Tải bản đầy đủ (.pdf) (168 trang)

(Luận văn thạc sĩ) từ ngữ ẩm thực trong tiếng việt và cách chuyển dịch sang tiếng anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 168 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------

NGUYỄN THỊ DUNG

TỪ NGỮ ẨM THỰC TRONG TIẾNG VIỆT VÀ CÁCH CHUYỂN DỊCH SANG
TIẾNG ANH

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
MÃ SỐ:
60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: VŨ THỊ THANH HƯƠNG

HÀ NỘI - 11/2009



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một cơng trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Dung


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Vũ Thị Thanh Hương


đã tận tình dìu dắt, hướng dẫn tơi trong suốt q trình nghiên cứu để hồn
thành luận văn này.
Tơi xin chân thành cảm ơn các thấy cô giáo, các nhà nghiên cứu ngôn
ngữ đã chỉ bảo và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và nghiên
cứu, đặc biệt là những ý kiến góp ý của PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn cho luận
văn.
Cuối cùng, tôi muốn gửi lới cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp và gia
đình đã giúp đỡ, động viên tơi hoàn thành luận văn.

Hà Nội, tháng 11 năm 2009
Tác giả

Nguyễn Thị Dung


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Vũ Thị Thanh Hương
đã tận tình dìu dắt, hướng dẫn tơi trong suốt q trình nghiên cứu để hồn
thành luận văn này.
Tơi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, nhà nghiên cứu ngôn
ngữ đã chỉ bảo và tạo điều kiện cho tơi trong q trình học tập và nghiên
cứu, đặc biệt là những ý kiến góp ý của PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn cho luận
văn.
Cuối cùng tôi muốn gửi lời cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp và gia
đình đã giúp đỡ, động viên tơi hồn thành luận văn.
Hà Nội, tháng 11 năm 2009
Tác giả

Nguyễn Thị Dung



MỤC LỤC
MỤC LỤC .............................................................................................................. 1

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 3
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................ 3
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................................. 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 5
4. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 6
5. Kết cấu của luận văn ..................................................................................................... 7

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ...................................................................... 7
1.1. Vấn đề định danh trong ngơn ngữ ................................................................... 8
1.1.1. Định danh là gì? ...................................................................................................... 8
1.1.2. Các phương thức định danh trong ngôn ngữ........................................................ 11

1.2. Ngôn ngữ và văn hóa .................................................................................... 13
1.2.1. Văn hóa là gì? ........................................................................................................ 13
1.2.2. Quan hệ giữa ngơn ngữ và văn hóa ....................................................................... 17
1.2.3. Tiếng Việt và văn hóa Việt Nam ............................................................................ 21

1.3. Ẩm thực Việt Nam trong văn hoá Việt ......................................................... 24
1.3.1. Văn hóa ẩm thực .................................................................................................... 24
1.3.2. Văn hóa ẩm thực trong tiếng Việt .......................................................................... 28

Tiểu kết ................................................................................................................. 31
CHƢƠNG 2: TỪ NGỮ ẨM THỰC TRONG TIẾNG VIỆT .............................. 33
2.1. Đặc điểm về xuất xứ và cấu tạo .................................................................... 33
2.1.1. Đặc điểm về xuất xứ............................................................................................... 33
2.1.1.1. Xuất xứ món ăn có nguồn gốc Hán ................................................................. 34

2.1.1.2. Xuất xứ món ăn có gốc Ấn - Âu .................................................................... 35
2.1.2. Đặc điểm cấu tạo ................................................................................................... 37

2.2. Đặc điểm định danh ...................................................................................... 41
2.2.1. Đặc điểm định danh của thành tố trung tâm ......................................................... 41
2.2.2. Đặc điểm định danh của các thành tố phụ ............................................................ 42
2.2.3. Các yếu tố định danh ............................................................................................. 49
2.2.3.1. Nguyên liệu ..................................................................................................... 50
2.2.3.2. Gia liệu ........................................................................................................... 53
2.2.3.3 Phương thức chế biến ...................................................................................... 55

1


2.2.4. Các mơ hình định danh xét theo ngữ nghĩa ........................................................... 59
2.2.4.1. Định danh món ăn theo loại thực phẩm và các yếu tố ngữ nghĩa khác ............................. 60
2.4.2. Định danh món ăn theo nguyên liệu và các yếu tố ngữ nghĩa khác..................................... 64

2.3. Đặc điểm văn hóa hàm chứa trong từ ngữ ẩm thực Việt .............................. 67
2.3.1. Phản ánh văn hóa nơng nghiệp ............................................................................. 67
2.3.2. Phản ánh văn hóa vùng miền ................................................................................. 72
2.3.3. Phản ánh triết lý âm dương ................................................................................... 76

Tiểu kết ................................................................................................................. 80
CHƢƠNG 3: CÁC THỦ PHÁP CHUYỂN DỊCH TỪ NGỮ ẨM THỰC
TIẾNG VIỆT SANG TIẾNG ANH ..................................................................... 82
3.1. Khái niệm tƣơng đƣơng dịch thuật ............................................................... 82
3.1.1. Các quan niệm về tương đương dịch thuật ............................................................ 82
3.1.2. Các kiểu tương đương dịch thuật .......................................................................... 85


3.2. Các khả năng tƣơng đƣơng của từ ngữ ẩm thực tiếng Việt sang
tiếng Anh ............................................................................................................ 87
3.2.1 Tương đương hoàn toàn ......................................................................................... 87
3.2.2. Tương đương bộ phận............................................................................................ 89
3.2.3. Không tương đương ............................................................................................... 92

3.3. Các thủ pháp chuyển dịch từ ngữ ẩm thực tiếng Việt sang tiếng Anh ......................... 93
3.3.1. Trực dịch ................................................................................................................ 94
3.3.2. Phiên âm ................................................................................................................ 95
3.3.3. Dịch căn ke (sao phỏng) ........................................................................................ 96
3.3.4. Dịch tương đương văn hóa ................................................................................... 97
3.3.5. Dịch giải thích (dịch tương đương mô tả) ............................................................. 98
3.3.6. Dùng các từ ngữ có nghĩa rộng hơn .................................................................... 100

Tiểu kết ............................................................................................................... 101

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 103

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ăn uống của con ngƣời khơng chỉ là hoạt động mang tính sinh học để
duy trì sự sống mà cịn mang tính văn hóa, gắn với một cộng đồng ngƣời với
những thói quen, tập tục. Ăn uống và tập tục ăn uống bảo lƣu khá đậm nét
những dấu ấn văn hóa tộc ngƣời. Thơng qua những món ăn, chúng ta có thể
hiểu đƣợc phần nào đặc điểm tâm lý tộc ngƣời; hiểu đƣợc tập quán, hiểu đƣợc
cung cách ứng xử của con ngƣời với môi trƣờng. Ẩm thực trong tiếng Việt từ
trƣớc tới nay đã đƣợc một số nhà nghiên cứu quan tâm ở nhiều khía cạnh và

góc độ khác nhau, từ các món ăn, cách thức ăn, tập tục ăn uống cho đến các
triết lý trong món ăn. Trong cuốn “Nữ cơng thắng lãm” của Hải thƣợng Lãn
ông Lê Hữu Trác (1971) đã giới thiệu cách chế biến hơn 100 món ăn, Phạm
Đình Hổ, thế kỷ 18 có cuốn “Vũ trung tuỳ bút” (1972) nói tới tục uống trà,
Trần Việt Ngọc, thế kỷ 19 có “Đại Nam hội điển sự lệ” (1993) giới thiệu gần
150 món ăn và các loại đặc sản. Sang thế kỷ 20, có nhiều học giả nghiên cứu
về các món ăn ở nhiều góc độ hơn, về văn hố, lịch sử, quan hệ giữa tập quán
ăn uống với môi trƣờng tự nhiên, mơi trƣờng xã hội, trong đó đáng chú ý là
cuốn “Đất lề quê thói” của Nhất Thanh, Vũ Văn Khiếu (1970) giới thiệu
những món ăn ở Bắc Bộ, và cuốn “Văn hoá ẩm thực Việt Nam” các món ăn
miền Bắc, Trung, Nam của Vũ Bằng, Mai Khơi, Thƣợng Hồng, Băng Sơn
(2006) giới thiệu các đặc sản, đặc trƣng ẩm thực từng miền, và những nét văn
hoá đặc trƣng của mỗi vùng miền thể hiện trong mỗi món ăn. Tập tục ăn uống
cũng đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm nhƣ tác phẩm “Tập quán ăn uống của
ngƣời Việt ở vùng Kinh Bắc xƣa” của Vƣơng Xuân Tình (1999), trong đó đề
cập đến lịch sử ăn uống, mối liên hệ khá thú vị giữa điều kiện tự nhiên, xã hội
và cách thức ăn của ngƣời Kinh Bắc. Tất cả những cơng trình nghiên cứu này
hầu hết đều nghiên cứu sâu về văn hố, chƣa có tác phẩm nào nghiên cứu về

3


tên các món ăn. Tuy nhiên, đã có một bài nghiên cứu “Đặc điểm các loại bánh
ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thu Hằng (2007) trong đó tác giả đã mô tả
cách thức cấu tạo tên các loại bánh và đƣa ra những nhận xét bƣớc đầu về
những đặc trƣng văn hố của ngƣời Việt.
Việc tìm hiều nội dung hay cách cấu tạo của từ ngữ ẩm thực giúp
chúng ta có một cách nhìn tồn diện hơn về lớp từ ngữ ẩm thực của Việt
Nam. Cùng với lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam hàng ngàn năm, văn
hoá đƣợc kết tinh ở nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó có ẩm thực. Ẩm

thực là những món ăn thơng thƣờng trong những bữa cơm gia đình, cũng có
khi lại là mâm cao cỗ đầy trong những dịp quan trọng nhƣ giỗ chạp, lễ tết,
hiếu hỷ…làm cho đời sống vật chất của ngƣời Việt trở nên phong phú. Mỗi
vùng miền lại có những dấu ấn riêng, bản sắc riêng trong bản sắc chung của
dân tộc Việt. Ngƣời miền Bắc, ngƣời miền Trung hay ngƣời miền Nam có
những cách thể hiện món ăn, chế biến, trình bày theo vùng khí hậu, vùng văn
hố rất đặc trƣng. Mỗi vùng lại có đại diện tiêu biểu, miền Bắc, có món ngon
Hà Nội, miền Trung có đặc sắc ẩm thực Huế với cách ăn cầu kỳ theo lối cung
đình, ngƣời miền Nam có Sài Gịn với sự dung hồ của rất nhiều lối ẩm thực
khác nhau. Thông qua những tên gọi món ăn, chúng ta phần nào hiểu đƣợc
nét văn hố, nét sinh hoạt của ngƣời Việt, ẩn sâu trong đó là những triết lý
cuộc đời mà ngƣời Việt ý nhị gửi vào tên đó.
Xã hội ngày càng phát triển, sự giao thoa giữa các nền văn hố gần
hơn, khơng phải sang tận Mỹ, Pháp chúng ta mới thƣởng thức đƣợc hƣơng vị
của bánh Hamberger, hay KFC - những đồ ăn nhanh nổi tiếng của phƣơng
Tây và ngƣợc lại, cũng không nhất thiết phải ở Việt Nam mới có thể biết đến
tơ phở bị, phở gà, mà có thể ngồi ở Cali - Mỹ bạn vẫn biết phở Việt Nam thế
nào. Với xu thế phát triển nhƣ vậy, tên các món ăn cũng cần đƣợc chuyển
dịch sang một thứ tiếng khác, phổ biến hơn, toàn cầu hơn. Sự cần thiết để

4


chuyển dịch tên các món ăn Việt sang tiếng Anh là rất lớn, không chỉ đáp ứng
nhu cầu xã hội trong các dịch vụ ăn uống, mà cũng là một cách chuyển tải
một phần văn hoá đến với bạn bè quốc tế. Ăn khơng chỉ là ăn nữa, mà cịn
hiểu đƣợc cả cách thƣởng thức món ăn của ngƣời Việt, thƣởng thức cách nêm
nấu món ăn của ngƣời Việt, và cả những dấu ấn lịch sử, văn hoá của ngƣời
Việt. Trong q trình chuyển dịch món ăn Việt, có nhiều tên gọi gần nhƣ mất
hết nét nghĩa văn hoá bao hàm trong đó, ví dụ: bánh phu thê đƣợc chuyển

dịch sang tiếng Anh là Wedding Cake, ngƣời phƣơng Tây đều hình dung ra
loại bánh gato nhiều tầng thƣờng đƣợc cơ dâu và chú rể cắt trong tiệc cƣới,
chứ không phải thứ bánh làm bằng bột nếp, đỗ xanh, đƣờng kính với những
hàm ý sâu xa từ một tích truyện. Việc nghiên cứu cụ thể các trƣờng hợp nhƣ
vậy trong lớp từ ẩm thực sẽ giúp chúng ta chỉ ra những bất cập khi chuyển
dịch từ ngữ ẩm thực tiếng Việt sang tiếng Anh.
Trên đây là những lý do thôi thúc chúng tôi lựa chọn đề tài "Từ ngữ ẩm
thực trong tiếng Việt và cách chuyển dịch sang tiếng Anh" để làm luận văn
thạc sỹ. Với nghiên cứu này, chúng tôi mong muốn góp phần tìm hiểu lớp từ
vựng ẩm thực trong tiếng Việt và những cách thƣờng đƣợc sử dụng để chuyển
dịch sang tiếng Anh.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của chúng tôi là các từ ngữ ẩm thực trong tiếng
Việt và một phần từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt đƣợc chuyển dịch sang
tiếng Anh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn này là muốn khảo sát, thống kê, phân tích và
miêu tả một cách chi tiết về từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt và cách thức
chuyển dịch chúng sang tiếng Anh.

5


Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết
những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Xây dựng một cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu từ ngữ ẩm thực
trong tiếng Việt.
- Phân tích, miêu tả các đặc điểm về nguồn gốc và cấu tạo của từ ngữ
ẩm thực trong tiếng Việt.
- Phân tích, mơ tả các đặc điểm văn hóa của từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt.

- Tìm hiểu các kiểu dịch từ ngữ ẩm thực từ tiếng Việt sang tiếng Anh.
Thực hiện đƣợc nhiệm vụ trên, luận văn " TỪ NGỮ ẨM THỰC
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ CÁCH CHUYỂN DỊCH SANG TIẾNG ANH "
hy vọng sẽ góp phần vào việc nghiên cứu từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt sâu
hơn, góp phần làm rõ những cách thức chuyển dịch từ ngữ ẩm thực tiếng Việt
sang tiếng Anh. Trong xu thế hội nhập hiện nay, quảng bá văn hóa trong đó
có ẩm thực là việc làm cần thiết, do đó dịch từ ngữ ẩm thực sang tiếng Anh để
ngƣời nƣớc ngồi có thể hiểu đƣợc và cảm nhận đƣợc phần văn hóa của Việt
Nam là rất cần..
4. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Tƣ liệu luận văn đƣợc thống kê từ các nguồn trong Từ điển tiếng Việt
(Nguyễn Nhƣ Ý), từ điển LacViệt Anh - Việt, Internet, Menu của một số nhà
hàng tại Hà Nội có nhiều khách nƣớc ngồi đến thƣởng thức nhƣ Quán ngon,
Hot Rock, Bếp Việt, Brother Cafe…, một số tạp chí nhƣ Món ngon, Heritage.
1553 đơn vị từ ngữ ẩm thực tiếng Việt và 678 đơn vị từ ngữ ẩm thực đã đƣợc
chuyển dịch sang tiếng Anh đã đƣợc thu thập và phân tích trong luận văn này.
Những phƣơng pháp chúng tôi sử dụng trong luận văn này là những
phƣơng pháp thông dụng dùng trong nghiên cứu ngôn ngữ nhƣ:

6


Phƣơng pháp phân tích, mơ tả cấu trúc và ngữ nghĩa.
Phƣơng pháp thống kê ngôn ngữ học.
Phƣơng pháp đối chiếu từ vựng.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm 3 chƣơng với các
nội dung nhƣ sau:
Chƣơng 1: Trình bày các vấn đề lý thuyết liên quan nhƣ: Vấn đề định
danh, văn hóa ẩm thực, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, ẩm thực trong

ngơn ngữ và ẩm thực trong tiếng Việt. Đây là chƣơng lý thuyết làm cơ sở cho
những nghiên cứu của chƣơng 2 và chƣơng 3.
Chƣơng 2: Tập trung phân tích các đặc điểm về nguồn gốc, cấu tạo,
định danh, ngữ nghĩa và yếu tố văn hóa của từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt.
Chƣơng 3: Chƣơng cuối của luận văn, ngồi trình bày một số lý thuyết
về dịch thuật, vấn đề tƣơng đƣơng trong dịch thuật, luận văn chủ yếu tập trung
vào phân tích các cách thức chuyển dịch từ ngữ ẩm thực tiếng Việt sang tiếng Anh.
Ngồi phần nội dung, luận văn cịn có các phụ lục về từ ngữ ẩm thực
trong tiếng Việt và từ ngữ ẩm thực tiếng Việt đƣợc chuyển dịch sang tiếng
Anh.

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Để có cơ sở lý thuyết làm nền tảng cho những vấn đề cần giải quyết
của luận văn, chúng tôi đã cố gắng tiếp cận những tƣ tƣởng, ý kiến có giá trị
của các nhà nghiên cứu. Chƣơng này, chúng tơi trình bày một số vấn đề lý

7


thuyết liên quan đến nội dung của luận văn nhƣ vấn đề định danh trong ngôn
ngữ, mối quan hệ giữa ngơn ngữ và văn hóa, ẩm thực Việt Nam trong văn hóa
Việt Nam.
1.1. Vấn đề định danh trong ngơn ngữ
1.1.1. Định danh là gì?
Khái niệm này đƣợc hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, theo tác giả Vũ
Thế Thạch (1996), định danh là sự cấu tạo các đơn vị ngôn ngữ có chức năng
dùng gọi tên, chia tách các đoạn của hiện thực khách quan và trên cơ sở đó
hình thành những khái niệm tƣơng ứng về chúng dƣới dạng các từ, cụm từ,
ngữ và câu.
Khi bàn về bản chất của q trình định danh ngơn ngữ, tác giả Hồng

Lai (1970) đã trích dẫn ý kiến của Viện sĩ hàn lâm khoa học Nga B. A
Serebrenikov về những nhân tố để tạo ra những đơn vị định danh. Đó là:
- Những tri thức lịch sử, xã hội, văn hoá cho phép nhận ra những đặc
điểm của sự vật, hiện tƣợng, chức năng của chúng, cần thiết phải phân biệt
chúng với những sự vật, hiện tƣợng khác bằng cách cho chúng những tên gọi riêng.
- Cá nhân cũng giữ vai trò quan trọng vì chính cá nhân đã sử dụng ngơn
ngữ của cộng đồng để tạo ra các đơn vị định danh mới.
- Tổ hợp âm, từ, từ tổ là phƣơng tiện làm tên gọi cho sự vật, hiện tƣợng.
Theo triết học Mac - Lenin, các sự vật phân biệt nhau chính là ở “chất”
của nó. Chất là “sự thống nhất hữu cơ những thuọc tính, những đặc trƣng
phân biệt sự vật hay hiện tƣợng với sự vật hay hiện tƣợng khác” (Hồng Lai,
hiệu đính bản dịch Ngơn ngữ học đại cƣơng, Matxcơva, 1970).

8


Một nhân tố quan trọng khác ảnh hƣởng tới số phận của các đơn vị
định danh mới là đơn vị định danh đó đƣợc xã hội chấp nhận hay khơng. Dầu
sao cộng đồng xã hội cũng là nhân tố quyết định trong việc tạo đơn vị định danh mới.
Và một nhân tố khơng kém phần quan trọng trong q trình định danh
là đặc điểm cấu trúc ngơn ngữ hay nói rộng hơn là loại hình ngơn ngữ. Chẳng
hạn tiếng Việt, sử dụng các loại từ khác nhau nhƣ cái, cục, con, chiếc theo tuỳ
theo sự phạm trù hố.
Theo đó thì từ đƣợc nghiên cứu từ quan điểm của mối liên hệ sự vật
của nó với thế giới khách quan ngồi ngơn ngữ. Cịn bình diện ngữ nghĩa của
việc nghiên cứu từ xem xét nội dung của các đơn vị từ vựng từ quan điểm của
mối liên hệ bên trong hệ thống, bên trong từ. Việc nghiên cứu những đặc
trƣng của sự biểu hiện bằng các đơn vị ngôn ngữ trƣớc hết gắn liền với việc
nghiên cứu từ trong mối quan hệ của nó với đối tƣợng, sự vật xung quanh.
Trong các ngôn ngữ khác nhau, các phƣơng pháp định danh cũng khác nhau,

định danh theo từ căn, định danh từ phái sinh, định danh tổ hợp từ, định danh
gián tiếp trên cơ sở các ý nghĩa liên hệ của từ.
Bằng các đơn vị, ngôn ngữ phản ánh hai phạm vi thực tế khách quan có
quan hệ chặt chẽ với nhau: phạm vi sự vật, hiện tƣợng (danh từ) và phạm vi
các thuộc tính, các quan hệ của sự vật hiện tƣợng đó (động từ, tính từ, trạng
từ). Danh từ thƣờng biều hiện sự vật, hiện tƣợng ấy.
Một số nhà nghiên cứu của Việt Nam cũng đƣa ra những nhận đinh về
vấn đề định danh nhƣ Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Văn Tu,
Lý Toàn Thắng…
Theo nhà nghiên cứu Lý Tồn Thắng (2002), chức năng định danh của
tín hiệu ngơn ngữ đƣợc thể hiện trong chức năng giao tiếp và chức năng làm
cơng cụ của tƣ duy. Cũng theo đó, các tên gọi là sản phẩm của tƣ duy trừu

9


tƣợng, chúng xuất hiện do nhu cầu phân biệt, cần nhận thức các sự vật, đối
tƣợng và nói lên những kinh nghiệm, hiểu biết của con ngƣời về các sự vật,
đối tƣợng đó. Q trình định danh sự vật phải tn thủ các ngun tắc tâm lí
ngơn ngữ có tính phổ quát vốn chi phối:
- Cách thức phân loại các sự vật;
- Cách thức phạm trù hố các sự vật;
Cịn theo tác giả Đỗ Hữu Châu (1983), chức năng định danh chỉ là một
dạng của chức năng biểu vật. Từ đã có chức năng định danh thì có chức năng
biểu vật. Nhờ các tên gọi mà sự vật, hiện tƣợng thực tế khách quan tồn tại
trong lý trí của chúng ta, phân biệt đƣợc với các sự vật, hiện tƣợng khác cùng
loại và khác loại. Vì các tên gọi làm cho tƣ duy trở nên rành mạch sáng sủa,
cho nên một sự vật, hiện tƣợng trong thực tế khách quan chỉ thực sự trở thành
một sự vật đƣợc nhận thức, một sự vật của tƣ duy khi nó đã có một tên gọi
trong ngôn ngữ.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Tồn (2002) nhấn mạnh đến đặc trƣng văn
hoá dân tộc trong vấn đề định danh. Đặc trƣng văn hoá dân tộc của định danh
ngôn ngữ đƣợc biểu hiện trƣớc hết ở việc lựa chọn đặc trƣng của đối tƣợng để
làm cơ sở cho tên gọi của nó. Trong q trình tạo ra các từ, có ý nghĩa lớn lao
là vấn đề lựa chọn đặc trƣng để lấy làm đối tƣợng để là cơ sở cho tên gọi đối
tƣợng. Vai trò của việc lựa chọn này bị quy định bởi một loạt nhân tố, trong
đó một phần thuộc về những đặc điểm sinh lý của con ngƣời, một phần thuộc
về cơ chế của lời nói.
Mỗi khách thể ở thế giới khách quan có một hệ thống những thuộc tính
và mối liên hệ khác nhau. Quá trình con ngƣời nhận thức đƣợc đặc tính, hay
đặc trƣng nào đó là tiêu biểu, để nó chính là nó và để khu biệt nó với những
đối tƣợng khác thì những đặc trƣng ấy cũng có tên gọi trong ngôn ngữ. Vấn

10


đề này có liên quan tới việc sử dụng đối tƣợng nào đó trong thực tiễn và phụ
thuộc vào nhu cầu, mục đích của một cộng đồng ngơn ngữ nhất định. Đó là lí
do mà mỗi dân tộc chọn đặc điểm để định danh theo cách riêng của mình, và
cùng một đối tƣợng trong các ngôn ngữ khác nhau sẽ đƣợc gọi tên theo các
cách khác nhau. Cùng một đối tƣợng có thể đƣợc gọi tên trong các ngơn ngữ
theo cách khác nhau phụ thuộc vào đối lập kiểu nào về tâm lí, lịch sử, dân tộc
và xã hội đã làm cơ sở cho sự định danh. Quan điểm trên hoàn toàn hợp lý,
hiển nhiên, sự đối lập làm cơ sở cho sự định danh ấy phụ thuộc vào chủ thể
định danh. Việc tách chọn đặc trƣng của các khách thể khi gọi tên chúng cũng
làm nên đặc trƣng văn hố - dân tộc của từ vựng trong một ngơn ngữ nhất
định. Chính việc chọn đặc trƣng làm cơ sở cho tên gọi đối tƣợng đã quy định
hình thái bên trong của từ. Đó là đặc trƣng định danh đƣợc biểu thị bằng từ và
tham gia với tƣ cách một thành tố đặc biệt vào thành phần ý nghĩa từ vựng
của từ.

Nhƣ vậy có thể nói, việc tìm hiểu một lớp từ nào đó trong vốn từ vựng
của mỗi tộc ngƣời sẽ giúp chúng ta hiểu biết thêm về cách tƣ duy, cách lựa
chọn đặc điểm để mỗi sự vật “có tên”, và cả lối sống, văn hố của cƣ dân, tộc
ngƣời đó. Và vì vậy, có thể nói thơng qua nghiên cứu lớp từ ẩm thực tiếng
Việt chúng ta sẽ có thể hiểu biết về nếp sinh hoạt mà biểu hiện cụ thể là các
món ăn trong đời sống, hiểu về “văn hố ứng xử với mơi trƣờng”, hiểu về nếp
sinh hoạt của cƣ dân lúa nƣớc, về các món ăn các vùng làm nên những nét đặc
trƣng văn hóa ở ngƣời Việt.
1.1.2. Các phương thức định danh trong ngôn ngữ
Trong bài nghiên cứu của Vũ Thế Thạch (1996) có chỉ ra rằng khi định
danh một khái niệm mới, chủ thể định danh có thể sử dụng một trong ba cách sau:

11


- Sử dụng một đơn vị từ vựng đã có sẵn trong ngơn ngữ và chuyển
nghĩa nó. Tên gọi đƣợc tạo ra bằng cách này chính là đơn vị định danh thứ sinh.
- Tạo ra một đơn vị hoàn toàn mới. Đó là đơn vị định danh nguyên sinh.
- Vay mƣợn từ ngôn ngữ khác.
Trong các ngôn ngữ khác nhau, các phƣơng thức định danh, các dạng
định danh cũng khác nhau. Theo cấu trúc hình thái học có thể là:
- Định danh từ phái sinh.
- Định danh tổ hợp từ.
- Định danh trên cơ sở nghĩa liên hệ của từ.
Việc xác định các dạng định danh trong tiếng Việt liên quan tới việc
xác định đặc điểm cấu tạo từ của nó. Trong tiếng Việt có một số lƣợng lớn
một âm tiết. Đó là những đơn vị định danh cơ bản, định danh gốc, dạng định
danh tạo từ nhƣ đất nước, đi lại, ăn chơi…; định danh tổ hợp từ nhƣ liên hợp quốc, nhà
nghỉ…
Tác giả Nguyễn Đức Tồn (2002) đã tổng hợp hai trƣờng hợp về cách định danh.

Theo ý kiến của các đại biểu thuộc trƣờng phái ngôn ngữ học Pra-ha ta có:
- Định danh bằng từ và từ tổ (đây là định danh từ vựng).
- Định danh bằng câu (mệnh đề).
- Định danh bằng văn bản.
Cũng có ý kiến cho rằng có những cách định danh khác nhƣ:
- Sử dụng tổ hợp ngữ âm biểu thị đặc trƣng nào đó trong số các đặc
trƣng của đối tƣợng này.
- Mô phỏng âm thanh.

12


- Phái sinh.
- Ghép từ.
- Cấu tạo các biểu ngữ đặc ngữ.
- Sao phỏng
- Vay mƣợn
Theo quan điểm của tác giả cũng cần bổ sung thêm phƣơng thức định
danh rất phổ biến và quan trọng đó là sự chuyển nghĩa của từ. Cách định danh
nay thƣờng đƣợc gọi là định danh thứ sinh.
Nhìn chung, mỗi dân tộc, mỗi loại hình ngơn ngữ khác nhau có những
lựa chọn khác nhau để định danh. Tƣ duy, văn hóa của dân tộc có ảnh hƣởng
lớn đến việc định danh, đến việc lựa chọn yếu tố, tính chất nào của sự vật để
định danh. So sánh giữa tiếng Anh và tiếng Việt, tiếng Anh thuộc loại hình
ngơn ngữ biến hình, từ đƣợc cấu tạo bởi căn tố (yếu tố gốc) và phụ tố, trong
khi tiếng Việt thuộc loại hình ngơn ngữ đơn lập (từ ngữ đƣợc cấu tạo chủ yếu
là ghép các thành tố). Đặc trƣng văn hóa dân tộc bộc lộ rõ ràng ở phạm trù
hóa hiện thực và bức tranh ngơn ngữ về thế giới. Chính vì vậy khi chuyển
dịch văn bản Việt sang văn bản Anh hoặc ngƣợc lại cũng sẽ có nhiều yếu tố
khơng tƣơng đƣơng, một phần do văn hóa khác biệt - một phƣơng Đơng (kín

đáo, thâm trầm, có xu thế hƣớng nội), một phƣơng Tây (cởi mở, có xu thế
hƣớng ngoại), một phần do hai loại hình ngôn ngữ khác nhau, cách thức định
danh khác nhau. Do vậy, trong q trình chuyển dịch từ ngơn ngữ này sang
ngơn ngữ kia tƣơng đƣơng hồn tồn gần nhƣ khơng có.
1.2. Ngơn ngữ và văn hóa
1.2.1. Văn hóa là gì?

13


Có hàng trăm định nghĩa về văn hố nhƣng chƣa có một định nghĩa
thống nhất và mang đầy đủ ý nghĩa. Ở góc độ chung nhất, văn hố thƣờng
đƣợc hiểu - đó là phẩm chất đặc hữu chỉ thấy ở con ngƣời, nó là cái để phân
biệt giữa ngƣời và động vật. Nhƣ vậy, văn hoá là dấu ấn đặc trƣng cho xã hội
loài ngƣời, khác về cơ bản với tổ chức của xã hội động vật, nó là cái do học
đƣợc mà có, khơng phải cái kế thừa theo con đƣờng sinh học. Văn hoá gắn
với ý niệm - thế giới tinh thần của con ngƣời, nó đƣợc truyền lại trong lịch sử
xã hội loài ngƣời, bằng việc sử dụng các hình thái biểu tƣợng - ngơn ngữ.
Nhà nghiên cứu triết học Phạm Duy Đức (2008) dẫn lời nhà triết học
và cổ sinh học ngƣời Pháp - Viện sĩ Teilhard de Chardin (1881- 1955) đƣa ra
cách giải thích nhƣ sau về văn hóa: Trái đất hình thành và phát triển đến một
giai đoạn nào đó thì xuất hiện sự sống, ơng gọi đó là sinh quyển. Tiếp đó là sự
ra đời của tri quyển - quyển về ý thức, tinh thần của con ngƣời. Theo ông, tri
quyển là văn hóa. Nhƣ vậy, văn hóa thuộc bình diện ý thức tinh thần của con ngƣời.
Theo Nhà văn hóa học Phan Ngọc (2001): Văn hóa khơng phải là kỹ
thuật, khơng phải là hoạt động tinh thần hay hoạt động chính trị xã hội, cũng
không phải là phong tục tập quán, mà “văn hóa là dấu ấn của một tập thể cộng
đồng trên mọi hiện tƣợng tinh thần, vật chất, một sản phẩm của tập thể cộng
từ tín ngƣỡng, phong tục cho đến cả sản phẩm công nghiệp bán ra thị trƣờng”
Nhà sử học Trần Quốc Vƣợng (2000) khẳng định: “Văn hóa là sự thích

nghi và biến đổi thiên nhiên, thiên nhiên đặt ra trƣớc con ngƣời những thử
thách, những thách đố. Văn hóa là sản phẩm của con ngƣời, là phản ứng, là sự
trả lời của con ngƣời trƣớc những thách đố của tự nhiên”. Văn hóa xét ở mỗi
cá nhân cũng nhƣ ở mỗi cộng đồng còn là do lịch sử hun đúc nên. Những số
phận, vận mệnh lịch sử khác nhau tạo nên những văn hóa khác nhau. Theo tác
giả, văn hóa, theo nghĩa rộng, là cái tự nhiên đƣợc biến đổi bởi con ngƣời, bao

14


hàm cả kỹ thuật, kinh tế… để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử,
một thái độ tổng quát của con ngƣời đối với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội, là
cái vai trò của con ngƣời trong vũ trụ đó, với một hệ thống những chuẩn mực,
những giá trị, những biểu tƣợng, những quan niệm… tạo nên phong cách diễn
tả tri thức và nghệ thuật của con ngƣời. Nhƣ vậy, thì phải xuát phát từ những
điều kiện tự nhiên vốn là một sản phẩm của tự nhiên, là một phần của tự
nhiên, đứng đối diện với tự nhiên mà tạo thành văn hóa rồi sau đó là những
điều kiện lịch sử để nhìn nhận về cội nguồn và bản sắc của nền văn hóa Việt Nam.
Tác giả Lê Quang Thiêm (1998) lại xem xét văn hóa từ quan điểm giá
trị "văn hóa là giá trị bao chứa tính ổn định, bền vững nhất định. Nó đƣợc tích
lũy và lũy và truyền đạt từ thế hệ này sang thế hệ khác, nó giúp cho lịch sử xã
hội, vận động, phát triển, nối kết với truyền thống".
Tác giả Trần Ngọc Thêm (1996) đã đƣa nhận định phạm vi khái niệm
và cấu trúc giữa văn hóa và văn minh. Theo ơng, văn hóa chứa đựng cả các
giá trị vật chất và tinh thần, mang tính dân tộc và có bề dày lịch sử. Tuy
nhiên, văn hóa gắn bó nhiều hơn với nền nơng nghiệp phƣơng Đơng. Cịn văn
minh chỉ một trình độ thiên về giá trị vật chất và kỹ thuật, có tính quốc tế và
gắn bó nhiều hơn với sự phát triển của phƣơng Tây đô thị.
Nhà nghiên cứu Trần Đức Thảo (1996) dẫn ý kiến của Krobe và
Kluckholm về văn hóa cho rằng, văn hóa là sản phẩm do con ngƣời tạo ra, từ

nếp ăn, nếp ở, những thói quen từ cuộc sống, lịch sử bao gồm tƣ tƣởng, giá trị
và con ngƣời tạo ra, là lịch sử bao gồm những tƣ tƣởng, khuôn mẫu và giá trị,
là sự lựa chọn, là sự học hỏi, cả sự lựa chọn, là sự học hỏi, văn hóa hình thành
trên nền các biểu trƣng dân tộc và văn hóa vừa là sự trừu tƣợng của hành vi
vừa là sản phẩm của hành vi. Mọi nền văn hóa đều đƣợc hình thành chủ yếu
dựa vào cách ngƣời ta ứng xử, cảm giác và phản ứng.

15


Nhìn chung thuật ngữ văn hóa hàm chỉ rất nhiều mặt, từ những tập tục
lâu đời, từ những nghi lễ truyền thống, từ những nếp sinh hoạt rất đời thƣờng
đến cả lối sống hiện đại.. Văn hố, nói theo một cách khác là tất cả những gì
làm cho cộng đồng này khác biệt với các cộng đồng khác. Đã có rất nhiều
định nghĩa về văn hố, nhƣng chúng ta có thể hiểu một cách tƣơng đối đầy đủ
về văn hoá là hệ thống hữu cơ các giá trị, vật chất và tinh thần do con ngƣời
sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn và tƣơng tác giữa con
ngƣời với con ngƣời, với môi trƣờng tự nhiên và xã hội.
Chúng ta có thể xem xét văn hóa trong mối quan hệ gắn bó giữa cái ta
với thế giới tự nhiên, môi trƣờng xã hội trải dài trong quá trình hình thành,
tồn tại và phát triển của các cộng đồng tộc ngƣời và cuối cùng là giữa cái ta
với chính cái ta.
Vậy phải xem xét mối quan hệ và lối ứng xử giữa con ngƣời với thế
giới tự nhiên để có cái nhìn tồn diện về văn hóa. Thế giới tự nhiên bao gồm
tất cả những gì thiên nhiên dành cho con ngƣời. Thế giới tự nhiên có vai trị
vơ cùng quan trọng, mỗi cộng đồng tộc ngƣời sống trong mơi trƣờng tự nhiên
khác nhau sẽ hình thành nên những lối sống khác nhau. Ví dụ nhƣ ngƣời đồng
bằng Bắc Bộ ở Việt Nam, nhờ những con sông chứa đầy phù sa và khí hậu
nhiệt đới nên họ đã sớm hình thành nền văn minh nơng nghiệp lúa nƣớc, còn
những ngƣời ở vùng cao hơn họ lại trồng nƣơng đốt rẫy, du canh du cƣ. Môi

trƣờng tự nhiên đó cũng hình thành nên các lối ứng xử khác nhau, các giá trị
khác nhau đƣợc biểu hiện qua các biểu trƣng văn hóa. Cách ăn, cách mặc
mang những nét đặc trƣng của từng tộc ngƣời. Chính mơi trƣờng tự nhiên
cũng hình thành nên những thói quen ăn khác nhau trong cùng một đất nƣớc,
nhƣ ngƣời miền Trung Việt Nam thích ăn cay, ngƣời miền Nam lại thích ăn ngọt.

16


Quan hệ ứng xử giữa con ngƣời và môi trƣờng xã hội là chỉ sự tƣơng
tác và các khuôn mẫu ứng xử giữa con ngƣời với con ngƣời bao gồm trong
gia đình và ngồi xã hội. Đó chính là mối quan hệ và hành vi ứng xử giữa con
ngƣời với các hình thức kinh tế, hình thái chính trị, hệ thống luật pháp, các
hình phạt, các quy tắc ứng xử, các hệ thống giá trị, các chuẩn mực, phong tục
tập quán…
Văn hóa, nói một cách ngắn gọn, là tất cả những gì làm cho cộng đồng
này khác biệt với cộng đồng khác. Xét về mặt thành phần, văn hóa là một hệ
thống đa tầng, đa chiều đan xen biện chứng, cơ bản dựa trên các yếu tố nội
sinh (bản địa, dân tộc) kết hợp với các yếu tố ngoại sinh (ngoại lai, quốc tế).
Nhà nghiên cứu văn hóa Hữu Ngọc (2008) đã trích định nghĩa về văn
hóa của UNESCO: Văn hóa là một tổng thể những hệ thống biểu trƣng (ký
hiệu) chi phối tƣ duy, cách ứng xử (ngƣời với thiên nhiên, ngƣời với ngƣời)
và các mối quan hệ trong một cộng đồng, khiến cộng đồng ấy có đặc thù
riêng.
1.2.2. Quan hệ giữa ngơn ngữ và văn hóa
Văn hóa và ngơn ngữ có mối quan hệ khăng khít với nhau. Văn hóa là
nội dung và ngơn ngữ là phƣơng tiện truyền tải nội dung đó.
Cùng với cách ăn, mặc, ở, đi lại của mỗi cộng đồng, ngôn ngữ cũng là
một nhân tố rất quan trọng của văn hố, ngơn ngữ khơng chỉ phản ánh về tƣ
tƣởng, tình cảm của ngƣời sử dụng ngơn ngữ đó mà cịn là phƣơng tiện lƣu

giữ tốt nhất nét văn hoá, truyền thống, phong tục tập quán, ứng xử với thiên
nhiên và xã hội của một dân tộc.
Do ngôn ngữ đƣợc sinh ra trong quá trình lao động, sáng tạo của con
ngƣời nên ngơn ngữ gắn chặt với văn hoá, trực tiếp phản ánh cách tri giác và

17


tƣ duy thế giới của cộng đồng dân tộc, mà văn hố dân tộc khơng thể khơng
liên quan đến cách tri giác và tƣ duy ấy.
Có nhiều nhà khoa học mô tả mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa và
có nhiều ý kiến khác nhau song đều có điểm chung là văn hóa bao trùm ngơn
ngữ và ngơn ngữ phản chiếu hình ảnh của văn hóa.
Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định rằng việc các đặc trƣng văn hóa
dân tộc thể hiện ở việc định danh (gọi tên, chia tách các đoạn của hiện thực
khách quan trên cơ sở đó hình thành những khái niệm tƣơng ứng về chúng
dƣới dạng các từ, cụm từ, ngữ và câu)
Về vấn đề mối quan hệ giữa ngơn ngữ và văn hố, ngơn ngữ là một
lăng kính mà qua đó ngƣời bản ngữ tri giác thế giới, và do đó quy định cách
tƣ duy của họ về hiện thực, thành thử có thể nói rằng mỗi ngơn ngữ cầm tù cái
dân tộc sử dụng nó trong một thế giới riêng, và một bên là phổ quát luận của
Chomsky, chủ trƣơng mấy nghìn thứ tiếng đƣợc các ngôn ngữ sử dụng trên
thế giới chẳng qua là những dị bản địa phƣơng của một hệ thống ngôn ngữ
duy nhất thể hiện những nguyên lý phổ quát chi phối cách khái niệm hoá thế
giới của chúng ta.
Những ảnh hƣởng của các nhân tố văn hoá đối với cấu trúc của ngơn
ngữ là điều khó có thể hồ nghi, tuy không phải bao giờ cũng dễ chứng minh.
Và do đó, ít ra cũng có thể tìm thấy những sự kiện ngơn ngữ nào đó có thể cắt
nghĩa đƣợc bằng những sự kiện thuộc về bản sắc ngơn ngữ của khối cộng
đồng nói thứ tiếng đó, và đến lƣợt nó, các sự kiện ngơn ngữ lại có thể gợi cho

ta những điều hữu ích về cách cảm nghĩ của ngƣời bản ngữ và từ đấy về nền
văn hố của họ.
Nhìn chung, ngơn ngữ và văn hố có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
nhau, chúng phát triển trong sự tác động qua lại lẫn nhau. Các phạm vi của

18


ngơn ngữ và văn hố gắn bó lẫn nhau, nhƣng thƣờng thƣờng, tuy nét quyết
định sự tồn tại của nền văn hố bằng ngơn ngữ, nhƣng chính ngơn ngữ lại
cũng là thành tố độc lập của nền văn hoá dân tộc. Việc xem ngôn ngữ nhƣ
thành tố quan trọng nhất của văn hoá và chú ý tới chức năng xã hội của nó,
nhấn mạnh mối quan hệ lẫn nhau giữa ngôn ngữ và linh hồn. Là một thành tố
của nền văn hố tinh thần, ngơn ngữ giữ vị trí đặc biệt trong nó. Bởi vì ngơn
ngữ là phƣơng tiện tất yếu và là điều kiện cho sự nảy sinh, phát triển và hoạt
động của những thành tố khác trong văn hố. Ngơn ngữ là một trong những
thành tố đặc trƣng nhất của bất cứ nền văn hoá dân tộc nào. Chính trong ngơn
ngữ, đặc điểm của nền văn hố dân tộc đƣợc lƣu giữ lại rõ ràng nhất. Chính
ngơn ngữ đƣợc một dân tộc sáng tạo ra và của riêng dân tộc này đã thực hiện
chức năng đặc trƣng dân tộc. Với tƣ cách là đặc điểm đặc thù của một nền văn
hố dân tộc, có thể xem ngơn ngữ theo hai hƣớng: “hƣớng nội” - khi đó ngơn
ngữ đóng vai trị nhân tố chính thống nhất dân tộc và “hƣớng ngoại”- trong
trƣờng hợp này, ngôn ngữ là dấu hiệu cơ bản làm phân ly một dân tộc. Chính
do ngơn ngữ có sự kết hợp biện chứng hai chức năng đối lập nhƣ vậy nên
ngôn ngữ đã thực sự là phƣơng tiện tự bảo toàn của một dân tộc, và đồng thời
cũng là phƣơng tiện tách biệt dân tộc này khỏi các nền văn hoá dân tộc khác.
Tác giả Lý Toàn Thắng (2002) nhận xét về mối quan hệ giữa ngơn ngữ
và văn hố nhƣ sau: ngơn ngữ là thành tố cơ bản và quan trọng của văn hoá,
chi phối nhiều thành tố văn hố khác; là một cơng cụ có tác động mạnh mẽ
đến sự phát triển của văn hố. Nếu nhìn từ góc độ ngơn ngữ học, mối quan hệ

giữa ngơn ngữ và văn hố bộc lộ ở ba phƣơng diện: ngơn ngữ biểu hiện hiện
thực văn hố, ngơn ngữ là hiện thân của hiện thực văn hố và ngơn ngữ biểu
trƣng hiện thực văn hố. Đó là phạm vi không gian, thời gian, động thực vật,
màu sắc, quan hệ họ hàng, bộ phận cơ thể con ngƣời…

19


Tác giả Nguyễn Đức Tồn (2002) nhận xét: “Giữa ngôn ngữ và văn hố,
ngơn ngữ dân tộc và văn hố dân tộc có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau,
tác động qua lại lẫn nhau trong quán trình phát triển” [53; tr17]
Tác giả Nguyễn Lai (2001) cho rằng sự hình thành ngơn ngữ là tiền đề
nhiều mặt của sự hình thành văn hố mặc dù theo cách sắp xếp hình thức thì
ngơn ngữ nằm trong phạm trù văn hố. Tác giả khẳng định: ngơn ngữ khơng
chỉ là tiền đề tạo ra đối tƣợng văn hoá, và hơn thế - từ trong chiều sâu - trƣớc
hết, nó là tiền đề tạo ra “con ngƣời”, đồng thời từ đó con ngƣời tạo tiếp những
tiền đề chủ quan và khách quan để làm hình thành cho mình đối tƣợng văn
hố. Về đặc trƣng của văn hố và ngơn ngữ ơng cho rằng cả văn hố và ngơn
ngữ đều là thiết chế xã hội với giá trị đặc thù là: giá trị nhận thức có đƣợc về
chúng bao giờ cũng bị quy định bởi tính ƣớc lệ vốn đƣợc tạo ra bởi một cộng
đồng xã hội xác định gắn với một trạng thái khơng gian và thời gian xác định.
Theo đó những lớp từ vựng đƣợc liên tục sản sinh trong những bối cảnh xã
hội và khơng gian văn hố mới. Nhƣng chắc chắn rằng, nền tảng văn hoá
truyền thống vẫn đƣợc bảo lƣu. Ví dụ nhƣ lớp từ ẩm thực trong tiếng Việt, dù
trải qua nhiều thời kỳ khác nhau với nhiều biến động về mặt lịch sử nhƣng
bánh đúc, bánh xèo, bánh ít, canh tập tàng, cá kho tộ… vẫn là những món mà
bất kể ai là ngƣời Việt Nam đều biết và đều mê. Những món ăn này cũng góp
phần làm nên đặc trƣng của văn hố Việt Nam. Do vậy nghiên cứu từ ngữ ẩm
thực tiếng Việt ta cũng hiểu thêm đƣợc văn hoá Việt Nam. Từ ngữ ẩm thực
góp phần làm đa dạng vốn từ văn hố trong tiếng Việt. Với mối quan hệ qua

lại mật thiệt với nhau, trong ngơn ngữ có văn hố và ngƣợc lại, chúng ta có
thể tìm hiểu những đặc trƣng văn hoá, hay những nét văn hoá của ngƣời Việt
trong lớp từ ẩm thực.
Điểm đáng chú ý là khi xem xét ngơn ngữ - văn hóa trong mối quan hệ
khơng thể tách rời với xã hội mà hạt nhân là con ngƣời, vì con ngƣời là chủ

20


×