. Điều này có ảnh hưởng tích
cực tới việc tiếp thu, lĩnh hội, nâng cao trí tuệ, hình thành và phát triển thế
giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng và sinh viên
cả nước nói chung.
Về tác động tiêu cực: Bên cạnh những tác động tích cực là chủ yếu thì
cơ chế thị trường cũng bộc lộ những mặt trái của nó. Sự tác động tiêu cực của
cơ chế thị trường trong quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng
đối với sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng và sinh viên cả nước nói chung
là:
(1) Trong cơ chế thị trường, do đề cao lợi ích cá nhân đã làm cho
nhiều người và cả sinh viên hiện nay nẩy sinh tư tưởng và lối sống thực
dụng, sống vì tiền. Vì tiền và đề cao nhu cầu vật chất quá mức nên có
17


người đã bất chấp mọi giá trị đạo đức, văn hóa, kỷ cương, nhằm đạt được
lợi ích cá nhân.
(2) Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, bên cạnh những mặt tích cực và
tiến bộ đã xuất hiện một số biểu hiện khơng lành mạnh như mê tín dị đoan
phát triển, thị hiếu bắt chước không lành mạnh, các tệ nạn xã hội phát triển;
cũng như một số hoạt động về đời sống tâm linh, tôn giáo được đề cao quá
mức ở một bộ phận nhân dân.
Những hiện tượng tiêu cực đó đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến đời sống
tinh thần của nhân dân ta và nó sẽ gây trở ngại đối với việc giáo dục thế
giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng và sinh viên
nói chung.
Như vậy là từ điều kiện kinh tế - xã hội đến văn hóa đã và đang tác

động cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực đối với quá trình giáo dục thế
giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định hiện nay.
* Sự tác động của điều kiện quốc tế
Đứng trước tình hình thế giới đang có những biến đổi to lớn. Sự biến
đổi đó đang tác động đến sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Sự tác động đó có những mặt tích cực và cả những mặt hạn chế. Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta đã xác định "Những nét mới
trong tình hình thế giới và khu vực tác động mạnh mẽ đến tình hình nước
ta, trước mắt nhân dân ta có cả cơ hội và thách thức lớn" [7, tr.14]. Một
trong những nguyên nhân quan trọng là do từ thập niên 80 của thế kỷ XX
đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại, đặc biệt là do công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ
vật liệu mới... nền kinh tế thế giới đang có những biến đổi sâu sắc, nhanh
chóng về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động. Đây là một bước
ngoặt lịch sử có ý nghĩa đặc biệt. Lực lượng sản xuất xã hội đang chuyển
18


từ kinh tế tài nguyên sang kinh tế tri thức. Nền văn minh của lồi người
chuyển từ văn minh cơng nghiệp sang văn minh trí tuệ. Vì vậy, những nước
phát triển hiện nay trên thế giới là những nước tư bản đã có một tiềm lực
mạnh để tiếp tục phát triển kinh tế tri thức... Kinh tế tri thức đã và đang tạo
ra tốc độ phát triển "chóng mặt"... Do đó, đời sống của người lao động
được cải thiện. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức thì những
mâu thuẫn trong lịng xã hội tư bản cũng phát triển gay gắt. Chủ nghĩa tư
bản đã có những điều chỉnh lớn về chính sách xã hội. Do đó, nhờ hệ thống
thông tin mà mỗi chúng ta đều biết được đời sống vật chất và tinh thần của
người lao động được cải thiện, những chính sách như trợ cấp thất nghiệp,
công nhân được mua cổ phiếu, cổ phần... đã tạo ra một vỏ bọc, để mỗi
người có thể hiểu rằng CNTB ngày nay dường như nhân đạo hơn, dường

như những thay đổi về chính sách xã hội đã điều chỉnh được mâu thuẫn
trong lịng xã hội tư bản. Vì vậy, chính hiện tượng này, nhân dân chúng ta,
đặc biệt là sinh viên sư phạm hiện nay nếu không được trang bị thế giới
quan khoa học, không được giáo dục đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước một cách khoa học sẽ dễ dàng hiểu rằng chế độ TBCN là
chế độ tiến bộ nhất trong lịch sử lồi người, rằng CNXH đã thuộc về q
khứ.
Bên cạnh đó, chúng ta phải nhận thấy trong kinh tế tri thức, mọi hoạt
động đều có liên quan đến vấn đề tồn cầu hóa kinh tế. Mà tồn cầu hóa
kinh tế từ thực tiễn ngày nay nhiều nhà khoa học về kinh tế và xã hội đã
khái quát hóa và đưa ra nhận định giống nhau đó là:"Tồn cầu hóa có tác
động tích cực, tiêu cực, sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống xã hội, trong
mỗi quốc gia và trên thế giới". Trong Đại hội lần thứ 14 hiệp hội các hội
đồng nghiên cứu khoa học xã hội châu Á tổ chức tại Việt Nam, đồng chí
Phạm Đức Thành - Viện Nghiên cứu Đơng Nam Á đã khẳng định:"Tồn
19


×