Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

(Luận văn thạc sĩ) hồ chí minh với cuộc vận động sự ủng hộ quốc tế trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp (1946 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 166 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***

TRẦN THỊ MAI DUNG

HỒ CHÍ MINH VỚI CUỘC VẬN ĐỘNG
SỰ ỦNG HỘ QUỐC TẾ TRONG CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(1946 - 1954)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2010
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***

TRẦN THỊ MAI DUNG

HỒ CHÍ MINH VỚI CUỘC VẬN ĐỘNG
SỰ ỦNG HỘ QUỐC TẾ TRONG CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP

(1946 - 1954)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng
Mã số: 60 22 56



Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. Lê Văn Yên

Hà Nội - 2010
2


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, tài liệu được nêu trong luận văn là trung thực, bảo đảm tính khách
quan, khoa học. Các tài liệu tham khảo đều có xuất xứ rõ ràng.
Luận văn có sự kế thừa các cơng trình nghiên cứu của những người đi
trước, có sự bổ sung thêm những tư liệu mới và chưa được cơng bố trong bất
kỳ cơng trình nào khác.
Hà Nội, ngày 25 tháng 12 năm 2010
Tác giả luận văn
Trần Thị Mai Dung

3


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành Luận văn, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tơi cịn nhận
được sự giúp đỡ của rất nhiều người. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới
các thầy, cô giáo trong Khoa Lịch sử - Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn đã nhiệt tình giảng dạy, trang bị những kiến thức rất bổ ích cho tơi.
Các cán bộ, nhân viên Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện Hà Nội, Trung
tâm lưu trữ quốc gia III đã tạo điều kiện cho tơi khai thác tài liệu. Đặc biệt,

tơi muốn nói lời cảm ơn tới thầy giáo PGS. TS Lê Văn Yên, người đã trực
tiếp hướng dẫn tơi trong q trình thực hiện Luận văn.

4


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: Hồ Chí Minh với cuộc vận động quốc tế
trong những năm đầu toàn quốc kháng chiến (1946-1949)
1.1. Chủ trương đối ngoại và chính sách tập hợp lực lượng bên ngoài
trong buổi đầu của cuộc kháng chiến

8

1.2. Hoạt động đối ngoại nhằm nối lại đàm phán hòa bình, tranh thủ
sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân Pháp

19

1.3. Hoạt động đối ngoại tăng cường quan hệ quốc tế, phá thế bao vây

33

Chương 2: Hồ Chí Minh với cuộc vận động quốc tế
trong những năm 1950-1954
2.1. Chính sách đối ngoại và vận động quốc tế thời kỳ mới


48

2.2. Hoạt động đối ngoại tranh thủ sự ủng hộ của các nước xã hội chủ
nghĩa và các lực lượng cách mạng thế giới

61

2.3. Hoạt động đối ngoại và vận động quốc tế kết thúc chiến tranh, lập
lại hịa bình ở Việt Nam

81

Chương 3: Bài học kinh nghiệm và ý nghĩa thực tiễn
trong công cuộc đổi mới hiện nay
3.1. Những bài học kinh nghiệm

95

3.2. Vận dụng trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay

110

KẾT LUẬN

119

TÀI LIỆU THAM KHẢO

121


PHỤ LỤC

131

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu một cuộc cách mạng cần phải chú ý đến nhiều phương diện,
trong đó, đường lối chính trị cùng với phương pháp cách mạng được xem là hai
lĩnh vực chủ yếu quyết định sự thành công và thất bại của cách mạng. Cuộc kháng
chiến chống Pháp giành thắng lợi đã chứng minh cho sự kết hợp tài tình giữa
đường lối đúng đắn và phương pháp cách mạng thích hợp. Góp phần vào thắng lợi
đó, phải kể đến chủ trương vận động, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh là người xây dựng những cơ sở đầu tiên và cũng là người hoạt động
tích cực nhất.
Cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp của nhân dân Việt Nam
diễn ra trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai vừa kết thúc, trong xu thế phát
triển của thời đại mới được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga. Hệ thống xã
hội chủ nghĩa trên thế giới hình thành và phát triển; phong trào giải phóng dân tộc
lớn mạnh đánh phá hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân đế quốc; phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của các
đảng cộng sản ở các nước tư bản tấn công quyết liệt vào chủ nghĩa tư bản độc
quyền. Tất cả các dịng thác cách mạng đó biểu hiện tập trung sức mạnh của thời
đại - một sức mạnh chưa từng có trong lịch sử lồi người. Xác định cách mạng
Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới, đặt cách mạng Việt Nam trong cục
diện chung của thế giới và trong xu thế phát triển của thời đại, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln chú trọng tăng cường đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh thời đại, coi

đó là nhân tố quan trọng, góp phần tạo nên thắng lợi của dân tộc Việt Nam. Trong
hoạt động thực tiễn, Người đã tập hợp ngày càng rộng rãi lực lượng cách mạng,
lực lượng tiến bộ thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta, tăng
cường và mở rộng không ngừng hậu phương của ta trên phương diện quốc tế, làm
suy yếu hậu phương địch.
Việc nghiên cứu và làm vai trị của Hồ Chí Minh trong vận động sự ủng hộ
quốc tế đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn quan trọng. Khơng chỉ góp phần tổng kết những kinh nghiệm về nhận
1


thức, tư tưởng trong chỉ đạo và hoạt động vận động quốc tế của Người mà còn tạo
cơ sở cho việc hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong sự
nghiệp đổi mới hiện nay: đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với ý nghĩa đó, chúng tơi đã chọn đề tài “Hồ Chí Minh với cuộc vận động
sự ủng hộ quốc tế trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954)”
làm luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại của thế kỷ XX. Ở Việt Nam cũng như
ở nước ngồi đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp cũng như
những cống hiến của Người đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới
với những khía cạnh và nội dung khác nhau. Các hướng chính cụ thể như sau:
Thứ nhất, những tác phẩm của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước chủ
yếu nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp, đánh giá những đóng góp của Người đối
với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Có thể kể đến các tác phẩm, như:
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc (Nxb. Sự thật, H,1986)
của đồng chí Lê Duẩn; Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp
chúng ta (Nxb. Thông tin lý luận, H,1991) của đồng chí Trường Chinh; Hồ Chí
Minh, một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp (Nxb. Sự thật,

H,1990), Hồ Chí Minh quá khứ, hiện tại và tương lai (Nxb. Sự thật, H,1992) của
đồng chí Phạm Văn Đồng; Những năm tháng không thể nào quên (Nxb. Quân đội
nhân dân, H,1974) của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, v.v... Những tác phẩm trên chỉ
mới đề cập đến một cách khái quát hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tiến
trình lịch sử, bao gồm những nét lớn về tư tưởng và hoạt động quốc tế của Người.
Thứ hai, công trình nghiên cứu của các cơ quan khoa học như Viện Nghiên
cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,... với những tác phẩm tiểu biểu, như:
Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử (10 tập) (Nxb. Chính trị quốc qia, H,2004 và
2009); Hồ Chí Minh - Tiểu sử (Nxb. Chính trị quốc gia, H,2009) trình bày chi tiết
và cụ thể cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh... Ngồi ra còn
2


có các sách giáo trình, như Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam của Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh và của Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng đề cập đến hoạt động
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng trong các thời kỳ cách mạng. Tuy nhiên, với
thể loại là tiểu sử, văn kiện và giáo khoa nên hoạt động quốc tế của Người chưa
được đề cập rõ ràng và hệ thống.
Thứ ba, những hội thảo chuyên đề về Chủ tịch Hồ Chí Minh được tập hợp
trong các kỷ yếu. Hội thảo kỷ niệm 90 năm ngày sinh của Người tập hợp được 65
cơng trình; Hội thảo quốc tế nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người được
tuyển chọn trong cuốn Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh (Nxb. Khoa học
xã hội, H,1990); Hội thảo quốc tế năm 1995 về Chủ tịch Hồ Chí Minh do Trung
tâm Khoa học - Xã hội và Nhân văn quốc gia và Ủy ban Quốc gia UNESCO tổ
chức với kỷ yếu Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn
hóa lớn. Gần đây nhất là Hội thảo kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí
Minh do Học viện Chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì đã thu hút
nhiều các học giả trên thế giới về tham dự với hơn 120 tham luận.
Những bài nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên các tạp chí Lịch sử

Đảng, Cộng sản, Nghiên cứu Lịch sử, Lịch sử qn sự, Thơng tin lý luận... đều góp
phần nghiên cứu thân thế và sự nghiệp cách mạng của Người.
Thứ tư, những tác phẩm chuyên khảo về hoạt động quốc tế và ngoại giao của
Hồ Chí Minh, như: Chủ tịch Hồ Chí Minh với cơng tác ngoại giao (Nxb. Sự thật,
H,1990) của Viện Quan hệ quốc tế - Bộ Ngoại giao; Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh (Nxb. Chính trị quốc gia, H,2008) của nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn
Dy Niên; Hồ Chí Minh với cơng tác ngoại giao (Nxb. Chính trị quốc gia, H,2010)
của nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Vũ Khoan; Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh
về một số vấn đề quốc tế (Nxb. Chính trị quốc gia, H,1995), Chiến sĩ quốc tế Hồ
Chí Minh - Hoạt động thực tiễn và lý luận cách mạng (Nxb. Chính trị quốc gia,
H,2010) của GS. Phan Ngọc Liên… Các tác phẩm đã hệ thống hóa rõ nét cuộc đời
hoạt động và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bao gồm những nét lớn hoạt
động ngoại giao, vận động quốc tế của Người qua hai cuộc kháng chiến.

3


Thứ năm, những tác phẩm luận án nghiên cứu về vai trị cá nhân Hồ Chí Minh
trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Có thể kể đến các tác phẩm như: Đường lối
kháng chiến chống thực dân Pháp trong giai đoạn 1945-1954 - Vai trị của Hồ Chí
Minh trong việc hoạch định và tổ chức thực hiện của tác giả Nguyễn Minh Đức;
Hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống thực dân
Pháp của tác giả Đặng Văn Thái; Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945-1954) của tác giả Nguyễn Văn Sơn... Nhìn chung, các tác
phẩm trên đã làm sáng rõ vai trị lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kháng
chiến chống Pháp. Trong đó, đáng chú ý là hai cơng trình nghiên cứu về hoạt động
ngoại giao của Người.
Chín năm kháng chiến chống Pháp khơng phải là một thời gian dài, song lại
có nhiều vấn đề phức tạp về ngoại giao. Trong khuôn khổ một luận án, các tác giả
khơng có điều kiện đi sâu từng vấn đề.

Trong luận án Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945-1954), tác giả Nguyễn Văn Sơn lựa chọn hai mốc thời gian là những năm
đầu sau Cách mạng tháng Tám và những năm cuối của cuộc kháng chiến mà tác
giả cho là hai cao điểm quan trọng nhất trong cuộc đấu tranh ngoại giao giữa Việt
Nam với Pháp. Trên cơ sở đó, tác giả chia luận án thành ba chương, trong đó,
chương 1 tập trung vào hoạt động của ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946; chương 2 tập trung vào cuộc đấu tranh
ngoại giao giữa Việt Nam và Pháp tại Hội nghị Giơnevơ; chương 3, tác giả rút ra
một số nhận xét về cuộc đấu tranh ngoại giao giữa Việt Nam và Pháp thời kỳ
1945-1954.
Trong luận án Hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kháng
chiến chống thực dân Pháp, tác giả Đặng Văn Thái chia luận án thành ba chương.
Trong chương 1, tác giả nghiên cứu hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh cũng
như Đảng và Nhà nước ta trong những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám (19451946) nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc. Chương 2, tác giả nghiên cứu hoạt
động đối ngoại của Hồ Chí Minh trong những năm 1946-1950 với hai với nét lớn:
Hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh nhằm dàn xếp quan hệ Việt - Pháp bằng
4


đàm phán và hoạt động ngoại giao nối lại quan hệ với Liên Xô, Trung Quốc.
Chương 3, tác giả nghiên cứu hoạt động ngoại giao Hồ Chí Minh những năm 19501954 góp phần kết thúc thắng lợi kháng chiến chống thực dân Pháp với hai nét lớn:
Hoạt động ngoại giao tăng cường quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, củng cố
khối Liên minh Việt - Miên - Lào và đấu tranh ngoại giao trong Hội nghị Giơnevơ
góp phần kết thúc chiến tranh, lập lại hịa bình ở Việt Nam. Tác phẩm cũng có đề
cập khái quát, ngắn gọn một số nét về tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.
Do đặc thù của từng đối tượng nghiên cứu, các luận án tập trung nghiên cứu
ở những khía cạnh khác nhau. Khai thác về phương diện vận động quốc tế và dư
luận quốc tế thông qua hoạt động cụ thể của Hồ Chí Minh vẫn cịn khá mờ nhạt.
Nhìn chung, nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng
như vai trị cá nhân Hồ Chí Minh nói chung và trong thời kỳ kháng chiến chống

Pháp nói riêng được nhiều cơ quan, giới khoa học và các cá nhân quan tâm. Các
cơng trình trên tạo điều kiện cho tác giả luận văn kế thừa thành quả của các tác giả
về nội dung và phương pháp. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có cơng trình chun
biệt nào làm rõ vai trị của Hồ Chí Minh trong vận động sự ủng hộ quốc tế thời kỳ
kháng chiến chống Pháp 1946-1954.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích sự thay đổi bối cảnh lịch sử thời kỳ 1945-1954, luận văn
làm rõ hoạt động cụ thể của Hồ Chí Minh về vận động quốc tế và sự ủng hộ quốc
tế với tư cách là kết quả của q trình hoạt động đó. Từ đó, luận văn rút ra những
bài học kinh nghiệm có thể vận dụng trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Tập hợp và hệ thống những tư liệu có liên quan đến bối cảnh quốc tế và
hoạt động quốc tế của Hồ Chí Minh cũng như của Đảng và Nhà nước ta trong
kháng chiến chống Pháp;
- Trình bày những tư liệu đó qua các thời kỳ lịch sử gắn liền với điều kiện
không thời gian lịch sử;

5


- Phân tích chủ trương và hoạt động cơ bản của Hồ Chí Minh trong q trình
thực hiện vận động quốc tế phục vụ mục tiêu cách mạng Việt Nam;
- Làm rõ dư luận quốc tế và sự ủng hộ quốc tế đối với cuộc kháng chiến của
nhân dân ta.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm trong quan hệ quốc tế, vận dụng vào
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan điểm cùng hoạt động của Hồ Chí

Minh trong thực hiện vận động các lực lượng quốc tế ủng hộ cách mạng Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu chủ trương và hoạt động đối ngoại của Hồ Chí
Minh nhằm vận động sự ủng hộ quốc tế trong cuộc kháng chiến chống Pháp
(1946-1954). Những sự kiện được trình bày ở luận văn là những sự kiện quan
trọng, tiểu biểu, thể hiện được quan điểm chiến lược, sách lược trong vận động sự
ủng hộ quốc tế đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Hồ Chí Minh,
cũng như Đảng và Nhà nước ta.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, trong quá
trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp chuyên ngành
của khoa học lịch sử như phương pháp lịch sử, phương pháp lơgic, so sánh, phân
tích, tổng hợp, mơ tả,… nhằm tái hiện chân thực và khách quan đối tượng nghiên
cứu; từ đó rút ra những kết luận đúng đắn nhất.
5.2. Nguồn tài liệu nghiên cứu
Trong luận văn, chúng tôi đã sử dụng một số nguồn tài liệu chủ yếu sau:
Thứ nhất, các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bộ Hồ Chí
Minh tồn tập (Xuất bản lần thứ hai) là nguồn tài liệu trực tiếp, quan trọng;
Thứ hai, các văn kiện của Đảng, Nhà nước, các tài liệu lưu trữ là nguồn tài
liệu đáng tin cậy.
6


Thứ ba, các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các tác giả trong và
ngoài nước; các tài liệu sách báo và các tác phẩm hồi ký là những nguồn tài liệu
tham khảo.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn, trên cơ sở nguồn tư liệu, khôi phục tồn diện q trình hoạt động
của Hồ Chí Minh vận động ủng hộ quốc tế nhằm mục tiêu độc lập cho dân tộc, tự

do cho nhân dân;
- Làm rõ sự ủng hộ quốc tế đối cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam;
- Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản mang tính chiến lược trong quan hệ
quốc tế; đó là những quan điểm mang tính định hướng, có ý nghĩa thực tiễn trong
giai đoạn ngày nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Hồ Chí Minh với cuộc vận động quốc tế trong những năm
đầu toàn quốc kháng chiến (1946-1949)
Chương 2: Hồ Chí Minh với cuộc vận động quốc tế trong những năm
1950-1954
Chương 3: Bài học kinh nghiệm và ý nghĩa thực tiễn trong công cuộc đổi
mới hiện nay
Mặc dù rất cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài, nhưng do trình độ và
kinh nghiệm chưa nhiều nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong
sự đóng góp ý kiến của thầy cơ, bạn bè để luận văn của tơi được hồn thiện hơn.

7


Chương 1
HỒ CHÍ MINH VỚI CUỘC VẬN ĐỘNG QUỐC TẾ TRONG
NHỮNG NĂM ĐẦU TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN
(1946-1949)
1.1. Chủ trương đối ngoại và chính sách tập hợp lực lượng bên ngồi trong
buổi đầu của cuộc kháng chiến
1.1.1. Bối cảnh lịch sử
1.1.1.1. Tình hình thế giới và thái độ các nước lớn đối với Việt Nam
Tình hình thế giới những năm đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai có những
diễn biến phức tạp, tác động tới cuộc kháng chiến của nhân dân ta.

Chính sách của Mỹ: Đế quốc Mỹ đứng đầu phe đế quốc triển khai chiến lược
toàn cầu. Tháng 3-1947, Tổng thống Truman đọc diễn văn trước Quốc hội, chính
thức đề ra cái gọi là “sứ mệnh lịch sử” của Mỹ là lãnh đạo thế giới “tự do” và
“giúp đỡ” các dân tộc trên thế giới chống lại sự “bành trướng” của nước Nga, bằng
mọi biện pháp kinh tế, quân sự. Với sự ra đời của chủ nghĩa Truman, mối quan hệ
đồng minh giữa Liên Xô, Mỹ và các nước phương Tây trong thời kỳ chiến tranh
chống phát xít đã tan vỡ, thay vào đó là “Chiến tranh lạnh” với sự đối đầu giữa hai
cực và hai khối Đông - Tây.
Ở châu Á và Đơng Nam Á, Mỹ đóng vai trị chi phối hịa bình và an ninh khu
vực bằng chính sách thực dân mới. Mục tiêu của Mỹ là củng cố vai trị lãnh đạo
của mình đối với Nhật Bản và khu vực ảnh hưởng ở Đông Bắc Á, Đơng Nam Á và
Nam Thái Bình Dương, thực hiện chiến lược phong tỏa Liên Xơ về phía Đơng;
đồng thời đối phó với phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc, thoát khỏi ách
thống trị của chủ nghĩa đế quốc, thực dân.
Chính sách của Mỹ đối với Đơng Dương lúc này là từ chối thừa nhận nền
độc lập của Việt Nam và Chính phủ Hồ Chí Minh mà ủng hộ Pháp.
Từ giữa tháng 11-1945 đến tháng 3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần
gửi điện và thư cho Tổng thống, Bộ trưởng Ngoại giao, Ủy ban Đối ngoại Thượng
viện Mỹ với những lời khẩn thiết kêu gọi sự ủng hộ chính trị đối với nền độc lập
8


của Việt Nam trên cơ sở Hiến chương Đại Tây Dương, nhưng không nhận được lời
hồi đáp; bởi Mỹ cho rằng “sẽ khơng có lợi gì trong việc nền cai trị đế quốc thực
dân lại được thay thế bởi nền triết lý và các tổ chức chính trị bắt nguồn từ Kremlin
và do Kremlin kiểm soát” [1, tr. 732]. Bản Chỉ thị gửi các nhà ngoại giao Mỹ ở
Pari, Hà Nội và Sài Gòn ngày 13-5-1947 thể hiện rõ nét chính sách của Chính phủ
Mỹ đối với Đơng Dương là“nhất thiết phải cùng thuyền cùng hội với người Pháp”,
bởi “sự liên kết chặt chẽ giữa Pháp và các thành viên trong Liên hiệp Pháp khơng
phải chỉ có lợi cho các nước liên qn, mà cịn có lợi cho chúng ta một cách gián

tiếp” [1, tr. 733].
Thái độ của Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân: Liên Xô và các nước
dân chủ nhân dân đang bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến
tranh, bước đầu giành được những thành tựu quan trọng. Liên Xô thực hiện hồn
thành vượt mức kế hoạch khơi phục kinh tế trong 4 năm 3 tháng bằng chính nguồn
tài nguyên trong nước. Năm 1949, Liên Xô đã chế tạo thành công bom nguyên tử,
phá vỡ thế độc quyền về bom nguyên tử của Mỹ. Năm 1950, sản lượng công
nghiệp của Liên Xô tăng 73% so với trước chiến tranh. Các nước dân chủ nhân dân
như Anbani, Ba Lan, Bungari, Hunggari, Nam Tư, Rumani, Tiệp Khắc... đã lần
lượt hồn thành cơng cuộc cách mạng dân chủ nhân dân và bước vào thời kỳ quá
độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, đạt được những thành tựu lớn trên các phương diện
kinh tế, chính trị, xã hội.
Tuy nhiên, Liên Xơ và các lực lượng dân chủ tiến bộ cũng chịu ảnh hưởng
bởi chính sách toàn cầu của Mỹ. Việc phát động Chiến tranh lạnh, triển khai học
thuyết Truman và kế hoạch Marshall, giai cấp tư sản và các thế lực phản động trên
thế giới tiến hành một chiến dịch phản công quyết liệt chống lại Liên Xơ, các lực
lượng dân chủ hịa bình và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Mỹ và đồng
minh ra sức gây căng thẳng buộc Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu
phải tham gia vào cuộc chạy đua với Mỹ cả về kinh tế và quân sự.
Để đối phó với âm mưu của Mỹ và các thế lực thù địch, Liên Xô, một mặt,
phải tập trung khôi phục, phát triển kinh tế, tăng cường khả năng quốc phòng; mặt
khác, giúp đỡ các nước Đơng Âu - vành đai phía Tây của Liên Xô củng cố chế độ
9


dân chủ nhân dân. Với những vấn đề quan trọng đó ở tuyến đầu, vấn đề Việt Nam và
Đơng Dương chưa thể quan tâm đến. Một số tài liệu mới cơng bố gần đây đã làm rõ
chính sách của Liên Xô đối Việt Nam và Đông Dương trong suốt thời gian dài.
Liên Xô theo dõi sát diễn biến cách mạng ở Đông Dương. Chỉ một tuần sau
Cách mạng Tháng Tám, ngày 20-8-1945, V.G. Đêkanơdơv - Phó Dân ủy ngoại

giao Liên Xô - đã nhận được một bản báo cáo viết tay của A.B. Bôgômôlôv - Đại
sứ Liên Xô tại Pháp - về tình hình Đơng Dương. Báo cáo nêu lên âm mưu của
Pháp đối với các nước thuộc địa cũ, đồng thời đề nghị Chính phủ Liên Xơ can
thiệp để có thể trao Đơng Dương nền độc lập cùng với việc đặt Đông Dương dưới
sự bảo hộ của Ủy ban quốc tế gồm Mỹ, Anh, Liên Xô, Pháp và Trung Quốc. Khi
báo cáo cùng đề xuất nói trên được chuyển về cho C.B. Kơdưrev - Chủ nhiệm văn
phịng châu Âu I, V.G. Đêkanôdôv đã đưa ra ý kiến như sau: “Theo tôi được biết,
chúng ta không giữ lập trường như vậy trong vấn đề này. Đồng chí Mơlơtốp, trong
buổi trao đổi với Katơru (Đại sứ Pháp tại Mátxcơva lúc đó) cách đây không lâu đã
đưa ra câu trả lời rõ ràng về vấn đề này” [74, tr. 211].
Sau đó, trong các tháng 9, 10 năm 1945, Mátxcơva liên tiếp nhận được
những bức điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Chính phủ Liên Xơ thơng báo về
tình hình Việt Nam và cuộc gây hấn của Pháp nhưng câu trả lời của Mátxcơva
trong trường hợp này là không trả lời. Thế là cơng văn chính thức, khẩn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh được đưa vào kho lưu trữ. Những năm tiếp sau đó, Chính phủ
Hồ Chí Minh vẫn khơng nhận được sự giúp đỡ từ phía Liên Xơ cũng như các nước
dân chủ Đông Âu khác. “Không được thế giới cộng sản biết tới”, Hồ Chí Minh
phải chấp nhận những “hiệp định” khá mong manh với Pháp để tranh thủ tối đa
thời gian hịa hỗn, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Thái độ của Trung Quốc: Nước láng giềng phía Bắc của Việt Nam, Trung
Quốc đang trong tình trạng “nước sôi lửa bỏng”. Nội chiến bùng nổ chấm dứt thời
kỳ Quốc - Cộng hợp tác lần thứ hai (1945-1947). Với sự giúp đỡ của Mỹ, Tưởng
Giới Thạch đã huy động mọi lực lượng quyết tâm tiêu diệt Đảng Cộng sản Trung
Quốc, bởi sự lớn mạnh của Cộng sản nước này sẽ là nguy cơ lớn đối với Mỹ. Do
đó, trước khi cách mạng Trung Quốc thành công, Đảng Cộng sản Trung Quốc phải
10


tập trung lực lượng để giành thắng lợi trong cuộc nội chiến nên chưa có điều kiện
giúp cuộc kháng chiến của nhân dân ta.

Tình hình các nước trong khu vực: Các nước trong khu vực như Inđônêxia,
Malayxia, Miến Điện... đều bị các nước thực dân Anh, Hà Lan tái chiếm. Đặc biệt,
hai nước láng giềng phía Tây là Lào và Campuchia bị thực dân Pháp chiếm đóng
trở lại và dùng làm bàn đạp để bao vây, tấn công ta; các vùng biển phía Đơng và
phía Nam đều bị hạm đội Anh khống chế.
Nhìn chung, thế giới trong những năm đầu kháng chiến có nhiều bất lợi cho
ta: Liên Xơ và các nước dân chủ nhân dân - lực lượng đấu tranh và ủng hộ hịa
bình, dân chủ thế giới vẫn đang trong quá trình phục hồi, củng cố nội lực; Trung
Quốc và các nước trong khu vực đang tự cố gắng giải quyết vấn đề của mình. Bạn
đồng minh của ta trước kia là Mỹ đã triển khai chiến lược tồn cầu phản cách
mạng, coi Đơng Dương là vị trí trọng yếu trong thực hiện chiến lược phòng thủ
chống cộng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chúng đang câu kết và ủng hộ
thực dân Pháp quyết tâm xâm chiếm nước ta một lần nữa. Việt Nam hoàn tồn cơ
lập khi bước vào cuộc kháng chiến. Đó là thử thách hết sức gay go, quyết liệt đối
Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
1.1.1.2. Chiến tranh bùng nổ và tính chất cuộc kháng chiến
Những cố gắng của Việt Nam trong lựa chọn phương án đàm phán hịa bình
để kết thúc xung đột Việt - Pháp đã bị thực dân Pháp hiếu chiến phá hoại. Ngày 711-1946, D’Argenlieu - Cao ủy Pháp ở Đông Dương - ngang nhiên gửi cơng hàm
cho Chính phủ ta khẳng định “Nam Bộ là đất của Pháp” và cho rằng “Ủy ban Hành
chính Nam Bộ là bất hợp Pháp”. Ngày 20-11-1946, chúng đồng thời gây hấn ở Hải
Phịng và đánh chiếm các vị trí quan trọng ở Lạng Sơn, đổ bộ vào Đà Nẵng. Ngày
22-11-1946, Valluy - Tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương - đã gửi một bức điện
về Pari nhằm “đánh lạc hướng” Chính phủ Pháp. Bức điện nói rõ “những tin tức
thu nhận được cũng như các tài liệu bắt được xác nhận rằng sự việc này đã được
các nhà chức trách Việt Nam sắp đặt tỷ mỷ và trách nhiệm gây hấn rõ ràng khơng
nghi ngờ gì nữa thuộc về phía họ” [76, tr. 291]. Tiếp đó, Valluy đã chỉ thị trực tiếp
cho Đại tá Dèbes đang đóng quân ở Hải Phòng “cần thiết phải lợi dụng vụ rắc rối
11



đó để củng cố thêm vị trí Hải Phịng của chúng ta” [76, tr. 292] bằng cách đưa ra
những điều kiện buộc Chính phủ Hồ Chí Minh phải chấp thuận: Tồn bộ lực lượng
chính quy và bán qn sự của ta phải rút khỏi Hải Phòng và quân đội Pháp được tự
do đóng quân trong thành phố.
Từ tháng 12 trở đi, tình hình trở nên căng thẳng. Ngày 16-12-1946, quân
Pháp gây hấn ở Hà Nội, bắn giết dân thường, đánh vào các điểm đề kháng của ta,
tiến công chiếm nhiều trụ sở cơ quan Chính phủ. Ngày 18 và ngày 19-12-1946,
thực dân Pháp đã liên tiếp gửi tối hậu thư địi ta phải bỏ cơng sự và địi để chúng
kiểm soát, giữ trật tự trong thành phố Hà Nội. Chúng tuyên bố sẽ hành động bằng
sức mạnh quân sự nếu chúng ta khơng thực hiện các u sách đó.
Trước tình hình khẩn cấp, từ ngày 11-12-1946, Hội đồng Chính phủ đã họp
điểm lại tình hình quân sự, ngoại giao và nhận định thời kỳ nhân nhượng của Việt
Nam đã chấm dứt. Tuy vậy, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn kiên trì biện
pháp cuối cùng để cứu vãn nền hịa bình. Ngày 18-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
thơng qua J.Sainteny gửi điện khẩn cấp đến Chính phủ và Quốc hội Pháp đề nghị
chấm dứt ngay cuộc xung đột Việt - Pháp. Sáng ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cịn gửi thư riêng cho J.Sainteny, đề nghị ơng ta có cuộc gặp gấp với Bộ
trưởng Ngoại giao Hồng Minh Giám nhằm “tìm một giải pháp để cải thiện bầu
khơng khí hiện tại” [118, tr. 1] nhưng J.Sainteny từ chối. Ngay ngày hơm đó, Pháp
gửi tối hậu thư (cuối cùng) ngang ngược địi tước vũ khí lực lượng vũ trang của ta,
đòi những điều kiện phải được thi hành ngay lập tức, chậm nhất là vào sáng ngày
20-12-1946.
20 giờ tối ngày 19-12-1946, sau khi Thường vụ Trung ương Đảng và lãnh
đạo chủ chốt các Bộ họp, đã đi đến quyết định phát động cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược trên toàn quốc. Ngay sau tiếng súng báo hiệu toàn quốc
kháng chiến bùng nổ, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã truyền đi khắp cả nước: “Chúng ta muốn hịa bình, chúng ta phải nhân
nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng
quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” [64, tr. 480].

12


Rõ ràng, cuộc kháng chiến chỉ được quyết định khi khả năng hịa hỗn khơng
cịn, khi mà mọi nẻo đường hịa bình thương lượng để tránh một cuộc chiến tranh
nhằm bảo vệ độc lập, thống nhất đã bị thực dân Pháp cự tuyệt, vì chúng quyết
dùng vũ lực để xâm lược và đặt ách thống trị thực dân trên đất nước ta và tồn bán
đảo Đơng Dương. “Dân tộc Việt Nam nay bị đặt trước hai đường: một là khoanh
tay cúi đầu trở lại nô lệ, hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập”
[64, 483].
Nguồn gốc sâu sa và nguyên nhân trực tiếp của cuộc chiến tranh hoàn toàn
xuất phát từ dã tâm xâm lược và chính sách thực dân hiếu chiến của bọn phản động
Pháp, có sự đồng tình, ủng hộ của các thế lực đế quốc, phản động khác. Trong Thư
gửi nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và các nước Đồng minh, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu rõ tội ác của thực dân Pháp, khẳng định tính chất chính nghĩa cuộc
kháng chiến của nhân dân ta và nhấn mạnh “bọn phản động Pháp lại dày xéo lên
những bản Hiến chương Đại Tây Dương và Cựu Kim Sơn. Họ đang gây chiến
tranh xâm lược ở Việt Nam. Họ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm” [64, tr. 484].
Có thể nói, chiến đấu vì chính nghĩa, cho độc lập tự do, đó là sức mạnh và
cũng là lợi thế duy nhất khi bước vào cuộc kháng chiến dường như bị cơ lập hồn
tồn với thế giới bên ngồi. Giương cao ngọn cờ chính nghĩa, cuộc kháng chiến
của nhân dân Việt Nam vì thế hòa nhịp vào xu thế chung của thời đại.
1.1.2. Chủ trương đồn kết quốc tế và chính sách tập hợp lực lượng bên ngoài
Cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược khởi đầu trong vòng vây hãm
của thế lực thù địch và trong một thời gian dài phải chiến đấu đơn độc không được
sự giúp đỡ, ủng hộ của các lực lượng cách mạng bên ngoài, kể cả Liên Xơ và
Trung Quốc. Chính lúc này, lãnh đạo Đảng và Chính phủ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh ln vững tin vào sức mạnh của toàn dân tộc với đường lối kháng chiến
tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính. Trước đây, trong Lời hiệu triệu, Hồ
Chí Minh đã phân tích rõ: “…trường kỳ kháng chiến và toàn dân kháng chiến bằng

quân sự (dũng cảm, kỷ luật), bằng chính trị (đồn kết, trật tự), bằng kinh tế (tăng
gia, sản xuất), bằng ngoại giao (thêm bạn, bớt thù), trước hết là bằng tinh thần: bại
không nản, thắng không kiêu, thua trận này đánh trận khác, được trận này không
13


chểnh mảng, chung sức, đồng tâm, nhất trí, giữ gìn trật tự, tuân theo mệnh lệnh của
Chính phủ. Như thế, mà phải nhất định như thế, thì chúng ta mới được thắng lợi và
giành được độc lập hoàn toàn” [64, tr. 188].
Hồ Chí Minh ln động viên trong nhân dân niềm tin vào thắng lợi, bởi một
lẽ đơn giản, nhân dân ta vì chính nghĩa mà chiến đấu. Người nói: “Chỉ phe nào vì
chính nghĩa mà chiến đấu, phe ấy mới có đủ điều kiện nhân hịa... Trong khi chiến
đấu, chúng ta được dân chúng ủng hộ, nhất định chúng ta được dư luận thế giới tán
đồng, nhất định chúng ta sẽ thắng” [64, tr. 463].
Vững tin bước vào cuộc chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đặt cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam và Đông Dương trong phong trào giải phóng dân
tộc và các trào lưu của nhân loại tiến bộ trên thế giới, nêu cao đường lối đồn kết
quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới.
Bối cảnh quốc tế và tương quan lực lượng trên thế giới, khu vực được Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng phân tích, đánh giá một cách chính xác là cơ sở khách
quan của đường lối trên. Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương ngày 31-7-1946
từng chỉ rõ:
Địa vị Đông Dương hiện nay trở nên rất quan trọng trên trường cách mạng
quốc tế vì:
“a) Bên cạnh nách trung tâm điểm cách mạng Á Châu (Tàu).
b) Trong phạm vi trung tâm điểm những mâu thuẫn giữa các nước đế quốc
chủ nghĩa (trước ở Trung Quốc, nay chuyển xuống Đông Nam Á).
c) Là nơi đế quốc Anh, Mỹ, Pháp chú trọng dàn xếp để bố trí chiến tuyến
chống cộng và uy hiếp phong trào cách mạng giải phóng của các nhược tiểu dân
tộc [24, tr. 99].

Ngay khi chiến tranh nổ ra, ngày 22-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng cơng bố rộng rãi Chỉ thị Tồn dân kháng chiến1 khái quát một cách cơ bản
đường lối kháng chiến để thống nhất chỉ đạo trong toàn Đảng, toàn dân, kịp thời
chuyển sang giai đoạn mới. Chỉ thị nêu rõ:

1. Chỉ thị Toàn dân kháng chiến được viết xong ngày 12-12-1946.

14


Về mục đích kháng chiến: “Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành
thống nhất và độc lập”.
Về tính chất kháng chiến: “Trường kỳ kháng chiến, toàn diện kháng chiến”.
Về lực lượng kháng chiến: “Đoàn kết chặt chẽ toàn dân; thực hiện toàn dân
kháng chiến;... phải tự cung, tự cấp về mọi mặt” [24, tr. 150].
Bản Chỉ thị cũng khẳng định đường lối quốc tế của cách mạng với nội dung
cụ thể là: Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống bọn thực dân phản động Pháp; Đoàn
kết với hai dân tộc Mên, Lào và các dân tộc bị áp bức trong khối Liên hiệp Pháp;
Thân thiện với các dân tộc Tàu, Xiêm, Ấn Độ, Diến Điện, Nam Dương và các dân
tộc u chuộng dân chủ, hịa bình trên thế giới [24, tr. 151].
Tháng 9-1947, trong một lần trả lời phỏng vấn nhà báo S. Elie Maissie - phóng
viên Hãng Thơng tấn Mỹ khi được hỏi về những nét lớn trong chính sách đối ngoại
của Việt Nam (theo tình hình quốc tế hiện giờ), Người dõng dạc tuyên bố: “Làm
bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai” [65, tr. 220]. Sau
này, khi trả lời phỏng vấn ông Stanley Harrison - một nhà báo Anh, Người tiếp tục
khẳng định: “Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn giao
dịch với Việt Nam một cách thật thà” [65, tr. 578]. Những câu trả lời ngắn ngọn của
Người thể hiện thiện chí của Đảng, của nhân dân Việt Nam ước mong chung sống
hịa bình với tất cả các nước, nhân dân thế giới, ngay cả với những kẻ đang dày xéo
đất nước ta, đồng bào ta như thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.

Với chủ trương thêm bạn, bớt thù, nêu cao thiện chí hịa bình, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng ln chú trọng phân hóa nội bộ kẻ thù, tùy từng đối tượng mà
có chủ trương, biện pháp thích hợp nhằm tranh thủ tối đa lực lượng ủng hộ cuộc
kháng chiến của nhân dân ta.
Đối với Pháp, Hồ Chí Minh ln phân biệt rõ ràng giữa thực dân Pháp và
nhân dân Pháp. Trong nhiều bài viết của mình, Người khẳng định, nhân dân Việt
Nam không đấu tranh chống lại nước Pháp, nhân dân Pháp, mà chỉ đấu tranh
chống lại bọn thực dân xâm lược Pháp - những kẻ đang xâm chiếm đất nước Việt
Nam, chà đạp lên khẩu hiệu Tự do, Bình đẳng và Bác ái quang vinh của dân tộc
Pháp và nước Pháp.
15


Trong giải quyết xung đột Việt - Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ln
thể hiện thiện chí hịa bình. Người nhiều lần khẳng định trước báo giới trong và
ngồi nước, rằng: “Nếu Chính phủ và nhân dân Pháp khơng để bọn thực dân phản
động phá hoại hịa bình, phá hoại lợi ích và danh dự Pháp, phá hoại tình thân thiện
giữa hai dân tộc Việt - Pháp, nếu chính phủ Pháp dàn xếp theo cách hịa bình, tơn
trọng chủ quyền của ta, thì ta vẫn sẵn sàng đàm phán” [65, tr. 8].
Quan điểm đó của Người được khẳng định trong Nghị quyết Hội nghị Cán bộ
Trung ương (từ 3-4 đến 6-4-1947) như là chủ trương chính thức của Đảng và Nhà
nước ta: Chỉ ngừng bắn khi nào Pháp nhìn nhận độc lập và thống nhất thật sự và
liên minh với nhân dân Pháp xây dựng dân chủ, hòa bình chung trong khn khổ
Liên hiệp Pháp [24, tr. 178-179]. Chỉ thị Trung ương ngày 15-9-1947 càng khẳng
định quyết tâm kháng chiến đến cùng của quân và dân ta: “Độc lập và thống nhất
thật sự. Nếu thực dân Pháp không công nhận Việt Nam độc lập và thống nhất thật
sự thì dân tộc Việt Nam cịn đánh, mà đánh mạnh. Khơng thể có hịa bình nếu
Pháp chưa nhận Việt Nam độc lập và thống nhất” [24, tr. 295].
Ta chủ trương tiến hành đàm phán với Pháp, “làm cho cuộc đổ máu Việt Pháp rút ngắn lại” [24, tr. 186], song phải trên cơ sở giữ vững những nguyên tắc cơ
bản độc lập và thống nhất thật sự. Nguyên tắc này gồm những nội dung cơ bản sau:

1. Độc lập và thống nhất thật sự.
Độc lập nghĩa là tự điều khiển lấy mọi cơng việc, khơng có sự can thiệp ở
ngồi vào. Những tiêu chí của Độc lập, đó là:
- Có Chính phủ riêng, Quốc hội riêng, Hiến pháp riêng, do dân Việt Nam phổ
thơng đầu phiếu lập ra.
- Có qn đội riêng.
- Có ngoại giao ở nước ngồi.
- Có tiền tệ và thuế quan riêng.
Thống nhất nghĩa là một chính phủ trung ương, một nghị viện trung ương cho
toàn quốc; Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ sẽ có cơ quan hành chính tự trị riêng do
nhân dân mỗi kỳ bầu lên theo chế độ dân chủ và dưới sự kiểm sốt của chính phủ
trung ương.
16


2. Nước Việt Nam muốn được độc lập, thống nhất trong khối Liên hiệp Pháp,
trên tinh thần hợp tác chặt chẽ và thân thiện.
3. Pháp muốn kết thúc chiến tranh, thì chỉ có một cách là đàm phán với Chính
phủ Hồ Chí Minh là đại diện duy nhất của nhân dân Việt Nam, được Quốc hội
thừa nhận. Bất kỳ những thỏa thuận nào với bất cứ tổ chức bù nhìn nào cũng
không được thừa nhận.
Khi chiến tranh đã nổ ra, biết là không thể tránh khỏi, nhưng Chủ tịch Hồ Chí
Minh với tấm lịng u thương vơ hạn đối với con người, người Pháp cũng như
người Việt Nam, muốn cứu vãn tình thế, để tránh “những cuộc hiến tế hàng loạt
mạng người”, tránh nỗi bi thương cho cả hai dân dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh
thay mặt Chính phủ và nhân dân Việt Nam ln khẳng định lịng mong muốn của
nhân dân Việt Nam là cộng tác thân thiện với nhân dân Pháp, muốn có hịa bình
xây dựng đất nước. Người ngỏ ý tin rằng nhân dân Pháp cũng mong muốn hịa
bình, chỉ cịn tùy ở Chính phủ Pháp mà thơi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã sớm nhận thức bản chất cũng như âm

mưu của đế quốc Mỹ. Nghị quyết Hội nghị Cán bộ Trung ương họp từ ngày 3-4
đến ngày 6-4-1947 chỉ rõ: “Cầm đầu lực lượng phản dân chủ trên giới hiện nay là
bọn tài phiệt Mỹ”. Chính chúng “nâng đỡ cho bọn phản động ở các nước (Scsin
ở Anh, Đờ gơn ở Pháp và Tưởng ở Trung Hoa) và gây dựng lại tàn tích phát xít
(Franco ở Tây Ban Nha, Cat dien ở Nhật, Von Paren ở Đức, bọn phong kiến phát
xít Xanđari ở Hy Lạp”. Âm mưu và thủ đoạn của chúng là “tung khẩu hiệu chống
Liên Xô” và đe dọa “dùng bom ngun tử đánh Liên Xơ”, “kỳ thực đó chỉ là tấm
màn che đậy việc Mỹ lấn chiếm thị trường và quyền lợi các nước yếu hơn (Anh,
Pháp, Hà Lan), thâm nhập vào thuộc địa và bán thuộc địa của các nước ấy đặt căn
cứ quân sự khắp nơi để củng cố thế lực”, “biến thế giới tư bản thành thuộc địa và
căn cứ quân sự” [24, tr. 174-175].
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cũng nhận rõ tham vọng và nguy cơ Mỹ có
thể can thiệp trực tiếp vào tình hình Việt Nam, khi đó, chúng ta phải đối phó một
lúc hai kẻ thù Pháp và Mỹ. Do đó, trong sách lược của mình, Chủ tịch Hồ Chí

17


Minh và Trung ương Đảng đã khai thác tối đa những nhân tố khác nhau về lợi ích
trong việc phát động chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Mỹ.
Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Pháp nổ ra vào lúc Mỹ đang hoàn
thành việc rút quân ra khỏi Trung Quốc và cuộc chiến Quốc - Cộng có nguy cơ bùng
lên, gây bất lợi cho Tưởng Giới Thạch. Chính sách của Mỹ ở châu Á lúc này là
trọng điểm vào Liên Xô và các lực lượng cộng sản, mà sự lớn mạnh của lực lượng
này bất lợi cho việc thực hiện chính sách thực dân mới của Mỹ. Với những vấn đề
ưu tiên hàng đầu, Mỹ chưa có điều kiện can thiệp vào chiến tranh Đông Dương,
cũng không muốn Pháp sử dụng quân sự một cách đơn thuần để đặt lại ách thống trị
ở Đông Dương. Bởi Mỹ cho rằng, điều đó dễ đi đến kích động một cuộc nội chiến sẽ
bùng nổ ở Trung Quốc, theo đó sẽ thúc đẩy xu hướng chống thực dân phương Tây
trào dâng trở lại ở châu Á. Do đó, Mỹ muốn có một giải pháp chính trị ơn hịa nhằm

duy trì vị trí của Pháp và phương Tây ở Đông Dương, tránh một cuộc chiến tranh có
nguy cơ lơi kéo Mỹ vào trận trong lúc Mỹ chưa sẵn sàng. Mặt khác, Mỹ không
muốn Pháp sa lầy vào chiến tranh Việt Nam, vì điều đó trái với mục đích của Mỹ
khi viện trợ cho Pháp là nhằm lôi kéo Pháp làm đồng minh của mình trong việc
chống lại chính sách của Liên Xơ đối với vấn đề Đức, Đơng Âu và Nhật Bản.
Chính vì vậy, ngày 17-6-1947, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ gửi thơng
điệp tới Chính phủ Việt Nam tỏ ý “mong có giải pháp hịa bình cho vấn đề Đơng
Dương” [45, tr. 102] và Chính phủ Mỹ sẵn sàng làm trung gian giải quyết mâu
thuẫn Việt - Pháp.
Trước tình hình đó, tháng 12-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra
thông báo nhấn mạnh: Vì nguy cơ Mỹ chưa trực tiếp với ta nên ta vẫn phải lợi
dụng triệt để những mâu thuẫn dù nhỏ đến đến mấy, giữa Pháp và Mỹ; về sách
lược ta vẫn tuyên bố thân thiện với Mỹ và dùng hội Việt - Mỹ làm vũ khí tuyên
truyền quốc tế một phần nào [24, tr. 339].
Như vậy, trên cơ sở đánh giá tổng quan tình hình trong nước và quốc tế, khả
năng cũng như xu hướng vận động của các lực lượng, Hồ Chí Minh đã có nhận
thức cơ bản về đồng minh chiến lược cũng như đồng minh sách lược của cuộc

18


kháng chiến, từ đó có chủ trương, biện pháp thích hợp để vận động các lực lượng
trong cuộc kháng chiến của dân tộc, nhằm mục tiêu độc lập, thống nhất thật sự.
Thời điểm những năm đầu kháng chiến, thế giới đang diễn ra sự phân hóa
quyết liệt. Các nước đều đang say mê vận động trên trục quay của mình và Việt
Nam gần như cơ lập trong thế giới đó. Không được Mỹ giúp đỡ, “bị thế giới cộng
sản bỏ rơi”, Việt Nam tự mình giải quyết những vấn đề của chính mình. Chính
trong thời điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng sáng tạo ra đường
lối kháng chiến mới, đảm bảo chắc chắn thắng lợi mà thế giới chưa hề có một tiền
lệ nào như thế. Đó là hình thái chiến tranh nhân dân, kết hợp sức mạnh tự lực tự

cường của dân tộc với sức mạnh đồn kết quốc tế mà Hồ Chí Minh là người đề
xướng và thực hành, đã thực sự đưa lại sức mạnh ủng hộ to lớn của các lực lượng
dân chủ, hịa bình, tiến bộ trên giới đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Sức
mạnh đó là chỗ dựa tinh thần của quân và dân ta trong những năm đầu kháng chiến
đầy khó khăn, thử thách.
1.2. Hoạt động đối ngoại nhằm nối lại đàm phán hịa bình, tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ của nhân dân Pháp
Từ tháng 12-1946, bầu khơng khí ngột ngạt bao trùm khắp Đơng Dương.
Thực dân phản động Pháp lợi dụng những khoảng trống quyền lực trong chính
trường Pháp cố tình gây xung đột, đặt Chính phủ Pháp vào “thế đã rồi” và đổ trách
nhiệm cho Chính phủ Việt Nam. Cuộc gây hấn ở Hải Phòng ngày 20-11 được xem
là khúc dạo đầu cho các hành động quân sự ngày càng nghiêm trọng hơn do bộ
máy chỉ huy dân sự và quân sự Pháp ở Đơng Dương trù tính, nhằm đẩy tình thế
đến bùng nổ xung đột vũ trang trên diện rộng. Tuy nhiên, điểm thuận lợi cho lúc
này là giữa Chính quyền thuộc địa Đơng Dương và Chính phủ Pháp chưa hồn
tồn đồng thuận. Một số nhân vật trong Chính phủ Pháp cịn có thái độ do dự, chưa
muốn dứt khốt đoạn tuyệt với Chính phủ Hồ Chí Minh. Đó là cơ hội tuy mong
manh, song chất chứa hy vọng về khả năng hịa bình, chấm dứt xung đột, đổ máu
bằng một cuộc đàm phán hịa bình. Cơ hội càng mong manh hơn khi Thủ tướng
Ramadier cùng Chính phủ Pháp quyết định chọn con đường chiến tranh như là
phương pháp duy nhất giải quyết vấn đề Đông Dương.
19


1.2.1. Những cố gắng nối lại đàm phán với Chính phủ Léon Blum
Đứng đầu nước Pháp bấy giờ là Thủ tướng Léon Blum - ứng cử viên của
Đảng Xã hội. Ông từng tuyên bố về lập trường khá tích cực đối với vấn đề Đông
Dương khi ra tranh cử nhằm tranh thủ lá phiếu của những người cánh tả Pháp:
“Chỉ có một cách duy trì nền văn minh Pháp ở Đông Dương là thỏa hiệp thành thật
trên lập trường độc lập với nhân dân Đông Dương, quyền định đoạt về vấn đề Việt

Nam không phải ở các quân nhân và kiều dân Pháp ở Việt Nam mà phải ở trong
tay Chính phủ Pari” [22, tr. 87].
Nhận thấy thiện chí từ những người đứng đầu Chính phủ Pháp, ngày 18-121946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi một bức điện cho Thủ tướng L.Blum, bày tỏ sự tin
tưởng rằng chính sách của ông và Đảng Xã hội sẽ được thực hiện tại Việt Nam là
“xuất phát từ sự tôn trọng các hiệp định hợp tác chân thành và thân ái”. Người cũng
tin tưởng việc cử một phái đoàn Quốc hội Pháp qua Việt Nam nhằm “mang tình hữu
nghị của dân tộc Pháp đến cho dân tộc Việt Nam và để chứng kiến tình hình tại chỗ
sẽ đóng góp nhiều vào việc tạo ra bầu khơng khí tin cậy và hữu nghị” [76, tr. 343].
Trong bầu khơng khí chính trị căng thẳng của nước Pháp, vấn đề Đông
Dương là một trong những vấn đề mà L.Blum ưu tiên quan tâm. Ngày 22-12-1946,
Chính phủ đã cử một phái đoàn do Marius Moutet - Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải
ngoại và Tướng Leclerc dẫn đầu sang thăm tình hình chiến sự ở Đơng Dương.
Trước đó, Thủ tướng L.Blum gửi thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh báo trước sự có
mặt của phái đồn này tại Việt Nam với một thái độ đầy thiện chí: “Trong khi
Marius Moutet, phái viên của Chính phủ sửa soạn sang Đơng Dương nhằm đánh
tan những hiểu lầm và tìm cách trở lại trạng thái hịa bình, chúng tơi khẩn thiết yêu
cầu Ngài ra lệnh tức khắc để ngăn chặn ngay chiến sự. Chúng tơi mong muốn duy
trì hịa bình và thực hiện các hiệp định nếu là một nền hòa bình trung thực. Khơng
thể chấp nhận bất cứ một sự vi phạm nào” [76, tr. 348-349].
Ngày 23-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư trả lời Thủ tướng L.Blum,
tường thuật rõ hành động gây chiến trắng trợn của quân Pháp dưới sự điều hành
của các nhà chức trách Pháp ở Đơng Dương và nêu rõ lập trường của Chính phủ ta
là mong muốn duy trì hịa bình và thi hành nghiêm chỉnh các hiệp định đã ký.
20


×