Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

(Luận văn thạc sĩ) giao tiếp giữa cha mẹ và trẻ mắc chứng tự kỷ trong gia đình tại hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 136 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ MẪN

GIAO TIẾP GIỮA CHA MẸ VÀ TRẺ MẮC
CHỨNG TỰ KỶ
TRONG GIA ĐÌNH TẠI HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
TÂM LÝ HỌC


Hà Nội, 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ MẪN

GIAO TIẾP GIỮA CHA MẸ VÀ TRẺ MẮC
CHỨNG TỰ KỶ
TRONG GIA ĐÌNH TẠI HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH TÂM LÝ HỌC
Mã số: 60 31 80

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. VĂN THỊ KIM CÚC


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 7
2. Mục đích nghiên cứu.................................................................................. 9
3. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................ 9
4. Khách thể nghiên cứu ................................................................................ 9
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu .................................................................... 9
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 9
6.1. Nghiên cứu lý luận .............................................................................. 9
6.2. Nghiên cứu thực tiễn ........................................................................... 9
7. Các phương pháp nghiên cứu .................................................................. 10
8. Giả thuyết khoa học ................................................................................. 10
9. Đóng góp mới của đề tài.......................................................................... 10
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ............................................... 11
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề............................................................ 11
1.1.1. Sơ lược các nghiên cứu về giao tiếp của trẻ nói chung và trẻ tự kỷ nói
riêng và quan hệ cha mẹ - con cái ở nước ngoài ..................................... 11
1.1.2. Sơ lược các nghiên cứu về giao tiếp của trẻ nói chung và trẻ tự kỷ nói
riêng và quan hệ cha mẹ - con cái ở iệt Nam ........................................ 15
1.2.Các khái niệm công cụ ......................................................................... 18
1.2.1. Khái niệm trẻ tự kỷ ......................................................................... 18
1.2.1.1. Định nghĩa tự kỷ .......................................................................... 18
1.2.1.2. Nguyên nhân của tự kỷ ................................................................ 19
1.2.1.3. Phân loại tự kỷ ............................................................................ 21
1.2.1.4. Các hội chứng liên quan đến tự kỷ .............................................. 22
1.2.2. Khái niệm giao tiếp ........................................................................ 24
1.2.2.1 Định nghĩa giao tiếp ..................................................................... 24
1.2.2.2. Vai trò của giao tiếp .................................................................... 26
1.2.2.3. Chức năng của giao tiếp ............................................................. 27



1.2.2.4. Phân loại giao tiếp ...................................................................... 28
1.2.3. Khái niệm giao tiếp giữa cha mẹ và trẻ tự kỷ ................................ 30
1.2.3.1. Khái niệm giao tiếp giữa cha mẹ và trẻ ...................................... 30
1.2.3.2 Khái niệm giao tiếp giữa cha mẹ và trẻ tự kỷ .............................. 32
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................ 33
Chương 2. TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................. 34
2.1 Sơ lược về địa bàn nghiên cứu ............................................................ 34
2.2.1. Các bước chọn mẫu nghiên cứu ..................................................... 34
2.2.2 Mô tả mẫu nghiên cứu ..................................................................... 35
2.3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................... 36
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận ................................................... 36
2.3.2. Phương pháp quan sát ................................................................... 36
2.3.3. Phương pháp phỏng vấn sâu .......................................................... 37
2.3.4. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi ............................................ 37
2.3.4.1. Xây dựng bảng hỏi và thử độ tin cậy hệ số Alpha Cronbach ..... 37
2.3.4.2. Cách tính điểm............................................................................. 39
2.3.5. Phương pháp nghiên cứu trường hợp ............................................ 40
2.3.6. Phương pháp sử dụng test đánh giá ............................................... 41
2.3.7. Phương pháp thống kê toán học..................................................... 42
2.4. Tiến trình nghiên cứu ......................................................................... 42
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................ 43
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................ 43
3.1. Mục đích giao tiếp của cha mẹ đối với trẻ mắc chứng tự kỷ ................ 47
3.2. Thời gian giao tiếp của cha mẹ đối với trẻ ........................................... 53
3.3. Hoàn cảnh giao tiếp của cha mẹ đối với trẻ ......................................... 57
3.4. Nội dung giao tiếp của cha mẹ đối với trẻ ........................................... 61
3.5. Hình thức giao tiếp của cha mẹ đối với trẻ .......................................... 68
3.6. Ảnh hưởng tích cực của quá trình giao tiếp đối với trẻ tự kỷ .............. 71
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ........................................................................... 101



KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................... 102
1. Kết luận ................................................................................................. 102
1.1. Mục đích giao tiếp của cha mẹ đối với trẻ ...................................... 102
1.2.Thời gian giao tiếp của cha mẹ đối với trẻ ...................................... 102
1.3. Hoàn cảnh cha mẹ giao tiếp đối với trẻ .......................................... 103
1.4. Nội dung giao tiếp của cha mẹ đối với trẻ ...................................... 103
1.5. Hình thức giao tiếp của cha mẹ đối với trẻ ..................................... 103
1.6. Ảnh hưởng tích cực của q trình giao tiếp đối với trẻ tự kỷ ......... 103
2. Kiến nghị ............................................................................................... 104
2.1. Đối với cha mẹ có trẻ mắc chứng tự kỷ ........................................... 104
2.2. ề phía các bệnh viện...................................................................... 104
2.3. ề phía các trung tâm can thiệp cho trẻ tự kỷ ................................ 104
2.4. ề phía các trường mẫu giáo .......................................................... 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 106
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi sinh con, cha mẹ nào cũng mong con mình khỏe mạnh, giỏi giang,
ngoan ngỗn, thơng minh…Nhưng chẳng may, đứa trẻ mắc phải một chứng
bệnh hay một rối nhiễu nào đó, đặc biệt khi bị rối loạn tự kỷ hay còn gọi là hội
chứng tự kỷ thì đa phần những bậc cha mẹ sẽ buồn phiền. Có những người chán
nản, bng xi gửi con đến bác sỹ y khoa, bác sỹ tâm lý hay giao phó con cho
cơ trơng trẻ nhưng cũng có những người rất tích cực trong việc phối hợp để khắc
phục những khó khăn mà trẻ gặp phải.
Nếu như với một số dạng khuyết tật như down, tật vận động… cha mẹ có
thể nhận ra ngay từ lúc trẻ vừa cất tiếng khóc chào đời. Cho dù đau đớn tột cùng
nhưng dù sao họ cũng đã có sự chuẩn bị về tinh thần đối với tương lai sau này

của đứa trẻ. Nhưng đối với hội chứng tự kỷ, các bậc làm cha làm mẹ khơng có
được cơ hội đó. Các em bé này lúc sinh ra cũng bình thường như bao đứa trẻ
khác, nhiều trẻ trong số đó cũng trải qua các giai đoạn phát triển hoặc bỏ qua
một giao đoạn nào đó như trẻ bình thường. Chúng cũng bắt đầu nói những âm
đầu tiên, đều biết cật tiếng gọi “ba, ba…” hay “ma, ma…” Hầu hết các cha mẹ
không hề nhận thấy một điểm gì bất thường của con mình trong giai đoạn từ 0
đến 1,5 tuổi hay 2 tuổi.
Nhưng rồi mọi chuyện như thay đổi hoàn toàn khi nhận ra trẻ hầu như chỉ
sống trong thế giới riêng của chúng và các kỹ năng dường như dừng hẳn, thậm
chí kém đi. Nhiều bậc cha mẹ, do không biết sự thay đổi của con chỉ nghĩ rằng
đó là vì chúng ngoan, hay do chúng nhút nhát… Nhưng khi đến tuổi mà những
trẻ bình thường đã có thể nói được thì các cha mẹ mới phát hiện ra rằng con
mình hầu như không thể chủ động sử dụng ngôn ngữ để nói chuyện cho dù có
thể đơi lúc tự nhiên phát ra những âm thanh khó hiểu. Chúng khơng có phản ứng
gì khi người khác gọi tên… Đến lúc này, các gia đình mới đưa trẻ đi chẩn đốn
và đánh giá. Khi được các bác sỹ hoặc các nhà chuyên môn chẩn đoán, đánh giá


và thông báo về kết quả tự kỷ, phản ứng chung của các bậc làm cha làm mẹ là
sốc, thất vọng, hoang mang lo lắng, khơng tin vào tình trạng của con, phủ nhận
sự thật, cảm thấy xấu hổ, hối hận… Nhưng sau một thời gian, có một số bậc làm
cha làm mẹ sẽ chấp nhận thực tế của con mình, tuy nhiên họ có thể chấp nhận
vấn đề của trẻ theo lý trí nhưng về tình cảm thì họ rất bối rối, buồn bã, chán nản,
đôi khi cảm thấy bực tức, thịnh nộ, ghen tức và giận dữ
Qua các nghiên cứu gần đây cho thấy, tỷ lệ mắc hội chứng tự kỷ khá cao
trong dân số, bình quân vào khoảng 58 đến 60 trẻ tự kỷ trên 10.000 trẻ được
sinh ra và có khuynh hướng ngày càng gia tăng nhưng không rõ nguyên nhân.
Hiện tại ở Việt Nam chưa có con số nghiên cứu chính thức về số lượng trẻ bị rối
loạn tự kỷ, tuy nhiên số trẻ được chẩn đoán là mắc hội chứng tự kỷ ngày càng
nhiều.

Trong khi đó, gia đình là cái nơi đầu tiên của một đứa trẻ, trong đó mối quan
hệ qua lại, cụ thể là quan hệ giao tiếp giữa cha mẹ và đứa trẻ có ảnh hưởng rất
nhiều đến đứa trẻ trong thời kỳ thơ ấu ấy. Đó là thời kỳ quan trọng nhất trong việc
hình thành các phẩm chất nhân cách, để lại dấu ấn sâu sắc nhất trong cuộc đời về
sau của trẻ. Quan hệ giao tiếp đó khơng chỉ ở chỗ cha mẹ tác động đến trẻ theo kiểu
“trẻ là tờ giấy trắng để cha mẹ viết lên đó cái gì thì nó thành cái đó” mà cịn có sự
tác động ngược lại từ trẻ đến cha mẹ. Sự tác động qua lại đó diễn ra thường xun,
khơng ngừng trong suốt quá trình phát triển của trẻ. Quan hệ giao tiếp của trẻ tự kỷ
và cha mẹ cũng không nằm ngoài quy luật này.
Thực tế ở Việt Nam, các nghiên cứu về trẻ tự kỷ nói chung và giao tiếp
giữa cha mẹ và trẻ tự kỷ nói riêng cịn q ít và chưa có hệ thống.
Với những lý do trên đã thúc đẩy tôi lựa chọn đề tài: “ Giao tiếp giữa cha
mẹ và trẻ mắc chứng tự kỷ trong gia đình tại Hà Nội” nhằm giúp chúng ta có
cách nhìn cụ thể hơn về giao tiếp của các bậc làm cha làm mẹ khi phát hiện ra
con họ mắc hội chứng tự kỷ.


2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm ra thực trạng giao tiếp trong đó tập trung vào mục đích, nội dung,
hình thức, hoàn cảnh và thời gian giao tiếp giữa cha mẹ và trẻ tự kỷ.
- Từ đó xem xét ảnh hưởng của quá trình giao tiếp đến tiến triển của trẻ tự
kỷ và đề xuất cách thức giao tiếp phù hợp đối với những bậc cha mẹ có con mắc
chứng tự kỷ.
3. Đối tượng nghiên cứu
Giao tiếp giữa cha mẹ và con có chứng tự kỷ trong gia đình.
4. Khách thể nghiên cứu
- 75 gia đình trẻ tự kỷ.
- Nghiên cứu sâu 2 trường hợp có con tự kỷ.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về địa bàn nghiên cứu: nghiên cứu tại nội thành Hà Nội.

- Giới hạn về khách thể nghiên cứu: nghiên cứu các cặp cha mẹ có trẻ mắc
chứng tự kỷ trong độ tuổi từ 1 đến 6 tuổi.
- Giới hạn về nội dung nghiên cứu: đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu mục đích,
nội dung, hình thức, hồn cảnh, thời gian tần suất giao tiếp giữa cha mẹ và trẻ tự
kỷ.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu lý luận
Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về quan hệ giao tiếp giữa cha mẹ và
con mắc chứng tự kỷ, thông qua việc thu thập, phân tích những tài liệu trong và
ngồi nước nhằm tổng quan nghiên cứu vấn đề, xác định cơ sở lý luận và các
khái niệm công cụ
6.2. Nghiên cứu thực tiễn
Điều tra, khảo sát thực tiễn để xác định nhu cầu, mục đích, nội dung, hình
thức, hồn cảnh, thời gian giao tiếp giữa cha mẹ và trẻ tự kỷ. Từ đó, đề xuất cách
thức giao tiếp phù hợp của bậc làm cha làm mẹ với con mắc chứng tự kỷ.


7. Các phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp quan sát
Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Phương pháp nghiên cứu trường hợp
Phương pháp sử dụng test đánh giá
Phương pháp thống kê toán học
8. Giả thuyết khoa học
Quan hệ giao tiếp giữa cha mẹ và trẻ tự kỷ bị hạn chế cả về nội dung, hình
thức và thời gian giao tiếp.
Tình trạng bệnh của trẻ tự kỷ có liên quan khá mật thiết với quan hệ giao
tiếp giữa trẻ tự kỷ và cha mẹ.

9. Đóng góp mới của đề tài
Đây là một trong các cơng trình đầu tiên ở Việt Nam chỉ ra quan hệ giao
tiếp giữa cha mẹ và trẻ tự kỷ trong gia đình.
Đề xuất giúp các bậc làm cha làm mẹ có những cách thức giao tiếp phù
hợp đối với những đứa con tự kỷ của mình.


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Xung quanh vấn đề về tự kỷ đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu
để chỉ ra những biểu hiện, bản chất, nguyên nhân… của hội chứng này. Tuy
nhiên, để xác định mối liên hệ giữa giao tiếp giữa cha mẹ và con mắc chứng tự
kỷ thì chưa có nghiên cứu nào đưa ra khẳng định rõ ràng. Song các tác giả trong
và ngoài nước cũng đã nêu ra một vài quan điểm, đánh giá có liên quan về vấn
đề giao tiếp giữa trẻ và cha mẹ, trong đó có một số tác giả đề cập cụ thể hơn về
mối quan hệ giao tiếp của trẻ tự kỷ.
1.1.1. Sơ lược các nghiên cứu về giao tiếp của trẻ nói chung và trẻ tự kỷ
nói riêng và quan hệ cha mẹ - con cái ở nước ngoài
Vấn đề giao tiếp của trẻ em đã được đề cập đến từ lâu, ngay từ thời kỳ
phục hưng đã được Leona Đơvanhxi (1452 - 1512) nhà bác học đồng thời là
nghệ sỹ thiên tài người Ý quan tâm miêu tả sự giao tiếp giữa mẹ và con.
Nhưng phải đến đầu thế kỷ 20 vấn đề giao tiếp của trẻ mới được quan tâm
nghiên cứu cùng với sự ra đời của tâm lý học trẻ em.
Trước hết là trong tâm lý học Xôviết, L.X. Vygotski đề cập tới từ những
năm 30 trong cơng trình: “Sự phát triển của các chức năng tâm lý cấp cao”. Đặc
biệt từ những năm 70 đến nay, giao tiếp được nhiều nhà tâm lý học quan tâm.
A.N. Leonchiev trong “Những vấn đề phát triển tâm lý” (1965 - 1972), Đ.B.
Enconin “Vấn đề phân định thời kỳ phát triển tâm lý của trẻ em” (1974). A.V.
Davarôfiet trong “Nguyên tắc phát triển trong tâm lý học” (1978)… Tất cả

những cơng trình này khơng những có ý nghĩa to lớn đối với sự hình thành và
phát triển tâm lý học trẻ em nói chung mà cịn đặt cơ sở khoa học cho hàng loạt
cơng trình nghiên cứu vấn đề giao tiếp của trẻ em sau này.
M.I. Lixina với “Nguồn gốc của những hình thức giao tiếp của trẻ em”
(1978), A.V. Daparojiet và M.I. Lixina “Với sự phát triển giao tiếp của trẻ mẫu


giáo” (1974), A.P. Lixơva với “Vai trị của trị chơi trong giáo dục trẻ em”
(1976), E.I. Chikhiepva với “Sự phát triển ngôn ngữ trước tuổi học” (1975).
L.A. Venger và V.X. Mukhina với “Tâm lý học trẻ em trước tuổi học” (1988),
A. Ruskaia và E. Panko với “Giao tiếp sư phạm trong giáo dục trước tuổi học”
(1985), V.N. Avanecôva với “Giáo dục và dạy học trẻ em trong nhóm khơng
cùng độ tuổi” (1879)… Những cơng trình trên đã đi sâu phân tích những vấn đề
sau đây:
- Vai trị to lớn có tính quyết định của giao tiếp trong sự phát triển của trẻ
em để trở thành nhân cách.
- Nêu ra các chức năng giao tiếp của trẻ
- Các dạng giao tiếp của trẻ
- Những đặc điểm giao tiếp của trẻ
- Vấn đề tổ chức giao tiếp của trẻ nhằm đạt tới sự phát triển tối ưu
- Những con đường giao tiếp của trẻ em (giao tiếp với người lớn và giao
tiếp với bạn bè).
Vấn đề giao tiếp của trẻ em ở Mỹ và các nước phương Tây đã được nhiều
nhà tâm lý học trẻ em quan tâm nghiên cứu một cách sâu sắc. H.A. Wallon
(1879 - 1962) nhà tâm lý học Pháp đã nghiên cứu sự giao tiếp của trẻ em qua
“Trương lực cơ bắp hay là đối thoại qua cơ bắp”.
Đặc biệt, từ những năm 70 của thế kỷ này, bắt đầu ở Mỹ các nhà tâm lý học
trẻ em như Bowlby, Ainsworth đã nghiên cứu khái niệm gắn bó mẹ - con
(attachment) hay nối kết (bonding) đã miêu tả một phương thức ứng xử đặc biệt
giữa mẹ và con. Klaus và Kennell đã nghiên cứu một kiểu gắn bó đặc biệt giữa mẹ

và con sau khi mới sinh ra. Micleline d’ Agostine đã nghiên cứu tác động qua lại
giữa mẹ và con trong những năm đầu. Ckulgi (Mỹ) vào cuối những năm 60 đã
công bố kết quả sau 20 năm nghiên cứu cuộc sống cô đơn của những người trước
đây đã ở nhà nuôi trẻ mồ côi lâm vào tình trạng chậm phát triển.


Anna Freud – nhà tâm thần học người Áo (con gái của Freud) trong khi
nghiên cứu những con đường trưởng thành đã quan tâm đến vấn đề duy kỷ, đến
quan hệ với bạn bè. Đặc biệt, N. Spitz nhà tâm lý học trẻ em người Mỹ khi
nghiên cứu sự phát triển tâm lý trẻ em trong những năm đầu đã quan tâm một
cách sâu sắc đến tâm bệnh lý gây nên chủ yếu là sự rạn nứt trong mối quan hệ
mẹ - con làm cho sự phát triển của trẻ em bị nhiễu loạn.
Tiến sỹ y khoa Miriam Stôpa người Anh đã nhận định: “Từ 6 đến 18
tháng tuổi sự giao tiếp với cha mẹ có vai trị quyết định. Từ 1 đến 4 tuổi, các đồ
chơi, trò chơi, các câu chuyện, các bài hát, sự quan tâm của cha mẹ làm phong
phú tinh thần và trí tuệ của trẻ. Sau đó, trẻ cần phải có cơ hội để rèn luyện các
kỹ năng giao tiếp xã hội với các bạn cùng trang lứa, chơi chung, các trò chơi
cộng đồng, kết bạn”. Bà đã khuyên các bậc cha mẹ: “Cần phải hiểu rằng mọi
việc trong cuộc sống đều đi vào tâm trí trẻ một cách sâu sắc cho đến mức nó
được chế biến và xuất hiện trở lại trong các trò chơi sáng tạo. Vì vậy đối với trẻ
thơng minh xuất sắc, các trị chơi sáng tạo là thực phẩm ni dưỡng tinh thần.
Điều kiện quan trọng, cốt yếu là chúng ta phải tạo điều kiện cho trẻ về thời gian
cũng như về phương tiện để trẻ có thể làm việc qua các trò chơi, thể hiện những
điều mà trẻ đã tiếp thu trong cuộc sống hàng ngày với bạn bè và những người
xung quanh”.
Nhà tâm lý học Thụy Sĩ nổi tiếng A.N. Pereklerman là học trò của Piaget
đã khẳng định các q trình tác động xã hội qua lại có vai trị quan trọng trong
sự phát triển trí tuệ của đứa trẻ. Ông cho rằng, các giai đoạn phát triển trí tuệ có
thể nhanh hay chậm phụ thuộc vào mơi trường văn hóa và học vấn của đứa trẻ.
Trẻ mẫu giáo lớn có thể phát triển tư duy tốt hơn nếu được hoạt động cùng nhau

với trẻ lớp 1 dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Các cơng trình kể trên đây mới đề cập đến vấn đề giao tiếp của trẻ mà
không phải trực tiếp chỉ ra vấn đề giao tiếp của trẻ tự kỷ nhưng chúng tơi thấy
rằng đó là cơ sở cho các cơng trình sau này nghiên cứu về vấn đề giao tiếp của
cha mẹ và trẻ tự kỷ.


Một số tác giả đã đề cập đến một khía cạnh nào đó của mối quan hệ giao
tiếp giữa trẻ tự kỷ và cha mẹ, có thể kể đến như:
Leo Kanner – một nhà tâm thần học người Mỹ thuộc bệnh viện John
Hopkins trong một bài báo nhan đề “Autistic disturbances of affective contac”
(Các rối loạn về tiếp xúc cảm xúc có tính tự kỷ, 1943) đã chỉ ra trong giao tiếp
của trẻ tự kỷ trẻ khơng nói hoặc cách nói rất kỳ dị, thích độc thoại trong thế giới
tự kỷ, chỉ hiểu nghĩa đen của câu nói…
Trong cơng trình nghiên cứu của Bruno Bettleheim cho rằng trẻ bị tự kỷ
là do người mẹ bỏ mặc, vì người mẹ có học cao nên thiên về ứng xử lý trí hơn là
tình cảm, sống lạnh lùng, khơng u con. Do cách sống thờ ơ đó nên những đứa
con phản ứng lại bằng cách không muốn gần mẹ, không muốn ôm, hôn mẹ,
khơng muốn nhìn vào mắt mẹ và khơng nói, đồng thời trẻ cũng ứng xử như vậy
với người khác.
Nghiên cứu của Lorna Wing cũng chỉ ra rằng: trong sử dụng lời nói của
trẻ tự kỷ, trẻ hoặc câm lặng suốt đời, hoặc chắt chước tiếng kêu của loài vật,
tiếng lạ, hoặc lập câu, lập từ. Ngữ điệu và việc làm chủ lời nói thì kỳ dị, đơn
điệu, máy móc, đổi giọng không đúng chỗ… Trẻ dường như không nghe, không
hiểu, không trả lời người khác. Trẻ chỉ nghe, hiểu trong tình huống trẻ muốn
hoặc liên quan đến nhu cầu của trẻ.
M.Mahler cho rằng tự kỷ là biểu hiện sự không bình thường xuất phát từ
mối quan hệ mẹ con. Đứa trẻ mới sinh ra có mối quan hệ cộng sinh hịa mình
với người mẹ, đây là giai đoạn tự kỷ bình thường, sau đó đến giai đoạn chia cách
cá nhân hóa (nảy sinh tâm lý cá nhân). Có một số rối loạn trong q trình này,

một điều gì đó khơng ổn trong giai đoạn tách mẹ và cá nhân hóa. Cơ chế tự kỷ
gắn với sự mất khía cạnh hoạt hóa, mất sự phân biệt với cơ thể người mẹ, nên
đứa trẻ khơng có sức sống, mất ham muốn về xã hội. Chức năng của trẻ tự kỷ
mang ý nghĩa thái độ phịng vệ cơ bản của đứa trẻ, khơng thể xây dựng được cực


định hướng đối với người mẹ. Đứa trẻ dính chặt vào người lớn và dùng họ như
một bộ phận để kéo dài cơ thể nó. Đây là cách đứa trẻ gạt ra quyền năng của
người mẹ trong giai đoạn đầu tiên.
Trong nghiên cứu của Robert Rosine Le Eost nhắc nhở rằng trẻ tự kỷ
dạy cho chúng ta một điều gì đó mà ta cần nghe. Thế giới của nó là thế giới tự
phá hoại mình, nó chối bỏ thế giới xung quanh và tất cả mọi người làm xuất hiện
hiện thực đối với nó như là một đồ vật. Trước gương nó cảm thấy một cái gì đó
rất khủng khiếp. Trẻ tự kỷ sống trong môi trường ngôn ngữ nhưng khơng có lời
nói của riêng nó, lời nói chỉ là sự kết nối máy móc, sự lập lại mà nó không thể
hiểu. Trẻ tự kỷ tách biệt với người khác, khơng có nhu cầu giao tiếp với người
khác và ln cảm thấy như mình bị nuốt chửng trong ham muốn của mọi người.
1.1.2. Sơ lược các nghiên cứu về giao tiếp của trẻ nói chung và trẻ tự kỷ
nói riêng và quan hệ cha mẹ - con cái ở Việt Nam
Việt Nam, việc nghiên cứu giao tiếp đã phát triển mạnh theo nhiều
chiều hướng khác nhau, thể hiện trên các cơng trình nghiên cứu lý luận và thực
nghiệm. Các cơng trình nghiên cứu lí luận và thực nghiệm về giao tiếp trẻ mẫu
giáo do các cơ quan như Viện nghiên cứu trẻ em trước tuổi học (thuộc Viện
Khoa học giáo dục), Trung tâm nghiên cứu trẻ em N – T, các trường cao đẳng sư
phạm nhà trẻ mẫu giáo trung ương 1, 2, 3, Khoa Giáo dục mầm non – Đại học
sư phạm (thuộc Đại học Quốc gia) cùng các nhà tâm lý học trong nước tiến hành
nghiên cứu nhằm phục vụ cho hoạt động nuôi dạy và giáo dục trẻ em mầm non.
Gần đây nhất có thể kể ra một số cơng trình:
Nguyễn Ánh Tuyết với cuốn: “Giáo dục trẻ mẫu giáo chơi trong nhóm
bạn bè” (1987), “Sự hình thành xã hội trẻ em trước tuổi học” (1988), “Chơi với

bạn bè là nhu cầu bức thiết của trẻ mẫu giáo”. Trong cuốn: “Những điều cần biết
về sự phát triển của trẻ thơ” (1992), “Giao tiếp xúc cảm trực tiếp là hoạt động
chủ đạo của trẻ hài nhi”; cuốn “Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non” (1995)…


Trong những cuốn sách đó bà đã nêu lên vai trò quan trọng của sự giao tiếp giữa
mẹ và con, nói rộng ra là giữa người lớn và em bé đối với sự phát triển của trẻ
em trong những năm đầu và cả cuộc đời sau này. Đồng thời bà cũng vạch rõ vai
trò quan trọng và đặc điểm của sự giao tiếp giữa trẻ em với nhau, đặc biệt là sự
hình thành nhóm bạn bè trong hoạt động vui chơi của trẻ.
Nguyễn Khắc Viện với cuốn: “Phát triển tâm lý năm đầu” (1989), “Lòng
con trẻ”(1990), “Tâm lý học hiểu theo phân tâm học” (1991)… Trong đó bao
gồm những bài trình bày và dịch, chủ yếu là về các vấn đề quan hệ gắn bó mẹ con và những bệnh lý do sự nhiễu loạn trong quan hệ đó.
Tác giả Ngơ Cơng Hồn với cuốn sách “Giao tiếp và ứng xử của cơ giáo
với trẻ em” đã trình bày q trình xã hội hóa trẻ em, đặc điểm phát triển nhu cầu
giao tiếp trẻ em, vấn đề ứng xử giữa cơ giáo và trẻ em…
Luận án Phó tiến sĩ sư phạm – tâm lý: “Đặc điểm giao tiếp của trẻ em
mẫu giáo trong nhóm chơi khơng cùng độ tuổi” của tác giả Lê Xn Hồng thơng
qua việc nghiên cứu trình bày một số đặc điểm giao tiếp của trẻ em mẫu giáo
như tần số giao tiếp, nội dung giao tiếp, tần số sử dụng phương tiện giao tiếp
trong nhóm chơi không cùng độ tuổi để kết luận về việc xây dựng một mơ hình
mới – lớp ghép trẻ em với 3 độ tuổi (3 – 6 tuổi). [8]
Đề tài khoa học cấp Bộ mã số B 94 – 36 – 11: “Đặc điểm giao tiếp của trẻ
em mẫu giáo 5 – 6 tuổi” do tác giả Nguyễn Thạc (Trường Cao đẳng sư phạm
nhà trẻ mẫu giao trung ương 1) chủ trì nghiên cứu đã chỉ ra thực trạng một số
đặc điểm giao tiếp trẻ em mẫu giao 5 – 6 tuổi trên cơ sở đó có những kiến nghị
nhằm phát triển giao tiếp cho trẻ em mẫu giáo đến tuổi học, chuẩn bị cho các trẻ
em mẫu giáo tới trường về mặt giao tiếp được thuận lợi.[31]
Luận án tiến sĩ: “Mức độ tương tác giữa cha mẹ và con tuổi thiếu niên” do
tác giả Lê Minh Nguyệt đã nêu lên tương tác giữa cha/mẹ và con là một loại

tương tác tâm lý - xã hội đặc biệt, là sự tích hợp tương tác tâm lý và tương tác xã
hội, trong đó có sự tác động qua lại, tương ứng giữa cha/mẹ và con về phương


diện tâm lý, nhân cách và vai trò xã hội. Tương tác giữa cha/mẹ và con tuổi
thiếu niên là lứa tuổi dậy thì có nhiều biến động về đặc điểm tâm sinh lý; là
tương tác được tiến hành trên cơ sở đang diễn ra quá trình cấu trúc lại các quan
hệ của trẻ em với người lớn và với bạn ngang hàng, trong đó có sự tác động
mạnh mẽ của các đặc điểm tâm lý lứa tuổi thiếu niên trong q trình cũng như
hiệu quả tương tác.[7]
Như vậy, có thể nói việc nghiên cứu giao tiếp đã phát triển mạnh theo
nhiều chiều hướng khác nhau, nhưng ta có thể nhận thấy:
+ Các cơng trình nghiên cứu chỉ nghiên cứu đơn lẻ một hay một số thành
tố tâm lý của giao tiếp.
+ Các cơng trình nghiên cứu tập trung nhiều trên khách thể sinh viên,
người lớn tuổi, còn trẻ em lứa tuổi nhà trẻ mẫu giáo, đặc biệt là trẻ tự kỷ còn rất
hạn hẹp.
Khi đề cập đến quan hệ giữa cha mẹ và trẻ mắc chứng tự kỷ có thể kể đến
như:
Nghiên cứu “Tìm hiểu một số yếu tố gia đình và hành vi của trẻ tự kỷ” tại
Khoa tâm thần Bệnh viện Nhi trung ương” do bác sỹ Quách Thúy Minh và các
cộng sự thực hiện. Nghiên cứu đã chỉ ra có 55.5% trẻ tăng giao tiếp bằng mắt,
64.1% giảm tăng động và 77.8% giảm xung động nếu được tiến hành điều trị
tâm vận động và có sự kết hợp của gia đình.
Luận văn thạc sỹ: “Thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ” của
tác giả Nguyễn Thị Thanh Liên đã chỉ ra phần lớn cha mẹ của trẻ tự kỷ có thái
độ tiêu cực đối với trẻ. Thái độ này xuất phát từ mặc cảm về khuyết tật của con
mình. Thái độ này được thể hiện rõ trên ba phương diện: nhận thức, tình cảm và
hành vi. Về phương diện nhận thức: đa số cha mẹ có hiểu biết về bản chất của
chứng tự kỷ khơng đầy đủ, một số người cịn hiểu sai. Về phương diện tình cảm:

cha mẹ một mặt thương con, muốn dành tình cảm cho con mặt khác lại thấy lo


lắng, thiệt thịi, tuyệt vọng về những gì mà họ phải gánh chịu. Về phương diện
hành vi: nhìn hình thức bên ngoài khiến người ta dễ lầm tưởng cha mẹ có hành
vi tích cực song về bản chất đó là sự buông xuôi tiêu cực, thiếu khoa học trong
việc trợ giúp con chống lại chứng tự kỷ.[24]
Luận án tiến sĩ: “Nghiên cứu nhận thức của trẻ tự kỷ tại thành phố Hồ Chí
Minh” do tác giả Ngơ Xn Điệp chỉ ra thực trạng mức độ nhận thức cũng như
một số đặc điểm trong nhận thức của trẻ tự kỷ tại thành phố Hồ Chí Minh. Luận
án khơng nghiên cứu giao tiếp của trẻ tự kỷ, nhưng trong luận án tác giả đã tập
hợp các nghiên cứu từ góc độ tâm lý học để chỉ ra các rối loạn tâm lý – nhân
cách của trẻ tự kỷ trong đó đã chỉ ra giao tiếp và quan hệ xã hội của trẻ tự kỷ.
Giao tiếp của trẻ tự kỷ có sự hạn chế trên bình diện quan hệ, trong việc hiểu lời
nói và suy giảm trong giao tiếp không lời và ngôn ngữ.[12]
Rõ ràng, chưa có một cơng trình nào đi sâu vào nghiên cứu mối quan hệ
giao tiếp giữa cha mẹ và trẻ tự kỷ nhưng từ những cơ sở khoa học về lịch sử
nghiên cứu vấn đề giao tiếp giữa trẻ và cha mẹ và nghiên cứu về trẻ tự kỷ nhằm
bổ sung và làm rõ hơn nữa cho đề tài nghiên cứu của chúng tôi.
1.2.Các khái niệm công cụ
1.2.1. Khái niệm trẻ tự kỷ
1.2.1.1. Định nghĩa tự kỷ
Cho đến nay, các nhà khoa học trên thế giới đã đưa ra khá nhiều quan
niệm về tự kỷ. Những định nghĩa này rất phong phú và đa dạng, dưới đây là một
số quan niệm:
Theo Kanner 1943: “Tự kỷ là sự rút lui cực đoan của một số trẻ em từ lúc
mới bắt đầu cuộc sống, triệu chứng đặc biệt của bệnh là một sự hiếm thấy, đó là
sự rối loạn từ cội rễ, là sự khơng có khả năng của những trẻ này trong công việc
thiết lập các mối quan hệ bình thường với những người khác và hành động một
cách bình thường với các tình huống từ lúc chúng bắt đầu cuộc sống”. [45]



Theo Freud: “Tự kỷ là sự đầu tư vào đối tượng quay trở lại cái tơi, có nghĩa là
đã trở thành tự yêu, là sự ẩn náu của trẻ em trong thế giới bên trong huyễn tưởng và ảo
ảnh để hỏi rằng cái tự trị ảo tưởng chỉ có thể được một thời gian, đối với chủ thể với
điều kiện phải thêm vào đó sự chăm sóc của người mẹ”. [3]
Theo DSM – IV: “Tự kỷ là sự phát triển khơng bình thường hay một sự
giảm sút rõ rệt, hoạt động bất thường đặc trưng trong ba lĩnh vực: quan hệ xã
hội, giao tiếp và tác phong thu hẹp định hình”. [45]
Theo ICD - 10: “Tính tự kỷ của trẻ em, một rối loạn lan tỏa sự phát
triển được xác định bởi một sự phát triển khơng bình thường và hay giảm sút
biểu hiện trước 3 tuổi, và bởi một hoạt động bất thường đặc trưng trong ba
lĩnh vực: tác động xã hội qua lại, giao tiếp và tác phong thu hẹp định hình”.
[1]
Trong luận văn này chúng tơi sử dụng định nghĩa tự kỷ theo DSM - IV.
1.2.1.2. Nguyên nhân của tự kỷ
Từ khi được phát hiện từ năm 1943 cho đến nay, khoa học vẫn chưa xác
định chính xác căn nguyên của chứng tự kỷ. Mỗi cách tiếp cận khác nhau đưa ra
những giả thuyết khác nhau. Trong số đó có các giả thuyết: cấu tạo não bất thường,
thiếu cân bằng về kích thích tố, dị ứng, di truyền, nhiễm độc thủy ngân, thiếu sinh
tố, hở màng ruột, căn nguyên tâm lý, tổn thương trong khi sinh…
Lần đầu tiên mơ tả về chứng tự kỷ, Leo Kanner có xu hướng liên hệ giữa bệnh
tự kỷ với tâm lý khi cho rằng những trẻ tự kỷ có cha mẹ là người có trình độ trí tuệ
cao, thơng minh nhưng lại kém quan tâm và sống lạnh lùng với con cái.
Bruno Bettleheim cũng cho rằng trẻ bị tự kỷ là do người mẹ bỏ mặc, vì
người mẹ có học cao nên thiên về ứng xử lý trí hơn là tình cảm, sống lạnh lùng,
không yêu con. Do cách sống thờ ơ đó nên những đứa con phản ứng lại bằng
cách không muốn gần mẹ, không muốn ôm, hôn mẹ, không muốn nhìn vào mắt
mẹ và khơng nói, đồng thời trẻ cũng ứng xử như vậy với người khác. ( Cantwell,



Baker & Rutter, 1979; DeMyer, Hingtgen & Jackson, 1981) [ 41, tr.59], [ 49,
tr.9], [ 47, tr.7 ], [ 48, tr. 42]
Tuy nhiên, sau này Sutton (1996) và Pollack (1997) đã công khai phản đối
quan niệm này của Bruno Bettleheim.[ 48, tr. 43]
Ngày nay, nguyên nhân tâm lý ít được quan tâm, các nhà khoa học đi sâu
tìm kiếm các nguyên nhân thần kinh và tổn thương não trước, trong và sau khi
sinh. [ 48, tr. 85]
Cụ thể hơn những năm gần đây, nhiều ý kiến cho rằng hàm lượng thủy
ngân cao trong máu của trẻ tự kỷ liên quan đến thuốc tiêm chủng và căn nguyên
nhiễm độc thủy ngân của bệnh tự kỷ được đưa ra. Trong năm 2000, một số bác
sỹ Mỹ đã công bố kết quả hết sức sức khả quan về việc cải thiện sức khỏe tâm
thần và hành vi của trẻ tự kỷ khi tiến hành giải độc thủy ngân [40, tr.26]. Tuy
nhiên, nhiễm độc thủy ngân cho đến nay vẫn chỉ là giả thuyết vì nó chưa được
kiểm chứng khoa học nghiêm túc.
Tiếp theo, ngun nhân liên quan đến thiếu qn bình hóa chất và thiếu
sinh tố gây ra bệnh tự kỷ. Theo quan điểm này, một số trẻ tự kỷ có thể thiếu một
số hóa chất căn bản trong cơ thể như người tự kỷ cần lượng lớn B6 [40, tr.25].
Ngoài ra trẻ tự kỷ còn bị dị ứng với vài loại thực phẩm nhất định, các chất bị
nghi ngờ nhiều nhất chứa trong thức ăn là gluten trong bột mỳ và một số loại
lúa, chất casein trong sữa [41, tr.95]. Nguyên nhân thiếu qn bình hóa chất và
thiếu sinh tố gây ra bệnh tự kỷ chưa có giá trị khoa học chắc chắn. Đây chỉ là
quan điểm tham khảo mang tính giả thuyết.
Do tỷ lệ trẻ tự kỷ nam cao gấp 3 – 4 lần so với nữ, nên có giả thuyết
nguyên nhân cho rằng não bộ của trẻ có cấu tạo thiên quá mức về nam tính dễ
mắc bệnh tự kỷ hơn, bộc óc của nam thiên về tính hệ thống hóa, lý tính và lơgic
[41, tr.53]. Hiện nay giả thuyết này rất ít được quan tâm vì chưa có những lập
luận khoa học thuyết phục.



Ngày nay người ta thường thấy có một số ca đẻ khó có liên quan đến
những dị tật của đứa bé trong bụng mẹ, những dị tật có từ trong bụng mẹ của trẻ
trong q trình phát triển có thể gây ra tình trạng đẻ khó [41, tr.21]. Tỉ lệ khá
cao trẻ tự kỷ có trùng hợp với nguyên nhân xuất phát từ sinh đẻ. Tuy nhiên, theo
nghiên cứu của Lord, Mulloy, Vendelboe và Schopler (1991) không cho thấy
bệnh tự kỷ liên quan đến nguyên nhân này.
Một số tác giả nhấn mạnh căn nguyên bệnh tự kỷ do tính bất thường của
não: Nghiên cứu anh chị em trong gia đình có trẻ tự kỷ cho thấy tỉ lệ có thể từ
50% đến 100% trẻ thứ hai trong gia đình sẽ bị tự kỷ so với những trẻ đầu bình
thường (Foltein và Piven, 1991; Ritvo, 1989). Nghiên cứu cho rằng trong gia
đình có trẻ bị tự kỷ có tới 15% anh chị em của trẻ tự kỷ gặp khó khăn trong việc
học tập. Đối với cặp song sinh cùng trứng, tỉ lệ 2 trẻ cùng bị tự kỷ là 90% [40,
tr.25].
Theo hiệp hội sức khỏe tâm thần quốc tế (2007): Những nghiên cứu đang
diễn ra nhằm khảo sát liệu có phải bệnh tự kỷ ảnh hưởng đến những vùng riêng
biệt của não, hoặc có những vấn đề về sự truyền tín hiệu từ bộ phận này sang bộ
phận khác của não. Hiện nay, các nhà khoa học đang nghiên cứu những bất
thường trong những mã di truyền và những gene cụ thể để xác định vai trị mà
sự di truyền có thể có trong bệnh tự kỷ. Đây là nguyên nhân đang rất được quan
tâm trong thời điểm hiện nay vì theo các nhà khoa học, giả thuyết này được xem
là có tính thuyết phục cao.
Như vậy, với xu thế nghiên cứu hiện nay của thế giới, các nhà khoa học
tập trung vào nguyên nhân tổn thương não và thần kinh của trẻ tự kỷ. Căn
nguyên tâm lý hầu như ít được quan tâm hoặc không quan tâm. Chúng tôi cho
rằng làm như vậy có thể là sự bỏ sót đáng tiếc để có thể tìm ra ngun nhân cơ
bản của hội chứng tự kỷ.
1.2.1.3. Phân loại tự kỷ
Căn cứ vào các khiếm khuyết trong giao tiếp xã hội, có thể chia thành bốn
loại hình chính:



Nhóm xa lánh mọi người: coi người khác như khơng tồn tại, không thể
hiện một dạng cảm xúc nào, không có vẻ gì đồng cảm.
Nhóm thụ động: khơng trao đổi qua mắt nhìn nhưng khi có sự nhắc nhở
cũng có thể đáp ứng với ánh mắt của người khác.
Nhóm chủ động nhưng kỳ quặc: trẻ tích cực tiếp cận với người thân mà
không chú ý đến các bạn cùng trang lứa. Khơng chú ý gì đến cảm xúc và nhu
cầu của người đang nghe mình nói. Trẻ thường nhìn chằm chằm, có khi ơm chặt,
ghì chặt lấy người khác.
Nhóm q hình thức, khoa trương: trẻ thường bám vào các quy tắc một
cách cứng nhắc, không hiểu các ý nghĩ và cảm xúc của người khác.
Theo phân loại quốc tế DSM – IV và ICD 10, tự kỷ được phân thành hai
loại:
Tự kỷ điển hình: tự kỷ bẩm sinh, phát hiện ngay sau khi sinh hoặc rất sớm
sau sinh, chậm phát triển và có các triệu chứng xuất hiện ngay sau khi sinh đến
trước 3 tuổi.
Tự kỷ khơng điển hình: sự phát triển bất thường hoặc suy giảm, các triệu
chứng của tự kỷ chỉ biểu hiện lần đầu tiên sau 3 tuổi.
Tuy là có sự phân loại khác nhau như vậy, tựu trung lại chúng ta thấy nổi
bật lên sự khiếm khuyết trong quan hệ xã hội nói chung, đặc biệt trong giao tiếp
của trẻ tự kỷ.
1.2.1.4. Các hội chứng liên quan đến tự kỷ
Hội chứng Aspenger: người bệnh tỏ ra vụng về, sợ leo trèo, khi bước đi
vung vẩy hai tay và chúi đầu về phía trước, tư duy thực tế, tính cách kỳ quặc, trí
nhớ tốt, nhớ lâu, có thể có ám ảnh theo chủ đề. Song họ vẫn có khả năng lao
động và sống độc lập.
Hội chứng Rett: chỉ gặp ở trẻ nữ và tuổi khởi phát thường từ 7 – 24 tháng.
Với các biểu hiện lâm sàng đặc trưng như mất các hoạt động khéo léo, mất một
phần hoặc khơng phát triển ngơn ngữ, thường có các động tác đặc biệt là uốn



vẹo người, rối nhiễu chức năng vận động dễ dẫn đến co cứng. Hội chứng này
còn kèm theo sự chậm phát triển trí tuệ.
Hội chứng Landau – Klefner: được đặc trưng bởi những biểu hiện thu
mình, rập khn, hạn chế ngơn ngữ. Trẻ mắc hội chứng này đã có thời kỳ phát
triển bình thường khi cịn trước tuổi đi học, nhưng sau 6, 7 tuổi khả năng ngôn
ngữ giảm dần về vốn từ, cách diễn đạt… và được xem là trẻ tự kỷ “thoái lùi”.
Hội chứng gãy nhiễm sắc thể X: là một dạng chậm phát triển trí tuệ, trong
đó nhiễm sắc thể X có nhánh bị ngắn. Bệnh nhân có biểu hiện chậm phát triển
ngơn ngữ, tăng động, thiếu tiếp xúc mắt – mắt, hay vỗ tay. Khi trưởng thành có
thể có những nét đặc trưng nổi bật như mặt dài, tay dài…
Tâm thần phân liệt: thường xuất hiện ở tuổi lớn hơn, rất ít trẻ em được
chẩn đốn là tâm thần phân biệt trước 13 tuổi, và đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn
đoán bệnh tâm thần phân liệt.
Chậm phát triển tâm thần: họ có quan hệ với người khác, có sử dụng ngơn
ngữ để giao tiếp và các chức năng không tách biệt nhau.
Loạn thần phân rã (bao hàm hội chứng Heller, loạn thần cộng sinh, mất trí
trẻ em). Đặc điểm của rối loạn này là:
+ Có một thời kỳ phát triển bình thường từ 2 – 4 năm.
+ Tan rã hành vi.
+ Mất các kỹ năng nhận thức nặng và nhanh.
+ Mất thích thú các vật.
+ Biểu hiện thoái lùi nặng (đái dầm, ỉa đùn).
Việt Nam, tự kỷ cịn có những tên gọi khác như tự tỏa hay tự bế.
Nhưng tự kỷ là danh từ được sử dụng rộng rãi hơn cả. Trong giới hạn nghiên
cứu của tôi, tôi xin đưa ra một định nghĩa chung nhất về trẻ tự kỷ như sau:
Trẻ tự kỷ là những trẻ có những khiếm khuyến rõ rệt về 3 mặt chính sau:
khả năng giao tiếp (ngơn ngữ và phi ngơn ngữ), hành vi khác thường và kỹ năng
xã hội (kỹ năng tự phục vụ).



1.2.2. Khái niệm giao tiếp
1.2.2.1 Định nghĩa giao tiếp
nước ngoài, từ những nghiên cứu từ những góc độ khác nhau của các
tác giả đã có những định nghĩa khác nhau về giao tiếp. Nhìn nhận bản chất giao
tiếp trong hệ thống các khái niệm, phạm trù tâm lý học:
A.N.Leonchiev quan niệm rằng: “Giao tiếp là một hệ thống những quá
trình có mục đích và có động cơ bảo đảm sự tương tác giữa người này với người
kia trong hoạt động tập thể, thực hiện các quan hệ xã hội và nhân cách, các quan
hệ tâm lý và sử dụng những phương tiện đặc thù mà trước hết là ngôn ngữ”.
Như vậy, giao tiếp là 1 dạng của hoạt động, 1 dạng đặc biệt của hoạt động có đối
tượng, vì có cấu trúc và đầy đủ các đặc điểm cơ bản của hoạt động như tính chủ
thể, tính đối tượng, tính mục đích và vận hành theo nguyên tắc gián tiếp”. [4,tr
21 - 24]
B.Ph.Lomov: “Giao tiếp là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người
với tư cách là chủ thể. Với sự tác động qua lại như vậy thì giao tiếp tối thiểu
phải từ 2 người mà mỗi người trong 2 người đó phải là chủ thể”. Như vậy, giao
tiếp không phải là một dạng của hoạt động mà nó phải được xem xét như là một
phạm trù tương đối độc lập trong tâm lý học. Bởi nếu coi giao tiếp là một dạng
của hoạt động thì sẽ khơng tìm được vị trí của giao tiếp. Lomov cho rằng: hoạt
động và giao tiếp – đó là hai mặt của sự tồn tại của con người, 2 mặt này gắn bó
chặt chẽ với nhau trong một lối sống thống nhất. Hơn nữa giữa chúng ln có sự
chuyển hóa từ mặt này sang mặt kia. [10, tr 14]
Việt Nam: Trong một số bài viết, giai đoạn tâm lý học trước đây
thường dùng thuật ngữ “giao lưu” hoặc “giao tiếp” để chỉ sự tiếp xúc tâm lý và
tác động qua lại giữa con người với con người. Việc dùng thuật ngữ có khác
nhau song xét về mặt nội hàm của khái niệm thì các tác giả đều thống nhất: Giao
tiếp là quá trình hiện thực hóa các mối quan hệ xã hội giữa người với người,



trong đó bao gồm nhiều q trình diễn ra như trao đổi thông tin, nhận thức lẫn
nhau, ảnh hưởng lẫn nhau.
Các nhà tâm lý học khi nghiên cứu định nghĩa giao tiếp đều đứng ở một
góc độ nhất định – chính vì vậy họ đều có quan điểm riêng của mình.
Từ góc độ tâm lý học đại cương tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “Giao
lưu là hoạt động xác lập và vận hành các quan hệ người người để thực hiện hóa
các quan hệ xã hội giữa người ta với nhau”. [36, tr 38]
Từ góc độ giao tiếp sư phạm Ngơ Cơng Hồn định nghĩa: “Giao tiếp là
q trình tiếp xúc giữa con người với con người nhằm mục đích trao đổi tư
tưởng, tình cảm, vốn sống, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp”. [10, tr 12]
Trần Trọng Thủy và Nguyễn Sinh Huy cho rằng: “Giao tiếp của con
người là một q trình có chủ định hay khơng chủ định, có ý thức hay khơng có
ý thức mà trong đó có cảm xúc và tư tưởng được biểu đạt trong các thông điệp
ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ”. [43, tr 11 - 12]
Trong tâm lý học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn, Trần Hữu Luyến, Trần
Quốc Thành viết: “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người. Thông
qua đó con người trao đổi với nhau về thơng tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau,
ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau. Hay nói khác đi, giao tiếp xác lập và vận
hành các quan hệ người – người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể
này với chủ thể khác”. [27, tr 45] Như vậy, giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa 2
hay nhiều người thơng qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin hiểu biết,
rung cảm, ảnh hưởng qua lại với nhau, dựa vào phương tiện ngôn ngữ và phi
ngôn ngữ.
Từ các cơ sở trên, chúng tôi rút ra định nghĩa về giao tiếp như sau: Giao
tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa hai hay nhiều người thông qua đó con người trao
đổi với nhau về thơng tin, về cảm xúc, nhận thức lẫn nhau, ảnh hưởng tác động
qua lại với nhau; dựa vào phương tiện ngôn ngữ và phi ngơn ngữ, diễn ra trong
những tình huống cụ thể nhằm thực hiện mục đích của một hoạt động nhất định.



1.2.2.2. Vai trị của giao tiếp
Giao tiếp có hai vai trị chính:
Giao tiếp giúp hình thành, phát triển và vận hành các quan hệ giữa con
người với con người.
Đây là nền tảng cho sự tồn tại của xã hội bởi vì xã hội khơng phải là con số
cộng của các cá thể mà là mối quan hệ và sự tương tác của các thành viên trong xã
hội thông qua hoạt động có đối tượng và hoạt động giao tiếp. Thơng qua giao tiếp,
con người trao đổi, chia sẻ với nhau kiến thức kỹ năng và xây dựng tình đồn kết
gắn bó hợp tác với nhau. Cũng thơng qua giao tiếp con người tiếp thu nền văn hóa
của nhân loại để xây dựng một xã hội văn minh, hạnh phúc và tiến bộ. Như vậy,
giao tiếp giữa con người với con người là một trong những phương thức để hình
thành và phát triển xã hội loài người, là nhu cầu thiết yếu, là hoạt động đặc trưng
cho mối quan hệ của con người với nhau.
Giao tiếp góp phần tạo nên nhân cách con người trong xã hội.
Ngày nay, giao tiếp càng có vai trị quan trọng trong xã hội hiện đại.
Người ta ngày càng thừa nhận nó như là một điều kiện quan trọng để phát triển
đối với cá nhân cũng như đối với cộng đồng. Thông qua các phương tiện như
đài, báo, phát thanh truyền hình… lượng thơng tin văn hóa nhất định được
chuyển tải tới mọi người, tới tập thể và làm ảnh hưởng tới cuộc sống cá nhân
cũng như sự phát triển chung của xã hội. Tuy nhiên, dù các phương tiện truyền
thơng có tiến bộ đến đâu cũng không thể thiếu được trong cuộc sống của con
người. Thơng qua giao tiếp trực tiếp xúc cảm, tình cảm, thái độ… của mọi người
được bộc lộ, quá trình tiếp xúc tâm lý, tác động lẫn nhau được thực hiện một
cách cụ thể và mạnh mẽ. Cũng chính trong quá trình những người tham gia giao
tiếp tự điều chỉnh mình.
Giao tiếp có vai trị quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân
cách của trẻ. Qua giao tiếp, con người hình thành nên những mối quan hệ xã hội.



×