Tải bản đầy đủ (.pdf) (247 trang)

(Luận văn thạc sĩ) nghiên cứu chữ nôm và tiếng việt qua văn bản trình quốc công nguyễn bỉnh khiêm thi tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.39 MB, 247 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

HỒNG TỊNH THỦY

NGHIÊN CỨU CHỮ NƠM VÀ TIẾNG VIỆT QUA VĂN BẢN

TRÌNH QUỐC CƠNG NGUYỄN BỈNH KHIÊM THI TẬP

Luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Hán Nôm


Hà Nội-2013

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

HOÀNG TỊNH THỦY

NGHIÊN CỨU CHỮ NƠM VÀ TIẾNG VIỆT QUA VĂN BẢN

TRÌNH QUỐC CƠNG NGUYỄN BỈNH KHIÊM THI TẬP

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hán Nôm
Mã số: 60 22 40

Người hướng dẫn khoa học: TS.Lã Minh Hằng


Hà Nội-2013


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 8
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 8
2. Mục đích nghiên cứu đề tài ..................................................................... 9
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài ................................. 10
4. Lịch sử vấn đề........................................................................................ 10
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và đóng góp của luận văn................... 13
6. Phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................................... 15
7. Quy ƣớc trình bày .................................................................................. 15
8. Bố cục luận văn ..................................................................................... 16
Chương I: TQCNBKTT – TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM ................................. 18
1.1 Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm .................. 18
1.1.1 Cuộc đời của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ....................... 18
1.1.2 Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm ............................ 20
1.2 Văn bản Bạch Vân am thi tập .............................................................. 20
1.2.1 Tình hình văn bản ...................................................................... 20
1.2.2 Giới thiệu tác phẩm TQCNBKTT, kí hiệu AB.635................... 28
Chương II: TQCNBKTT - ĐẶC TRƢNG VỀ VĂN TỰ ............................... 34


2.1 Đơi nét về chữ Nơm trƣớc thời kì Lê - Mạc........................................ 34
2.2 Đặc điểm cấu tạo chữ Nôm trong TQCNBKTT................................... 38
2.2.1 Mơ hình cấu tạo chữ Nơm ......................................................... 38
2.2.2 Tiêu chí thống kê phân loại........................................................ 40
2.2.3 Kết quả thống kê, phân loại ....................................................... 42
2.3 Cách ghi và cách viết chữ Nôm........................................................... 62
2.3.1 Dấu ấn thời đại trong TQCNBKTT thể hiện qua cách dùng

chữ Nôm ............................................................................................. 62
2.3.2 Chữ Nôm trong TQCNBKTT có nhiều cách viết và cách đọc.. 63
2.3.3 Hiện tƣợng song tồn các chữ Nôm cũ/ mới ............................... 72
Chương III: TIẾNG VIỆT LỊCH SỬ TRONG TQCNBKTT ........................ 75
3.1 Ngữ âm tiếng Việt thể hiện qua cách ghi chữ Nôm trong văn bản ..... 75
3.1.1 Dấu vết phụ âm đầu tiếng Việt thể hiện qua văn bản ................ 76
3.1.2 Dấu vết phụ âm đầu tiền Hán Việt thể hiện qua văn bản .......... 86
3.1.3 Dấu vết vần Việt cổ và vần tiền Hán Việt thể hiện qua văn bản87
3.2 Từ Việt cổ ............................................................................................ 93
3.2.1 Từ Việt cổ nay khơng cịn sử dụng trong tiếng Việt hiện đại.... 93
3.2.2 Từ Việt cổ vẫn còn sử dụng trong tiếng Việt hiện đại, nhƣng ý
nghĩa đã mờ đi hoặc tồn tại trong các từ song âm tiết hiện nay ......... 94
3.2.3 Từ láy trong TQCNBKTT ......................................................... 95
3.3 Bảng thống kê các từ cổ trong văn bản TQCNBKTT (AB.635) .......... 98
KẾT LUẬN ................................................................................................... 108
1. Về tình hình văn bản các bản sao chép ............................................... 109
2. Về đặc điểm chữ Nôm ......................................................................... 110


3. Về cách ghi tiếng Việt ......................................................................... 111
4. Hƣớng mở của luận văn ...................................................................... 112
TÀI

LIỆU

KHẢO…………………………………………………...97
Phụ lục I: BẢNG SO SÁNH AB.635 VÀ AB.309
Phụ lục II: CÁC LOẠI CHỮ NÔM
Phụ lục III: TRÍCH PHIÊN ÂM CHÚ THÍCH


THAM


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ thế kỉ XII, dƣới sƣ̣ thúc đẩ y của nhiề u yế u tố khách quan và chủ
quan, nền văn học viết sử dụng ngôn ngữ dân tộc bƣớc đầu đƣợc xây dựng.
Đây đƣơ ̣c xem là cột mốc quan trọng chứng tỏ vai trò của tiếng Việt ngày
càng chiếm ƣu thế trong đời sống xã hội. Mặc dù chữ Nôm và tiếng Việt
không đƣợc coi là ngôn ngữ văn tự chính thống, quan phƣơng, song mơi
trƣờng hành chức của nó khơng ngừng đƣợc mở rộng trong nhƣ̃ng thế kỉ tiế p
sau đó. Chữ Nôm không chỉ đƣơ ̣c ngƣời Viê ̣t sƣ̉ du ̣ng trong các giao dich
̣ dân
sƣ̣, trong các ghi chép kinh điể n Phâ ̣t giáo… mà còn đƣợc dùng làm công cụ
để sáng tác văn ho ̣c với nhƣ̃ng tác phẩ m có giá tri ̣cao trong nề n văn ho ̣c cổ
điể n Viê ̣t Nam.
Bên ca ̣nh đó , viê ̣c mô tả nghiên cứu tiếng Việt từ thế kỉ XIX trở về
trƣớc thông qua các văn bản Nôm đang là công việc đƣợc nhiề u nhà nghiên
cƣ́u chú ý trong khoảng 30 năm trở lại đây. Có thể kể đến một vài cơng
trình tiêu biểu nhƣ: Chữ Nôm nguồn gốc - cấu tạo - diễn biến (Đào Duy
Anh, 1975), Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa (Trần Xuân Ngọc Lan, 1985),
Nghiên cứu về chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết đại báo
phụ mẫu ân trọng kinh (Hoàng Thị Ngọ, 1999), Nghiên cứu chữ Nôm và
tiếng Việt qua văn bản Thiên Nam ngữ lục (Nguyễn Thị Lâm, 2006), Đoạn
trường tân thanh (Nguyễn Tuấn Cƣờng, 2003), Nghiên cứu Lê triều ngự


chế quốc âm thi (Phạm Thị Chuyền, 2007)… Hƣớng nghiên cứu chữ Nôm
và tiếng Việt qua các tƣ liệu thành văn này đã và đang đạt đƣợc những
thành tựu nhất định. Đi theo hƣớng này, luận văn sẽ tiến hành nghiên cứu

về đặc điểm chữ Nôm và tiếng Việt lịch sử qua văn bản Trình quốc cơng
Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nhắ c đế n Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhắ c đế n mô ̣t nhà văn hóa lớn của
dân tô c̣ . Tài năng và nhân cách của ơng có ảnh hƣởng mạnh mẽ trong suốt
thế kỉ XVI – thế kỉ mang nhiề u biế n đô ̣ng chính tri ̣trong lich
̣ sƣ̉ đấ t nƣớc .
Nhƣng bên ca ̣nh đó ơng cịn là nhà thơ tiêu biểu của nề n văn ho ̣c trung đa ̣i
(thế kỉ X VI) với hàng ngàn bài thơ chữ Hán và chữ Nơm có giá trị để lại
cho hâ ̣u thế . Viê ̣c tìm hiể u thơ văn Ngũn Bỉnh Khiêm nói chung và thơ
chƣ̃ Nơm của ông nói riêng ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều học
giả, bởi tác phẩ m của ông mang phong thái đă ̣c trƣng của thời kì Lê Trung
Hƣng - thời kì cả văn tƣ̣ lẫn ngƣ̃ âm Tiế ng Viê ̣t trải qua nhiề u biế n đổ i lớn
để dần bƣớc vào giai đoạn ổn định , phát triển . Với một số lƣợng thơ lớn
đƣơ ̣c ghi bằ ng văn tƣ̣ dân tô ̣c , Trình quốc cơng Nguy ễn Bỉnh Khiêm thi tập
đƣơ ̣c đánh giá cao về phong cách sáng tác cũng nhƣ chấ t liê ̣u thơ ; nó thực
sự là nguồn tƣ liệu q để góp phần tìm hiểu đ ặc điểm chữ Nôm và tiếng
Việt thế kỉ XV – XVI. Với những lí do thiết thực đó, chúng tơi đã quyết
định lựa chọn đề tài: Nghiên cứu chữ Nôm và tiếng Việt qua văn bản
Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập làm luận văn.

2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Thơng qua việc khảo cứu Trình quốc cơng Nguy ễn Bỉnh Khiêm thi
tập, luận văn góp phần làm rõ vấn đề văn bản học của tác phẩm, cung cấp


một văn bản khả tín cho việc nghiên cứu thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Luận văn cũng mang đến cái nhìn khá hồn chỉnh về các kiểu loại
chữ Nơm mà văn bản sử dụng, đồng thời cũng đi sâu tìm hiểu đặc điểm chữ
Nôm và tiếng Việt trong tác phẩm, nhằm góp phần nghiên cứu chữ Nơm
cũng nhƣ các vấn đề về ngữ âm và từ vựng cổ.


3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Với những mục đích nêu trên, hi vọng đề tài sẽ có những đóng góp
cho việc tìm ra những đặc điểm về cấu tạo chữ Nôm, ngữ âm tiếng Việt
và cách ghi từ cổ trong Trình quốc cơng Nguy ễn Bỉnh Khiêm thi tập . Kết
quả khảo cứu của luận văn sẽ góp phần tìm hiểu cấu trúc chữ Nơm, hiểu
sâu hơn về lịch sử tiếng Việt, đóng góp hữu ích cho việc dạy và học chữ
Nôm cũng nhƣ tiếng Việt, văn chƣơng Việt trong nhà trƣờng hiện nay.
Các phân tích về đặc điểm chữ Nôm trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm,
bảng phân loại chữ Nôm trong phụ lục của luận văn sẽ đóng góp cho việc
nghiên cứu chữ Nơm đồng đại và lịch đại.
Ở mức độ cho phép, luận văn sẽ tiến hành so sánh đối chiếu chữ Nôm,
từ vựng cổ trong các văn bản trƣớc và sau đó. Từ đó đƣa ra những nhận
định giúp khẳng định giá trị của văn bản trong việc nghiên cứu chữ Nôm và
tiếng Việt lịch sử.

4. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Bỉnh Khiêm từ lâu vẫn đƣợc xƣng tụng là nhà văn hóa lớn
của Việt Nam trong thế kỉ XVI, nên cuộc đời và văn nghiệp của ông từ lâu
đã trở thành đề tài đƣợc nhiều ngƣời quan tâm. Trong số các tập thơ Nôm
của ông, Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập là tập thơ Nôm đă ̣c


sắ c có giá trị lớn trong việc nghiên cứu chữ Nơm và lịch sử tiếng Việt. Cho
đến nay, có khá nhiều cuốn sách, bài nghiên cứu giới thiệu về tập thơ này
nhƣ sau:
- Bạch Vân thi tập, tạp chí Nam Phong, từ số 14 đến 37, năm 1918 –
1920 có in một số bài thơ Nơm của Ngũn Bỉnh Khiêm.
- Hoàng Xuân Hãn trong Thi văn Việt Nam, NXB Sông Nhị đã trích
in 14 bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

- Hoàng Xuân Hãn trong La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập 3 đã
trích in 14 bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Bài viết Nguyễn Bỉnh Khiêm, người phát ngôn của đạo đức phổ
thông của Paul Schneider in trong tập san Hiệp hội nghiên cứu về Đông
Dƣơng, số 4 năm 1974 đã phiên Nôm Bạch Vân am thi tập ra chữ Quốc ngữ,
có đối chiếu một số bài trong Bạch Vân am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm
với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.
- Năm 1939, Sở Cuồng Lê Dƣ trong Quốc học tùng san, đệ nhất tập,
đã giới thiệu Bạch Vân am thi văn tập, đồng thời đã phiên âm chú giải giới
thiệu 100 bài thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Năm 1983, nhóm Đinh Gia Khánh và Hồ Nhƣ Sơn đã chọn 161 bài
thơ Nôm trong tuyển tập Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm do nhà xuất bản Văn học
ấn hành.
- Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Giáo dục, H.1989, Bùi Văn
Nguyên đã phiên âm 177 bài thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Tổng tập văn học Việt Nam, tập 6, Bùi Duy Tân đã tuyển chọn 90
bài trong Bạch Vân quốc ngữ thi và 86 bài trong Bạch vân am thi tập, đồng
thời ghi rõ “Bạch Vân quốc ngữ thi cịn có tên là Trình quốc cơng Nguyễn


Bỉnh Khiêm thi tập hoặc Trình quốc cơng Bạch Vân thi tập… Chúng tôi dựa
vào phần thơ Nôm trong Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm của nhóm Đinh Gia
Khánh – Bùi Duy Tân – Hồ Nhƣ Sơn để tuyển chọn thơ Nôm Nguyễn Bỉnh
Khiêm vào tổng tập. Nhƣng tạm gác khoảng 30 bài còn đang lẫn lộn với thơ
ngƣời khác và chỉ chọn 90 bài trong số những bài thơ còn lại…” Theo khảo
sát thì khả năng Tổng tập văn học Việt Nam sử dụng văn bản AB.157 làm
bản phiên âm là rất lớn (Câu đầu tiên là Lần lữa ngày qua tháng qua. Trong
khi cả hai bản AB.309 và AB.635 đều phiên là Lẩn thẩn). Thêm vào đó,
nếu so với 161 bài trong Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm của nhóm Đinh Gia
Khánh – Bùi Duy Tân – Hồ Nhƣ Sơn thì vẫn chƣa rõ Tổng tập văn học Việt

Nam căn cứ vào tiêu chí gì để loại bỏ 41 bài còn lại trong Thơ văn Nguyễn
Bỉnh Khiêm.
- Tổng tập văn học Nôm Việt Nam, tập 1, do Nguyễn Tá Nhí chủ biên,
có một bài viết khá dài về ba văn bản Bạch Vân am thi tập là AB.157,
AB.309 và AB.635 đồng thời đã phiên âm 100 bài thơ Nôm. Mặc dù nhóm
tác giả đã quyết định lựa chọn bản AB.635 để phiên âm Nôm, nhƣng qua
khảo sát, chúng tôi nhận thấy việc phiên âm không chỉ dựa trên bản nền
(bản AB.635) nhƣ nhóm tác giả đã chỉ ra.
Nhƣ vậy, lƣợc qua phần lịch sử vấn đề về tác phẩm Bạch Vân am
thi tập, ta có thể nhận thấy những bài viết, nhận định mà giới nghiên cứu,
học giả đƣa ra đều có sức thuyết phục, là cơ sở để tác giả luận văn suy
nghĩ, chọn cho mình hƣớng đi phù hợp. Bên cạnh những thuận lợi (do
đƣợc tham khảo các bản phiên của các học giả đi trƣớc) Luận văn cũng
phải đối mặt với khó khăn vì đa phần các cơng trình nghiên cứu, bài viết
khoa học đều chƣa đƣa ra cơ sở để tuyển dịch thơ Nôm. Các bản dịch


đƣợc cơng bố khơng có tính thống nhất về mặt văn bản. Điều này đặt ra
cho chúng tôi một nghi vấn, có lẽ các tác giả đã dùng song song ba văn
bản để cho ra một bản phiên Nôm Quốc ngữ?
Các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã cố gắng công bố các bài thơ
Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tuy nhiên, các bài thơ đƣợc đƣa ra đã thực
sự là của Ngũn Bỉnh Khiêm hay khơng vẫn cịn là một vấn đề cần có sự
khảo cứu cẩn trọng. Chính vì thế, Luận văn sẽ cố gắng áp dụng phƣơng
pháp văn bản học để tìm chọn một văn bản có độ tin cậy hơn cả, làm cơ sở
cho việc nghiên cứu chữ Nôm và văn Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Chúng tôi cũng hy vọng rằng, đề tài Nghiên cứu chữ Nôm và tiếng Việt
qua văn bản Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập sẽ góp một hơi
thở mới trong việc tìm hiểu về Nguyễn Bỉnh Khiêm - một trong những nhà
văn hóa lớn của Việt Nam, một con ngƣời thấm đƣợm màu huyền thoại.


5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và đóng góp của luận văn
5.1 Đới tượng nghiên cứu
Để Luận văn rút ra hƣớng giải quyết thấu đáo hợp lí đòi hỏi ngƣời
viết phải xác định đúng đối tƣợng nghiên cứu. Đây là việc làm thiết yếu,
cần thiết trƣớc khi bắt tay vào triển khai đề tài. Chọn đối tƣợng đúng sẽ
giúp ngƣời thực hiện đề tài triển khai đúng hƣớng, và ngƣợc lại. Hiểu rõ
tầm quan trọng của việc lựa chọn đối tƣợng nghiên cứu, chúng tôi đã tiến
hành tìm hiểu và nhận thấy thơ Nơm Ngũn Bỉnh Khiêm chủ yếu đƣợc sao
chép trong ba văn bản Bạch Vân thi tập kí hiệu AB.157; Trình quốc cơng
Bạch Vân thi tập kí hiệu AB.309 và Trình quốc cơng Nguyễn Bỉnh Khiêm
thi tập kí hiệu AB.635. Cả 3 văn bản hiện đang lƣu giữ tại Thƣ viện Viện


nghiên cứu Hán Nôm. Từ kết quả khảo cứu văn bản, chúng tơi chọn Trình
quốc cơng Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập kí hiệu AB.635 làm đối tƣợng nghiên
cứu trong luận văn. Các vấn đề đƣợc tiến hành nghiên cứu: phiên âm, chú
giải, khảo cứu cấu tạo chữ Nôm và cách ghi tiếng Việt sẽ đƣợc thể hiện qua
văn bản này.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở phiên âm chú giải toàn bộ văn bản, luận văn sẽ khảo cứu
toàn bộ tác phẩm về cấu tạo chữ Nôm, ngữ âm tiếng Việt và cách ghi từ cổ.
5.3 Đóng góp của luận văn
Luận văn hồn thành sẽ có những đóng góp sau:
- Đƣa ra cái nhìn tổng quát về hệ thống thơ chữ Nôm của Nguyễn
Bỉnh Khiêm.
- Cung cấp văn bản khả tín để nghiên cứu thơ Nôm của Nguyễn
Bỉnh Khiêm (văn bản Trình quốc cơng Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, kí hiệu
AB.635).
- Từ những kết quả nghiên cứu chữ Nôm trong văn bản có thể cung

cấp những số liệu đáng tin cậy về những nét đặc thù của chữ Nôm ở thời kì
mà tác phẩm xuất hiện.
- Kết quả của việc khảo cứu cách ghi tiếng Việt qua văn bản Trình
quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập sẽ là một tƣ liệu cho việc tìm hiểu
diện mạo ngữ âm tiếng Việt đƣơng thời.
- Cung cấp một bản Phiên âm chuẩn xác với những chú thích tƣờng
tận tồn bộ tác phẩm Trình quốc cơng Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập.
Những đóng góp trên đây sẽ là một trong những nguồn tƣ liệu góp


thêm cho việc tìm hiểu quá trình phát triển chữ Nơm và tiếng Việt lịch sử
nói chung.

6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện những nội dung này, chúng tôi chủ yếu áp dụng phƣơng
pháp văn bản học để tìm ra bản nền tốt nhất làm cơ sở cho các nghiên cứu
tiếp sau; phƣơng pháp nghiên cứu lịch đại và nghiên cứu đồng đại đƣợc
thực hiện đối với các hiện tƣợng văn hoá và chữ viết.
Các thao tác đƣợc sử dụng, gồm: thao tác phân tích chứng minh (để
làm sáng rõ cho các luận điểm đề ra); thao tác thống kê phân loại (đƣợc sử
dụng để thống kê và phân loại cấu trúc chữ Nôm trong văn bản); thao tác so
sánh đối chiếu và so sánh lịch sử (đƣợc sử dụng để khảo cứu cách ghi các từ
cổ trong văn bản).

7. Quy ước trình bày
7.1 Quy ước về cách viết tắt.
Tên tác phẩm viết hoa chữ cái đầu, in nghiêng. Riêng tác phẩm Phật
thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh thì viết tắt hai chữ đầu, in nghiêng.
HĐQÂTT:


Hồng Đức quốc âm thi tập

Phật thuyết:

Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh

QÂTT:

Quốc âm thi tập

TKML:

Truyền kì mạn lục tăng bổ giải âm tập

TQCNBKTT:

Trình quốc cơng Ngũn Bỉnh Khiêm thi

tập
7.2 Quy ước về cách ghi chú thích và trích dẫn.


-- nt --

Lặp lại nhƣ trên

>

Biến chuyển thành


[ ]

Thứ tự tài liệu đƣợc trích dẫn.

8. Bố cục luận văn
Phần mở đầu: Trình bày lí do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu đề
tài, ý nghiã khoa ho ̣c và ý nghiã thƣ̣c tiễn của đề tài

, lịch sử vấn đề, đối

tƣợng và phạm vi nghiên cứu, phƣơng pháp nghiên cứu, quy ƣớc trình bày,
bố cục luận văn.
Chương I: TQCNBKTT – Tác gia và tác phẩm
Chƣơng này có nhiệm vụ trình bày một số vấn đề sau:
- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Khảo cứu văn bản, áp dụng phƣơng pháp nghiên cứu văn bản học
để chọn bản nền, làm cơ sở cho các nghiên cứu ở các chƣơng sau.
Chương II: TQCNBKTT – Đặc trưng về văn tự
Chƣơng này đề cập đến những vấn đề sau:
- Giới thiệu khái quát về tình hình chữ Nơm trong văn bản.
- Phân tích cấu tạo, từ đó đƣa ra mơ hình phân loại chữ Nơm trong
văn bản. Qua số liệu thống kê đƣợc tiến hành so sánh các loại cấu trúc.
Nhận xét sự vận động, thay đổi của các loại chữ Nơm có trong văn bản.
Chương III: Tiếng Việt lịch sử trong TQCNBKTT
Chƣơng này chủ yếu tiến hành nghiên cứu khối từ vựng cổ qua văn
bản TQCNBKTT (AB.635) và một số vấn đề về cách ghi tiếng Việt trong
tập thơ.
Kết luận: Tóm lƣợc kết quả nghiên cứu đã làm đƣợc và những vấn đề



còn để ngỏ khi nghiên cứu tác phẩm TQCNBKTT.
Phụ lục: Phần này gồm có ba phần:
- Bảng so sánh văn bản AB.635 và văn bản AB.309
- Bảng tra theo thể loại các chữ Nôm trong văn bản
- Bản phiên âm TQCNBKTT.


CHƢƠN
GI

TQCNBKTT – TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
1.1 Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm
1.1.1 Cuộc đời của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585), ngƣời làng Trung Am, huyện
Vĩnh Lại (nay là xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng).
Sinh trƣởng trong một gia đình vọng tộc (cháu ngoại quan Thƣợng thƣ
Nhữ Văn Lan) có học vấn. Song thân ơng đều là những ngƣời có văn tài
học hạnh nên ngay từ nhỏ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã hấp thu truyền thống
gia giáo, kỷ cƣơng. Thân mẫu của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tƣơng truyền bà là
ngƣời giỏi giang văn tài và tinh thông địa lý, tƣớng số. Ngay từ khi
Nguyễn Bỉnh Khiêm cất tiếng khóc chào đời, thấy con mình có tƣớng mạo
khác thƣờng, bà đã dốc lòng dạy dỗ con trai thành một tài năng giúp nƣớc,
cứu đời. Niềm thơi thúc đó khiến Ngũn Bỉnh Khiêm sớm tìm đƣợc thầy
học có đạo cao đức cả là cụ bảng nhãn Lƣơng Đắc Bằng. Với trí tuệ mẫn
tiệp, thông minh từ nhỏ, lại gặp thầy giỏi nên Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm trở
thành ngƣời có tài năng xuất chúng. Và sau này, tài học vấn uyên thâm
của ông đã vƣợt xa thầy.


Cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm hoàn toàn gắn liền với giai đoạn

đất nƣớc loạn lạc. Nhà Lê lụn bại, chính sự rối ren, các phe phái nổi lên
nhƣ ong vỡ tổ. Và điều tất yếu đã phải xảy đến, nhà Lê mất ngôi về tay
một vị quyền thần: Mạc Đăng Dung. Trong thời gian đầu, nhà Mạc đƣa
đất nƣớc trở về thế ổn định với những thành tựu đáng kể về văn hóa, nghệ
thuật… Thời thế đấy đã thúc đẩy Nguyễn Bỉnh Khiêm thi đỗ khoa thi thứ
ba nhà Mạc khi đã 45 tuổi. Ông bƣớc vào con đƣờng công danh khá muộn,
lý giải cho điều này Phan Huy Chú đã đƣa ra luận điểm “Khi họ Mạc lấy
đƣợc nƣớc rồi, bốn phƣơng tạm yên, các thân thích bạn bè đều khuyên ông
ta ra làm quan”. Sau khi đỗ đầu ba lần thi thi Hƣơng, Thi Hội và thi Đình,
Nguyễn Bỉnh Khiêm ra làm quan tân triều và nhanh chóng đƣợc phong
chức Tả thị lang (chức đứng hàng thứ ba trong bộ Hình). Tuy nhiên, sau
bảy năm dốc sức phò tá cho nhà Mạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cáo quan về
nhà sau khi dâng sớ xin chém 18 lộng thần không đƣợc chấp thuận. Lúc ấy,
Mạc Phúc Hải đã gia phong ơng là Trình Tuyền hầu. Ơng về qn Trung
Tân, mở am Bạch Vân, lấy hiệu Bạch Vân cƣ sĩ và mở trƣờng dạy học.
Trong giai đoạn tiếp theo, nhà Mạc bắt đầu cuộc chiến tranh quyết liệt với
tập đoàn Lê – Trịnh, năm 1554, Nguyễn Bỉnh Khiêm chấp thuận dẫn quân
Mạc đi đánh anh em Vũ Văn Mật ở Tuyên Quang. Với mong ƣớc đƣợc
chung vai gánh vác gánh nặng sơn hà nhƣng ý chí nguyện vọng của ông
sớm bị những mục nát của triều chính làm đổ vỡ, khoảng năm 1563-1564
Nguyễn Bỉnh Khiêm chính thức từ quan. Ngày 17 tháng 11 năm 1585 (âm
lịch) Nguyễn Bỉnh Khiêm qua đời, thọ 95 tuổi. Vua Mạc lúc bấy giờ sai
Mạc Kính Điển làm Khâm sai, cùn các con về tế, truy phong ơng Thƣợng
thƣ bộ Lại, Thái phó Trình quốc công và đề trƣớc cửa đền: “Mạc triều


Trạng nguyên Tể tƣớng từ”.
Cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy gắn liền với giai đoạn xoay
chuyển vận mệnh dân tộc với nhiều thay đổi khốc liệt trong lịch sử, nhƣng
điều đáng trân trọng hơn cả là dù ra làm quan hay quyết tâm ở ẩn, thì tấm

lịng của ơng vẫn luôn hƣớng về nhân dân, đất nƣớc.
1.1.2 Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ
có giá trị nhƣ: Bạch Vân thi tập (gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán) và Bạch
Vân am thi tập hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi (hiện còn tồn tại
trong ba tập thơ Nơm Trình quốc cơng Bạch Vân am thi tập gồm 100 bài
thơ Nôm mang kí hiệu AB.309; Bạch Vân thi tập cũng chép đủ 100 bài
mang kí hiệu AB.157 và Trình quốc cơng Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, kí
hiệu AB.635). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giàu chất liệu hiện thực, mang
tính triết lý sâu xa của thời cuộc. Ơng phê phán gay gắt bọn tham quan ơ
lại hút máu dân. Thơ ơng cịn truyền đạt cho đời một đạo lý đối nhân xử
thế, đạo vua tôi, cha con và quan hệ bầu bạn, hàng xóm láng giềng. Đọc
thơ ơng là thấy cả một tấm lịng lo cho nƣớc, thƣơng đời, thƣơng dân, và
một tâm hồn suốt đời da diết với đạo lý: "Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu
thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trƣớc cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của
thiên hạ). Vì thế khi về ở ẩn, ơng vẫn mở trƣờng dạy học, mong đào tạo
cho đời những tài năng "kinh bang tế thế".

1.2 Văn bản Bạch Vân am thi tập
1.2.1 Tình hình văn bản
Văn bản với ý nghĩa nguyên thủy là nơi liên kết ngôn từ theo những


quy tắc thể thức nhất định để tạo ra một sự ổn định tƣơng đối về hình thức
nhằm biểu đạt một nội dung nhất định của hoạt động giao tiếp bằng ngơn
ngữ. Điều đó có nghĩa văn bản là nơi lƣu trữ ngơn ngữ viết, nó gắn bó
khăng khít với sự ra đời và hoạt động của ngôn ngữ. Các văn bản Hán Nơm
cũng ra đời với vai trị và chức năng đó. Đây là một bộ phận rất quan trọng
trong kho tàng di sản văn hóa thành văn của dân tộc ta. Song, do điều kiện
lịch sử, khí hậu, thậm chí là về vấn đề tƣ tƣởng đã làm cho phần lớn các văn

bản Hán Nôm bị mất mát, gây ra nhiều khó khăn cho giới nghiên cứu. Các
văn bản Hán Nôm hiện lƣu giữ đƣợc, trừ các tác phẩm đƣợc khắc in, đa
phần đều là các bản sao lƣu, các bản gốc do chính tác giả biên soạn còn lại
hiếm hoi. Việc sao lƣu y nguyên bản gốc là một nguyên tắc bất di bất dịch
của công tác văn bản, nhƣng với rất nhiều lí do khiến nguyên tắc này ln
bị vi phạm, dẫn đến tình trạng “tam sao thất bản” ln xảy ra. Trƣớc hiện
tƣợng đó, độc giả khó có thể nhận ra sự thêm bớt của các thế hệ ngƣời sao
chép vào nguyên tác. Chính vì vậy, các thao tác văn bản học luôn đƣợc ƣu
tiên trong nghiên cứu Hán Nơm, để có thể tìm ta những văn bản gần với
nguyên gốc nhất.
Đối với một tác phẩm khơng cịn bản gốc (tức là bản có bút tích của
tác giả, bản in lần đầu tiên, bản in cuối cùng khi tác giả còn sống) nhƣ
TQCNBKTT, các nhà nghiên cứu vẫn thƣờng tiến hành theo các phƣơng
pháp: tập hợp dị bản, xử lí bƣớc đầu qua các công tác văn bản học (đặc biệt
là khâu nghiên cứu lịch sử văn bản) để tiến hành đối chiếu so sánh, chọn lấy
một bản mang tính ƣu việt nhất, gần với nguyên tác nhất.
Xử lí các văn bản thơ chữ Nôm hiện đang là một trong những khâu
cần thiết để đem lại cái nhìn đánh giá đúng đắn và tồn diện cho tài thơ của


Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử thơ ca tiếng Việt, bởi nếu khơng hồn
thiện khâu này thì mọi kết luận về nghệ thuật ngôn từ trong thơ ca Nguyễn
Bỉnh Khiêm đều sẽ là cái nhìn võ đốn, một chiều. Cho đến nay, Bạch Vân
am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm đƣợc ghi chép tập trung trong ba văn
bản mang tên Bạch Vân thi tập, Trình quốc cơng Bạch Vân thi tập, và Trình
quốc cơng Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập. Kết quả khảo sát ba văn bản này sẽ
cho chúng ta một kết luận thỏa đáng.
- Trình quốc cơng Bạch Vân thi tập, kí hiệu AB.309.
Văn bản chép tay trên giấy lệnh đã sờn cũ, khổ 22 x 13cm, chƣa bị
rách nát, gồm 97 trang, chép tay 100 bài thơ Nôm, đƣợc ghi thứ tự rõ ràng.

Mỗi trang có khoảng 5 dòng, viết từ trái sang phải, từ trên xuống dƣới; mỗi
dịng có 13 chữ, dịng nhiều nhất là 14 chữ, dịng ít nhất có 2 chữ. Chữ viết
trong văn bản là dạng bán thảo, rõ ràng nhƣng hơi nhịe, có chỗ còn nát mất
chữ; khoảng cách giữa các chữ là 0,5 cm, chữ cỡ 1 x 1 cm.
Trang đầu và trang cuối xuất hiện con dấu của Viện Viễn Đông Bác
Cổ. Kết thúc phần nội dung, sách không ghi phụng sao theo bản nào,
nhƣng tiếp theo đó có hai dịng chữ bị nát “La Tiên thập vịnh” và “Kì nhất
[…]”. Chi tiết này có thể là cơ sở cho giả thiết: bản Trình quốc cơng Bạch
Vân thi tập từng đƣợc chép cùng với tập thơ của ngƣời khác, nhƣng sau
khi đƣợc Viện Viễn Đông Bác Cổ sƣu tầm về, đã đƣợc bóc tách thành một
văn bản riêng biệt.
Trang đầu tiên ghi tiêu đề “Mạc hiệu Đại Chính lục niên, Ất Mùi
khoa tiến sĩ cập đệ nhất giáp nhất danh, Trình quốc công tuyển Bạch Vân
thi tập cộng nhất bách thủ (nội dụng quốc âm hữu trường đoản cách)” (Tập
thơ Bạch Vân [dùng thể trƣờng đoản quốc âm] tổng cộng gồm một trăm bài


thơ do đệ nhất giáp tiến sĩ khoa thi Ất Mùi, năm Đại Chính thứ 6 triều Mạc
là Trình quốc công tuyển chọn).
- Bạch Vân thi tập, kí hiệu AB.157 có chữ viết chân phƣơng, dễ đọc,
chép 100 bài thơ Nôm. Văn bản này cũng là bản chép tay, chữ viết hơi nhòe
do chất giấy đã sờn cũ. Văn bản AB.157 gồm 44 trang, khổ 33 x 23cm. Con
dấu của Viện Viễn Đông Bác cổ không chỉ xuất hiện ở trang đầu tiên mà
còn rải rác trong suốt tác phẩm. Hai văn bản AB.157 và AB.309 tuy khác
nhau về kích cỡ, kiểu chữ và có thể nhận biết đƣợc AB.309 là bản cổ hơn
nhƣng cả hai đều có số lƣợng thơ là 100 bài và về cơ bản 100 bài này trùng
nhau cả về nội dung, thứ tự bài và mã chữ. Qua khảo sát sơ bộ thì thứ tự
từng bài trong văn bản AB.309 và AB.157 hoàn toàn trùng khớp, tỉ lệ mã
chữ giống nhau cũng rất cao. Toàn bộ văn bản chỉ có 3 chữ khác biệt so với
bản AB.309, chúng tôi đã thống kê nhƣ sau:



Vị trí
STT

Mã chữ

Phiên Nơm
AB.309

AB.157

1

矧/亻吕

Thẩn/lữa

1-5-2

1-5-2

2

大/䑓

Đại (đài)/đài

3-1-14


2-1-1

3

閍/悶

Mn/mn

4-2-8

2-5-9

Xét từ bảng trên thì có đến 2 trƣờng hợp trùng âm khác chữ và 1
trƣờng hợp khác âm khác tự hình đều xuất hiện ngay trong 2 trang đầu tiên,
điều này có hai giả thuyết về nguyên nhân sai sót trên: Thứ nhất, có thể ban
đầu q trình sao chép khơng đƣợc kiểm sốt chặt chẽ dẫn đến nhiều sai
phạm nên ngƣời quản lí đã tăng cƣờng giám sát về sau; thứ hai, do ban đầu
phƣơng thức sao chép là một ngƣời đọc một ngƣời chép dẫn đến nhiều sai
sót nên ngay sau đó đã có sự chỉnh sửa bằng cách đối chiếu trực tiếp với
văn bản. Tuy đây chỉ là những giả thiết đặt ra trong quá trình khảo cứu, đối
chiếu văn bản chứ không phải là lí do chủ yếu để đƣa ra kết luận cụ thể,
nhƣng dù sao thì bản AB.157 vẫn đƣợc đánh giá là trung thành với nguyên
bản AB.309.
Thêm vào đó, ngay cả một số chữ bản AB.309 chép sai thì bản
AB.157 cũng lặp lại.
Ví dụ 1: địa danh đƣợc nhắc đến trong bài thơ Nôm số 18 của bản
AB.635 là Tây Hồ “西湖船浽梅花泊” (Tây hồ thuyền nổi mai hoa bạc) thì 2
bản AB.309 và AB.157 đều viết là “林湖” (Lâm Hồ).



Ví dụ 2: địa danh Cốc Thành gắn liền với tích danh tƣớng Trƣơng
Lƣơng đời Hán bỏ nghiệp binh đao theo tiên ông Xích Tùng Tử đến tu tiên tại
Cốc Thành thì trong bài 24 bản AB.635 ghi “否谷 城 耨隱赤松制” (Cốc Thành
náu ẩn Xích Tùng chơi) thì AB.309 và AB.157 viết thành “ 䑓城” (Góc
thành)…
Từ những đối sánh giữa hai văn bản trên cho phép nhận định rằng:
khả năng bản AB.157 là bản sao chép trực tiếp từ bản AB.309 do Viện Viễn
Đông Bác cổ trƣớc đây thuê chép lại là rất lớn.
- Trình quốc cơng Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, kí hiệu AB.635, văn
bản chép tay trên giấy bản khổ 26 x 14 cm, gồm 76 trang đã ngả vàng, có vẻ
cổ; chữ viết bán thảo khá đẹp. Sách rách nát, mép ngoài thƣờng bị rách một
vệt khoảng 5cm hình bán nguyệt nên làm mất khá nhiều chữ nhiều câu, điều
này phản ánh khá rõ ở tỉ lệ mất chữ khá cao, trong 63 bài thơ chúng tôi
khảo sát có đến 108 chữ bị mất, thậm chí có bài mất đến 23/55 chữ nhƣ bài
số 2. Tình trạng văn bản khá lộn xộn, chép lẫn thơ của các tác giả khác. Tập
sách sao chép 138 bài thơ đƣợc xem là của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trang đầu
tiên mang dòng chữ “Trình quốc cơng Ngũn Bỉnh Khiêm thi tập AB.635”
bằng bút bi và in dấu năm 1974. Nhƣng đến trang hai thì có dịng chữ chua
vào bằng mực bút bi màu đỏ “Trang bìa đóng nhầm lọt vào giữa sau 7 tờ.
GH” và đúng nhƣ trên, đến trang 17, ngoài con dấu của viện Viễn Đông
Bác Cổ văn bản mới chính thức bắt đầu tập thơ Trình quốc cơng Nguyễn
Bỉnh Khiêm thi tập, với lời tựa nhƣ sau:
[…] Ất Mùi khoa tiến sĩ sĩ cập đệ đệ nhất giáp đệ nhất danh.
Trình quốc cơng Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập.


Công tương thiếu thời bản huyện tri huyện du hành kiến công xuất
đối công: Lục thất đồng xảo bất như tử. Trình trạng nguyên đối viết: Nhị
thiên thạch tham mạc nhược công (hựu tham tự cải liêm tự). Cập trưởng,
danh vọng hiển trước, cư quan trí sĩ tác viết Bạch Vân am thi tập, nhàn

hứng thi bách thủ dụng quốc thi trường đoản luật. (Thuở ơng cịn nhỏ, có
viên quan huyện ở đó đi chơi, gặp ơng bèn ra câu đối rằng: “Sáu bảy đứa trẻ,
chẳng đứa nào khá bằng mày”. Ông liền ứng khẩu đối ngay: “Hai ngàn hộc
lƣơng, không ông nào tham nhƣ ông”. Khi lớn lên nổi tiếng danh vọng,
từng ra làm quan, rồi lui về ở ẩn, ông biên soạn tập Bạch Vân am thi tập,
gồm 100 bài, dùng thể thơ trƣờng đoản quốc âm).
Tiếp đó, từ trang 69 đến trang 77 lại là tập thơ của Kì Đồng, với bài
tựa tập Hiệu tần thi của Trần Dƣơng Phủ.
Sách có chấm câu nhƣng khơng có đánh số trang, số trang do ngƣời
đời sau đánh bằng mực đen. Sách không ghi rõ tên ngƣời và thời gian sao
chép.
Theo đốn định của chúng tơi, bản AB.635 nhiều khả năng là bản
chép tay dựa vào trí nhớ hơn là có sự đối sánh với văn bản khác, điều này
thể hiện qua việc trình bày lộn xộn, khơng đồng nhất trong văn bản.
Ví dụ 1: dòng số 1 trang 27, tác giả chép nhầm câu đầu tiên bài thơ
Nôm 27 thành “檜路鐄䑓路钱” (Củi lọ vàng, muối lọ tiền) nhƣng sau đó đã
viết lại ngay bên cạnh; giữa dịng số 1 và số 2 chép bổ sung thêm ba câu thơ
bằng khổ chữ nhỏ là “Vui thanh vắng đà rồi việc/ Trải gian nan mới biết cơ/
Lành dữ lịng người khơn được biết”.
Ví dụ 2: dòng 7 trang 35, sau khi bài thơ 51 kết thúc, tác giả còn chép


thêm hai câu thơ nữa (với ngụ ý bổ sung một bản phiên khác?!) là: “青台 固
課青台 矣 詫慮䑓空詫慮之” (Tạm dịch: Thảnh thơi có thuở thảnh thơi hĩ,

sá lo tay khơng sá lo chi).
Ngồi ra, tồn bộ văn bản có 15 chữ tẩy xóa và đƣợc sửa chữa bằng
mực đỏ bên cạnh, chúng tôi đã thống kê nhƣ sau:
STT


Chữ bị xóa

Chữ đã sửa

Phiên Nơm

Vị trí

1





Đèn

21-8-15

2





Nho

22-3-16

3






Thoắt

22-8-7

4





Xuất

24-3-10

5





Khen

24-5-19

6






Đêm

24-6-10

7

伴固

Bạn có

25-2-7, 25-2-8

8





Cả/Hào

25-2-18

10






Duy/Đơi

30-7-8, 30-7-12

11





Ngút

31-6-2

12





Dào

34-3-21

13






Tấm/Vẻ

36-4-5


×