Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn huyện an lão, tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.04 KB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ MINH DƯỠNG

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
THIỂU SỐ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN AN LÃO,
TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ MINH DƯỠNG

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
THIỂU SỐ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN AN LÃO,
TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính
Mã số: 08.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VÕ KHÁNH MINH


HÀ NỘI, năm 2020



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(XHCN) Việt Nam, muốn tăng cường công tác quản lý xã hội bằng pháp luật
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thực hành và phát huy các quyền
dân chủ của cơng dân thì nhất thiết phải quan tâm tới việc nâng cao trình độ
dân trí về pháp luật.
Giáo dục pháp luật (GDPL) là một trong những công tác quan trọng
trong đời sống xã hội, là chiếc cầu nối và là phương tiện không thể thiếu trong
việc nâng cao tri thức pháp luật, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật của
mọi tầng lớp nhân dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng pháp
luật trong quản lý nhà nước và xã hội, mặt khác Người quan tâm đặc biệt đến
giáo dục ý thức tiến bộ cho nhân dân trong đó bao gồm ý thức về pháp luật,
Người kêu gọi: “Mọi người dân Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình,
bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào cơng việc
xây dựng nhà nước”. Người cũng cho rằng chấp hành pháp luật là nghĩa vụ
cao cả của công dân và địi hỏi cơng dân phải cùng nhau ra sức giữ gìn trật tự,
tuyệt đối tn theo mệnh lệnh của Chính phủ.
Trong công cuộc đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, cơng tác GDPL càng có ý nghĩa
quan trọng và được quan tâm nhiều hơn ở mọi cấp, mọi ngành. Công tác
GDPL tốt sẽ giúp mọi người hiểu biết pháp luật, chấp hành pháp luật và ln
có ý thức: “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, góp phần tích cực
trong ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và thúc đẩy kinh tế phát triển
bền vững ở từng địa phương nói riêng và cả nước nói chung.


1


Thực tiễn vừa qua, công tác GDPL cho đồng bào DTTS ở huyện An
Lão đã có những chuyển biến tích cực, góp phần xây dựng ý thức sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật của cán bộ và nhân dân. Tuy nhiên, bên
cạnh đó cơng tác GDPL chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới,
bộc lộ những hạn chế, bất cập trên nhiều mặt, từ việc xác định mục tiêu
GDPL, xây dựng đội ngũ báo cáo viên (BCV), tuyên truyền viên (TTV) pháp
luật, lựa chọn nội dung, phương pháp cho hình thức GDPL cho đối tượng này.
Ý thức pháp luật và tình hình thực hiện pháp luật của một bộ phận khơng nhỏ
nhân dân nói chung đồng bào DTTS nói riêng cịn rất hạn chế nhất là những
vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều nhân dân các dân tộc ít người đang sinh
sống.
Bối cảnh đó càng cho thấy việc tuyên truyền và GDPL Nhà nước, đưa
pháp luật vào cuộc sống tại nơi đây là vấn đề lớn đòi hỏi cần được đáp ứng
kịp thời. Nhất là trong giai đoạn hiện nay ở các huyện của tỉnh Bình Định nói
chung và huyện An Lão nói riêng có những vấn đề về an ninh trật tự khá phức
tạp và nhạy cảm.
Xuất phát từ những lý do trên, trên cơ sở các kiến thức tiếp thu được
trong quá trình theo học khóa đào tạo cao học luật, tơi quyết định chọn nghiên
cứu đề tài “Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn
huyện An Lão, tỉnh Bình Định” làm đề tài luận văn thạc sĩ, với mong muốn
đóng góp một phần cơng sức trong cơng tác GDPL nói chung và GDPL cho
đồng bào các DTTS tại huyện An Lão, tỉnh Bình Định nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Giáo dục pháp luật với tư cách là một phạm trù pháp lý là một dạng
hoạt động của Nhà nước trong tổ chức thực hiện pháp luật, biện pháp tăng
cường pháp chế, vấn đề này đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều cơ
quan và các nhà khoa học từ trước đến nay đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới

2


đất nước, đổi mới xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân.
+ Luận văn, luận án:
- Nguyễn Đình Lộc (1987). “Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và
GDPL cho nhân dân lao động ở Việt Nam”, Luận án phó tiến sĩ luật học.
+ Sách tham khảo chuyên khảo:
- Trần Ngọc Đường, Dương Thanh Mai (1995), “Bàn về giáo dục pháp
luật”, Nxb Chính trị quốc gia , Hà Nội.
- Đào Trí Úc (1995), “Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật”,
Nxb Chính trị quốc gia , Hà Nội.
+ Một số bài viết của các tác giả đã đăng trên Tạp chí thời gian gần
đây:
- Hồ Viết Hiệp (2000), “Xã hội hóa cơng tác phổ biến giáo dục pháp
luật trong tình hình mới”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9, Hà Nội.
- Nguyễn Ngọc Minh (1983), “Giáo dục pháp luật cho nhân dân” của
tác giả Tạp chí Cộng sản, số 10, tr.34-38, Hà Nội.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu khoa học của tập thể, cá nhân, các
bài viết từ trước đến nay về GDPL đã có những đóng góp quan trọng về lý luận và
thực tiễn. Tuy nhiên, có thể nói rằng cho đến nay chưa có một cơng trình luận án,
luận văn nào nghiên cứu về GDPL cho đồng bào dân tộc ít người tại huyện An
Lão, tỉnh Bình Định.
Trong cơng trình này, tác giả đã tập trung vào lý giải những vấn đề lý
luận về ý thức pháp luật, như khái niệm, đặc điểm và cấu trúc của ý thức pháp
luật; đồng thời, tác giả tập trung khảo sát tình hình giáo dục ý thức pháp luật
ở Việt Nam, chỉ ra những điểm tích cực cũng như hạn chế trong công tác giáo
dục ý thức pháp luật; từ đó, đề xuất những giải pháp cho cơng tác GDPL tại
Việt Nam. Hầu như các nhà nghiên cứu về GDPL đều coi đây là cơng trình

3


đặt nền móng cho việc nghiên cứu về GDPL và giáo dục ý thức pháp luật ở
Việt Nam.
Vì vậy, đây là đề tài nghiên cứu có hệ thống về GDPL cho đồng bào
các DTTS từ thực tiễn của huyện An Lão, tỉnh Bình Định.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích lý luận, thực tiễn GDPL cho đồng bào DTTS ở
huyện An Lão; luận văn đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm tăng
cường công tác GDPL cho đồng bào DTTS trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh
Bình Định hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày một số vấn đề lý luận về GDPL cho đồng bào DTTS: khái
niệm, mục đích, đặc điểm của GDPL và các nội dung, phương pháp, hình
thức GDPL cho đồng bào DTTS.
- Phân tích tình hình GDPL cho người DTTS ở huyện An Lão, tỉnh Bình
Định. Làm rõ những kết quả, hạn chế, và nguyên nhân của vấn đề trong công tác
tuyên truyền GDPL đối với người DTTS trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình
Định.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường GDPL cho đồng bào
DTTS trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Định, từ đó đề xuất các định
hướng chung trong thời gian đến.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về hoạt động GDPL cho đồng bào DTTS. Luận
văn đề cập về công tác GDPL cho đối tượng là đồng bào DTTS trên địa bàn
huyện An Lão, tỉnh Bình Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

4


- Phạm vi về không gian: Phạm vi khảo sát thực tiễn cơng tác GDPL tại
huyện An Lão, tỉnh Bình Định.
- Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu thực tiễn công tác GDPL cho đồng
bào DTTS trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Định trong thời gian từ 2017
đến 2019.
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu thực tiễn công tác GDPL cho đồng
bào DTTS trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Định.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của
Đảng và pháp luật Nhà nước ta về công tác dân tộc, xây dựng khối đại đồn
kết dân tộc, về vai trị giáo dục pháp luật nói chung và cho đồng bào dân tộc
thiểu số nói riêng. Cơ sở thực tiễn của luận văn là các báo cáo, các số liệu
thống kê của các cấp ủy đảng, chính quyền về cơng tác tun truyền
PBGDPL.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hồn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, giải quyết các yêu
cầu đặt ra, luận văn sử dụng các phương pháp tổng hợp và phân tích; phương
pháp lịch sử và lơgic; thống kê so sánh; khái quát hóa, hệ thống hóa....
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt ý nghĩa lý luận
- Luận văn góp phần làm rõ tính đặc thù của công tác GDPL cho đồng
bào DTTS ở huyện An Lão, tỉnh Bình Định; từ đó nâng cao nhận thức, trách
nhiệm chỉ đạo, tổ chức hoạt động thực tiễn của các cấp ủy Đảng, chính quyền
trong việc GDPL đối với đồng bào DTTS ở huyện An Lão. Trên cơ sở đó góp


5


phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác GDPL cho đồng bào DTTS trên
địa bàn huyện.
6.2. Về mặt thực tiễn
- Từ việc tham khảo, nghiên cứu kinh nghiệm về công tác GDPL cho
nhân dân tại một số địa phương, một số vùng ở Việt Nam, luận văn rút ra
những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh
Bình Định.
- Trong khn khổ nghiên cứu của luận văn, căn cứ kết quả tìm hiểu,
nắm bắt thơng tin và từ các nguồn tài liệu có sẵn; tập trung phân tích, đánh
giá, chỉ ra những kết quả, hạn chế, nguyên nhân trong công tác GDPL cho
đồng bào DTTS ở huyện An Lão.
- Luận văn đưa ra những đề xuất, kiến nghị và giải pháp toàn diện, đảm
bảo nâng cao chất lượng, hiệu quả trong GDPL cho đồng bào DTTS trên địa
bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Định.
- Luận văn đề cập, phân tích một trong những vấn đề quan trọng và cấp
thiết nhưng chưa được nghiên cứu một cách tồn diện và có hệ thống vấn đề
GDPL cho đồng bào DTTS ở huyện An Lão, tỉnh Bình Định. Kết quả nghiên
cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về GDPL cho một đối
tượng, khu vực cụ thể; đồng thời bổ sung thêm những luận cứ khoa học và
thực tiễn cho việc xây dựng, hoàn thiện về lý luận GDPL cho đồng bào các
DTTS ở tỉnh Bình Định nói chung và đồng bào DTTS ở huyện An Lão, tỉnh
Bình Định nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục, luận văn kết cấu gồm 3 Chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật cho đồng bào
dân tộc thiểu số.

6


Chương 2: Thực tiễn giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Định.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường giáo dục pháp luật
cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Định.

7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của giáo dục pháp luật cho
đồng bào dân tộc thiểu số
1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật
Khái niệm “GDPL thường được quan niệm là một dạng hoạt động gắn
liền với việc triển khai thực hiện pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn
áp dụng pháp luật”. Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về giáo dục pháp
luật:
- Theo nghĩa rộng: “giáo dục là sự ảnh hưởng, tác động của những
điều kiện khách quan và của cả những nhân tố chủ quan nhằm hình thành
những phẩm chất, kỹ năng nhất định của đối tượng giáo dục”.
- Theo nghĩa hẹp: “giáo dục là quá trình tác động định hướng của nhân
tố chủ quan lên khách thể giáo dục, truyền bá những kinh nghiệm đấu tranh
và sản xuất, những tri thức về tự nhiên, xã hội, tư duy, để họ có đầy đủ khả
năng tham gia vào lao động và đời sống xã hội”.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn, các nhà lý luận cũng đã thừa nhận
những yếu tố ảnh hưởng của các điều kiện khách quan tác động đến sự hình

thành ý thức cá nhân của con người. Song các nhà lý luận khoa học sư phạm
đã nhấn mạnh đến yếu tố tác động hàng đầu cực kỳ quan trọng và thậm chí
quyết định của nhân tố chủ quan trong giáo dục. Vì vậy khái niệm giáo dục
hiện nay chúng ta thường được hiểu theo nghĩa hẹp.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Giáo dục” là một hoạt động nhằm tác động
một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào
8


đó, làm cho đối tượng đó dần dần có được những phẩm chất và năng lực như
yêu cầu đề ra” [Error! Reference source not found., tr.57].
Giáo dục pháp luật là một khái niệm rộng bao gồm cả quá trình nâng
cao tri thức pháp luật cho đối tượng và bằng mọi cách hình thành tình cảm,
niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng cao ý thức tơn trọng pháp luật,
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng [Error! Reference source
not found.].
Từ phân tích như trên, xét ở một góc độ nhất định, có thể định nghĩa
GDPL như sau: GDPL là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định
của chủ thể GDPL để cung cấp tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm và
hành vi hợp pháp cho đối tượng giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ ý
thức pháp luật đúng đắn và thói quen hành động phù hợp với các quy định
pháp luật và địi hỏi của nền pháp chế XHCN.
1.1.1.1. Mục đích của giáo dục pháp luật
Mục đích của giáo dục pháp luật trong điều kiện hiện nay cần xác định
cụ thể ở những vấn đề sau đây:
- Một là, từng bước nâng cao nhận thức về pháp luật cho công dân.
Nâng cao nhận thức, mở rộng sự hiểu biết của con người trên các lĩnh
vực là một yêu cầu khách quan của cơng tác giáo dục nói chung. Trong
GDPL thì mục đích được đặt ra là khơng ngừng nâng cao nhận thức pháp lý
cho đối tượng được GDPL để họ có kiến thức vững vàng nắm bắt được những

tri thức về Nhà nước về pháp luật và đặc biệt là pháp luật thực định. Trong
điều kiện ở nước ta hiện nay, thực tế cho thấy rằng Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm đến việc nâng cao dân trí nhất là dân trí pháp lý. Tuy nhiên do
đặc điểm và điều kiện ở một số vùng sâu, vùng xa nên nhân dân các dân tộc ít
người có hạn chế về hiểu biết pháp luật. Vì thế việc xác định đúng đắn mục
9


đích GDPL có ý nghĩa thực tiễn đặc biệt quan trọng. Chỉ có thể GDPL, nâng
cao nhận thức pháp lý làm cho mọi người hiểu một cách đầy đủ và đúng đắn
về giá trị xã hội và vai trò điều chỉnh của pháp luật từ đó hình thành tâm lý,
tình cảm và thái độ tôn trọng pháp luật, tin tưởng vào pháp luật và điều chỉnh
hành vi xử sự của mình. Khi mà mọi thành viên trong xã hội đã đạt đến một ý
thức “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” thì đó là mục đích cao
nhất và đó là hệ quả của q trình GDPL.
- Hai là, hình thành tình cảm pháp lý và niềm tin nội tâm đối với pháp
luật.
Việc nâng cao trình độ kiến thức pháp lý là mục đích đầu tiên vơ cùng
quan trọng nhưng bản thân nó chưa phải là sự quyết định đến hành vi xử sự
hợp pháp. Nếu đã có kiến thức pháp luật, nhưng trong mỗi con người cần phải
có tình cảm pháp lý, nghĩa là có thái độ tôn trọng pháp luật và tin tưởng vào
sự công bằng của pháp luật từ đó mới tạo ra khả năng điều chỉnh hành vi hợp
pháp của mình. Thiếu tình cảm và niềm tin vào pháp luật thì mọi hành động
dễ bị chệch hướng khỏi chuẩn mực pháp lý vì những mục đích, động cơ cá
nhân. Thực tế cho thấy nếu một người có sự hiểu biết pháp luật, có tình cảm
và lịng tin vào pháp luật thì họ sẽ tin theo những quy định của pháp luật. Tuy
nhiên để có được tình cảm và lịng tin vào pháp luật thì cần phải giáo dục tình
cảm, lịng tin và sự cơng bằng, trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân, thái độ
không khoan nhượng với kẻ thù. Tất cả những vấn đề đó sẽ là cơ sở hình
thành động cơ của hành vi hợp pháp.

- Ba là, “giáo dục pháp luật nhằm hình thành động cơ và hành vi, thói
quen xử sự hợp pháp, tích cực”.
Hành vi xử sự theo pháp luật của con người là kết quả của quá trình
nhận thức pháp luật. trong q trình nhận thức thì có nhiều yếu tố tác động
10


(chủ quan và khách quan) để hình thành nên hành vi và thói quen xử sự theo
pháp luật trong đó hoạt động GDPL là yếu tố cơ bản. Bởi lẽ thơng qua GDPL
sẽ cung cấp tri thức pháp luật, lịng tin sâu sắc vào sự cần thiết vào sự tuân
theo một cách tự nguyện những quy định của pháp luật. Để đạt được mục
đích này trong q trình GDPL phải lựa chọn nhiều hình thức, phương pháp
và thường xuyên, liên tục để mọi công dân hiểu được sự cần thiết, tính hợp lý
của pháp luật vì lợi ích chung của xã hội. Thực tiễn hiện nay ở nước ta, mục
đích này có quan hệ vơ cùng to lớn khi mà đa số nhân dân lao động vẫn cịn
tình trạng chưa có thói quen xử sự theo pháp luật, việc sử dụng quyền và thực
hiện nghĩa vụ theo quy định của hiến pháp và pháp luật cịn hạn chế, thậm chí
cịn vi phạm nghiêm trọng.
GDPL nhằm đạt được ba mục đích nêu trên, ngồi ra mục đích của nó
cịn giúp cho việc xác định hiệu quả của q trình GDPL. Khơng dựa vào
mục đích của GDPL thì khơng thể đánh giá được hiệu quả và các chỉ số xác
định hiệu quả của quá trình GDPL.
1.1.1.2. Chủ thể và đối tượng của giáo dục pháp luật
Trong hoạt động GDPL các cá nhân, tổ chức theo chức năng của mình
tham gia vào việc tuyên truyền phổ biến pháp luật như giảng dạy, phân tích,
trình bày, giải thích pháp luật gọi là chủ thể, những người được truyền thụ
học tập, nghiên cứu, tìm hiểu lĩnh hội pháp luật gọi là đối tượng.
* Về chủ thể của giáo dục pháp luật
Chủ thể nói chung được hiểu “là đối tượng gây ra hành động mang tính
tác động trong quan hệ đối lập với đối tượng bị chi phối bởi hành động tác

động, gọi là khách thể” [Error! Reference source not found., tr.130]. Vận
dụng vào GDPL, có thể hiểu chủ thể GDPL là những người hoạt động GDPL.
Hay nói khác đi thì chủ thể GDPL được hiểu là tất cả những người, mà theo
11


chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội đã tham gia góp phần vào việc
thực hiện các mục tiêu GDPL.
Việc xác định chủ thể, đối tượng GDPL có ý nghĩa về lý luận và thực
tiễn. Trong mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa chủ thể và đối tượng
GDPL trong quá trình GDPL, chủ thể khi tiến hành mọi hoạt động GDPL thì
sự tác động đó có ý thức, có mục đích, có kế hoạch đến đối tượng giáo dục.
Trên cơ sở đó, chủ thể xác định những nhu cầu, khả năng và điều kiện tiếp
nhận tác động GDPL của đối tượng cũng như các yêu cầu đòi hỏi khách quan
đối với các chủ thể GDPL trong việc xác định nội dung, hình thức, phương
pháp phù hợp để tiếp cận GDPL và tiến hành giáo dục có hiệu quả cao nhất.
* Về đối tượng giáo dục pháp luật
Năm 1998 Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị 02/1998/CT-TTg và
Quyết định 03/QĐ-TTg ngày 07/1/1998 về việc ban hành kế hoạch triển khai
công tác phổ biến GDPL. Căn cứ vào kế hoạch của Chính phủ thì đối tượng
GDPL bao gồm:
Cán bộ công chức (CBCC) nhà nước
Đối tượng này là CBCC Nhà nước, họ đã được đào tạo bồi dưỡng nên
đã có trình độ và khả năng nhận thức nhất định. Trong đối tượng này, vấn đề
GDPL phải chú ý hơn đến những người đang làm việc trong các cơ quan bảo
vệ pháp luật như Tòa án, Viện kiểm sát, thanh tra... Trong mối quan hệ này,
họ là đối tượng cần được GDPL, nhưng mối quan hệ khác họ lại là chủ thể
của GDPL cho nhân dân lao động. Trong những năm gần đây đội ngũ CBCC
nhà nước ta đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đào tạo, bồi dưỡng về kiến
thức pháp luật. Tuy nhiên nhiều CBCC Nhà nước do không được đào tạo cơ

bản nên kiến thức pháp luật cịn chắp vá, thiếu hệ thống. Điều đó đã hạn chế
rất nhiều đến năng lực quản lý nhà nước, khả năng giải quyết công việc trong
12


các cơ quan Nhà nước. Vì vậy GDPL cho đối tượng là CBCC là vấn đề vừa
cấp bách vừa lâu dài, phải thường xuyên, liên tục mới có thể đáp ứng địi hỏi
của q trình quản lý nhà nước bằng pháp luật ở nước ta.
Học sinh - Sinh viên
Đối tượng này là những công dân trẻ, khỏe, thông minh và sáng tạo, là
chủ nhân tương lai của đất nước. Học sinh, sinh viên đang thực sự là lực lượng
xung kích trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, công nghệ. Tuy nhiên về ý thức
pháp luật của họ vẫn còn nhiều hạn chế. Do vậy tình trạng vi phạm pháp luật
đã xảy ra trong các học đường, cũng như ngoài xã hội. Các tệ nạn xã hội như
ma túy, lối sống buông thả, đồi trụy phần nhiều lại do thanh thiếu niên mắc
phải. Vì thế GDPL cho đối tượng học sinh - sinh viên cũng là một yêu cầu đòi
hỏi khách quan của xã hội đang được Nhà nước thực sự coi trọng. Có như vậy
thì học sinh sinh viên ra trường họ có kiến thức khoa học vững vàng, có lối
sống lành mạnh và ý thức pháp luật được nâng cao.
Trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chính sách phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta là nhất quán ổn định
lâu dài. Nhà nước tạo ra môi trường pháp luật bình đẳng nhằm bảo hộ quyền và
lợi ích hợp pháp cũng như sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong
mọi thành phần kinh tế. Song Nhà nước cũng đòi hỏi nghiêm ngặt các doanh
nghiệp, các thương nhân phải hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ
pháp luật. Thành tựu kinh tế hơn 30 năm đổi mới ở nước ta có sự đóng góp đáng
kể của hàng vạn doanh nghiệp (đến nay là trên sáu vạn doanh nghiệp). Tuy
nhiên trên thực tế việc sản xuất, kinh doanh vẫn bị ảnh hưởng của cơ chế cũ và
trật tự kỷ cương pháp luật cịn lỏng lẻo. Khơng ít các doanh nghiệp, các thương
nhân, đặc biệt là những người sản xuất nhỏ hay làm kinh tế gia đình khi tham gia

vào nền kinh tế thị trường, do kiến thức pháp luật còn hạn chế, nhất là pháp luật
13


kinh tế. Vì vậy, hiện tượng vi phạm hợp đồng, hoặc bị lừa đảo hoặc dẫn đến thua
lỗ là khó tránh khỏi. Đúng như Đảng ta đã nhận định: “lối làm ăn chạy theo lợi
nhuận bất kể giá nào, dẫn đến vi phạm pháp luật, lừa đảo, hối lộ, làm hàng giả,
buôn lậu, trốn thuế, xâm phạm nghiêm trọng tài sản xã hội chủ nghĩa và của
công dân, làm cho kỷ luật, kỷ cương và pháp luật không nghiêm” [Error!
Reference source not found., tr. 25].
Như vậy, GDPL là đòi hỏi từ nhu cầu thiết thân của các nhà kinh doanh
và yêu cầu quản lý kinh tế của nhà nước. Có như vậy mới giúp họ có những
kiến thức cơ bản về pháp luật liên quan đến lĩnh vực kinh doanh, từng bước
tạo cho họ thói quen kinh doanh trong khn khổ pháp luật, tránh tình trạng
phá rào, vi phạm pháp luật như hiện nay.
* Tầng lớp nhân dân lao động mà đặc biệt là nhân dân các dân tộc ít
người, vùng sâu, vùng xa
Đây là lực lượng đông đảo, chiếm đa số những người lao động trong xã
hội. Dù vậy lực lượng đơng nhất trong xã hội này lại có ít điều kiện được tiếp
cận, học tập, nghiên cứu và tìm hiểu pháp luật. Đặc biệt nhân dân các dân tộc
ít người ở vùng sâu, vùng xa miền núi như Tây Nguyên, ý thức pháp luật còn
rất thấp. Tại Đăk Lăk cần phải chú ý đến vai trò của già làng trưởng bản với
tư cách vừa là chủ thể giáo dục vừa là đối tượng GDPL. Có thể nói Già làng,
trưởng bản là những người rất có uy tín ở bn thơn, những việc xích mích
trong bn làng với nhau đều do Già làng, trưởng bản tham gia giải quyết một
cách có hiệu quả. Già làng, trưởng bản khi tham gia giải quyết mâu thuẫn,
tranh chấp trong nhân dân ở bn làng thì với tư cách là chủ thể của GDPL.
Có thể nói các già làng, trưởng bản ở các bn làng Tây Ngun thường chỉ
dựa vào uy tín tập quán, luật tục để chỉ dẫn và giải quyết công việc, còn kiến
thức pháp luật còn hạn chế. Do vị trí vai trị của già làng, trưởng bản, nên họ

14


cần phải được bồi dưỡng kiến thức pháp luật hơn ai hết ở cơ sở các cộng đồng
dân cư. Vì vậy họ có vai trị "kép" vừa là chủ thể vừa là đối tượng của GDPL.
1.1.2. Khái niệm giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số là hoạt động có định
hướng, có tổ chức do các chủ thể giáo dục tiến hành theo chương trình, nội
dung, phương pháp và hình thức lên đối tượng giáo dục là đồng bào dân tộc
thiểu số làm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp luật, tạo niềm tin
vào pháp luật để họ có đầy đủ khả năng tham gia vào các quan hệ xã hội phù
hợp với quy định của pháp luật hiện hành, góp phần xây dựng và củng cố ý
thức về quyền con người, quyền cơng dân của đồng bào DTTS để họ có thể
tiếp cận và bảo vệ các quyền đó một cách hiệu quả.
1.1.3. Đặc điểm giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
Theo số liệu Tổng cục Thống kê ngày 01/4/2019, người Kinh chiếm
85,3% dân số, 53 dân tộc thiểu số chiếm 14,7% dân số. Các dân tộc Việt Nam có
truyền thống đồn kết, cùng chung vận mệnh lịch sử, từ lâu đời đã sớm có ý thức
gắn bó với nhau trong chinh phục thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm, xây dựng
đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống đoàn kết các dân tộc ngày
càng được củng cố và phát triển. Các DTTS sinh sống chủ yếu ở miền núi, với
địa bàn rộng lớn chiếm 3/4 diện tích cả nước, bao gồm khu vực biên giới, có vị
trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phịng và mơi trường
sinh thái. Các DTTS ở nước ta có số lượng dân cư khơng đều, sống xen kẽ,
khơng có dân tộc nào ở vùng lãnh thổ riêng, tạo điều kiện thuận lợi để các dân
tộc tăng cường hiểu biết, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển.
Tại Bình Định hiện có 27 dân tộc thiểu số sinh sống, trong đó riêng
huyện An Lão là huyện miền núi của tỉnh Bình Định với gần 40% dân số là

15



đồng bào DTTS, dân tộc thiểu sổ ở đây chủ yếu là người dân tộc Hre và dân
tộc Bana.
Đối với DTTS vì nhiều nguyên nhân về lịch sử, địa lý, kinh tế, văn hóa,
xã hội… mà trình độ dân trí hiểu biết về pháp luật cị nhiều hạn chế. Có
những người đồng bào DTTS chỉ biết rất ít hoặc khơng biết về các quy định
của pháp luật, trong đó có các quy định về quyền con người, quyền công dân,
từ đó dẫn đến khó có thể tiếp cận để bảo vệ quyền co người và quyền cơng
dân của mình. Vì vậy, muốn trang bị kiến thức pháp luật cho đồng bào DTTS
thì phương thức chủ yếu mà các cơ quan chức năng, các ban ngành đoàn thể
liên quan phải triển khai là GDPL cho họ. Điều đó nói lên một trong những
vai trò hết sức quan trọng của giáo dục pháp luật là góp phần cung cấp thơng
tin, trang bị và nâng cao kiến thức về hiểu biết pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số.
Các nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã xác định chủ thể GDPL là tổ
chức, cá nhân có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu, trực tiếp, thường xuyên thực
hiện nhiệm vụ GDPL cho người DTTS; là những cá nhân, tổ chức mà chức
năng, nhiệm vụ chính của họ khơng phải là GDPL, nhưng thơng qua hoạt
động chun mơn, nghiệp vụ của họ có gắn với mục đích GDPL; là các cấp
chính quyền, cán bộ, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội; là những cá nhân,
tổ chức mà qua hoạt động của họ có tác dụng GDPL hoặc tự giác tham gia
GDPL.
1.1.4. Vai trò của giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
Nhà nước pháp quyền XHCN là pháp luật ln đặt ở vị trí thượng tơn,
khơng một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào có thể đứng ngoài hay đứng trên
pháp luật. Nhà nước xây dựng, ban hành pháp luật là điều chỉnh các quan hệ xã
hội bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhà nước, tập thể và
16



công dân. Muốn pháp luật được thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm túc trong
thực tế xã hội, phát huy được đầy đủ vai trị, chức năng của nó thì pháp luật
phải được thẩm thấu vào trong nhận thức và bộc lộ thông qua hành vi pháp luật
hợp pháp của mỗi con người trong xã hội. Tuy nhiên pháp luật khơng thể tự nó
đến được với mỗi người mà phải thông qua giáo dục pháp luật.
Pháp luật được mọi người dân thực hiện nghiêm chỉnh và thực sự hiệu
quả khi họ tin tưởng vào các nguyên tắc, quy định của pháp luật. Chỉ khi nào
người dân nhận thức đúng đắn, đầy đủ các nguyên tắc, quy định của pháp luật
thì họ mới có thể thực hiện pháp luật một cách tự giác mà không cần một biện
pháp cưỡng chế nào từ Nhà nước. Từ vai trị cung cấp thơng tin, nâng cao trình
độ kiến thức, hiểu biết pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, giáo dục pháp luật
góp phần xây dựng củng cố niềm tin của người dân đối với pháp luật. Có niềm
tin vào tính cơng bằng, nghiêm minh của pháp luật thì đồng bào DTTS sẽ biết
cách thực hiện hành vi pháp luật phù hợp với yêu cầu của pháp luật một cách
tự nguyện, tự giác. GDPL cho đồng bào các DTTS giữ vai trò cung cấp cho
đồng bào các DTTS biết quyền và nghĩa vụ của mình, về những việc mà pháp
luật quy định được phép làm và những việc mà pháp luật không cho phép hoặc
nghiêm cấm, về cách thức để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đồng bào dân tộc thiểu số chỉ
được nâng cao khi giáo dục pháp luật được tiến hành thường xun, kịp thời và
hiệu quả, có tính thuyết phục góp phần hình thành, củng cố niềm tin của đồng
bào dân tộc thiểu số đối với pháp luật, ngày càng nâng cao hiểu biết về các văn
bản quy phạm pháp luật của họ, các sự kiện xảy ra trong đời sống của họ, từ đó
nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đồng bào dân tộc thiểu số.
Giáo dục pháp luật củng cố niềm tin sâu sắc của đồng bào DTTS vào sự
cần thiết phải tuân theo một cách tự nguyện các quy định của pháp luật là
17



những yếu tố quan trọng làm hình thành hành vi pháp luật tích cực. Những tình
cảm cơng bằng, trách nhiệm, nhận thức không khoan nhượng với các hành vi
phạm tội là những yếu tố tâm lý, tư tưởng không thể tách rời hành vi pháp luật
chủ động, tự giác, tích cực. Phải nhờ vào động lực thôi thúc nội tâm và niềm tin
vững chắc vào pháp luật thì mới có thể hình thành hành vi pháp luật hợp pháp,
tự nguyện và tích cực trong đồng bào DTTS. Điều đó là một trong những vai
trò hết sức quan trọng của hoạt động GDPL cho đồng bào DTTS, góp phần
nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật, thực hiện hành vi pháp luật hợp
pháp của đồng bào DTTS.
Việc xây dựng và củng cố niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số đối với
pháp luật càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh đời sống kinh tế
của đa số người dân cịn gặp nhiều khó khăn và mang đậm tính cộng đồng,
phong tục tập quán chi phối mạnh mẽ , các thế lực phản động, thù địch có âm
mưa lợi dụng sự thiếu hiểu biết và lịng cả tin để thực hiện các hoạt động tuyên
truyềnkích động nhằm xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước ta, gây chia rẽ giữa đồng bào DTTS. Vì vậy, GDPL
cho đồng bào DTTS là một trong những yêu cầu hết sức quan trọng để xây
dựng và đổi mới đất nước.
1.2. Nội dung, hình thức, phương pháp của giáo dục giáo dục pháp
luật
1.2.1. Nội dung giáo dục pháp luật
Việc xác định nội dung của GDPL là vấn đề đặc biệt quan trọng bởi
việc xác định nội dung GDPL là gì? Mức độ như thế nào? Cho từng loại đối
tượng nào? là vấn đề cốt lõi quyết định hiệu quả của GDPL. Nói cách khác
trên cơ sở mục đích và đối tượng mà xác định một nội dung GDPL thiết thực
để có hiệu quả cao.
18


Phạm vi của nội dung GDPL bao gồm hệ thống pháp luật thực định,

các văn bản pháp luật; các văn bản hướng dẫn thực hiện pháp luật và thực tiễn
pháp luật, các thơng tin về tình hình vi phạm pháp luật, tình hình tội phạm;
kết quả xử lí các vi phạm pháp luật theo các nguyên tắc, quy định của pháp
luật hiện hành; các thông tin phản hồi từ các tầng lớp nhân dân góp ý, đề xuất
ý kiến về việc thực hiện, xây dựng và hoàn thiện pháp luật…
1.2.2. Hình thức, phương pháp của giáo dục pháp luật
Cần phải thông qua các phương thức truyền tải thông tin, các hình thức
giao tiếp giữa chủ thể và đối tượng GDPL bằng những hình thức và phương
pháp khác nhau. Nếu chủ thể giáo dục biết cách lựa chọn các hình thức,
phương pháp nào phù hợp với từng loại đối tượng thì giáo dục sẽ mang lại
hiệu quả cao. Nếu hình thức và phương pháp khơng phù hợp thì hiệu quả sẽ
thấp.
Giữa hình thức, phương pháp và nội dung của giáo dục pháp luật cũng
có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, nó có tác động làm cho việc truyền
tải nội dung thấm sâu vào nhận thức của từng đối tượng và nội dung đến lượt
nó càng hồn thiện hơn , thông qua việc truyền tải thông tin để bổ sung vào
chương trình nội dung của giáo dục pháp luật.
Phương pháp giáo dục pháp luật: là cách thức và biện pháp được chủ
thể sử dụng để truyền đạt nội dung pháp luật tác động đến đối tượng nhằm
mục đích nâng cao sự hiểu biết, nâng cao về nhận thức pháp luật và lịng tin
cũng như thói quen xử sự theo pháp luật.

19


1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục pháp luật cho đồng bào
dân tộc thiểu số
Cũng như các dạng hoạt động xã hội khác, thì hoạt động GDPL cho
đồng bào các DTTS luôn chịu sự tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong
đó bao gồm các yếu tố chủ quan, các yếu tố khách quan.

1.3.1. Các yếu tố chủ quan
Có nhiều yếu tố chủ quan, song về cơ bản, các yếu tố chủ quan bao
gồm trình độ học vấn và các nhân tố tâm lý.
a. Trình độ học vấn
Trình độ học vấn có vai trị đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng mạnh mẽ
tới hầu hết mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Nó vừa là nền tảng sức
mạnh tinh thần, vừa là động lực thúc đẩy mỗi người vươn lên trong cuộc
sống, học tập, lao động, sản xuất nhằm làm chủ xã hội và bản thân. Thực tế
cho thấy, do nhiều nguyên nhân về lịch sử, kinh tế, xã hội nên nhìn chung
trình độ học vấn của đồng bào DTTS cịn thấp; đây là một khó khăn thực sự,
ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng, hiệu quả GDPL cho đồng bào. Thiếu nền
tảng tri thức cần thiết để tiếp thu, lĩnh hội kiến thức pháp luật làm cho chủ thể
GDPL mất nhiều thời gian vì phải giải thích lại nhiều lần. Về phía đối tượng,
nghe mà không hiểu, không nhớ sẽ nảy sinh tâm lý chán nản, thiếu tự tin,
khơng cịn mặn mà tham gia các buổi PBGDPL nữa... Hệ quả của tình trạng
này là GDPL không đạt được hiệu quả như mong muốn.
b. Các nhân tố tâm lý
Chất lượng, hiệu quả GDPL cho các đối tượng, trong đó có đồng bào
DTTS dù ít hay nhiều đều chịu ảnh hưởng của các nhân tố tâm lý, quan trọng
nhất là quá trình tâm lý bắt chước và quá trình lây lan tâm lý. Quá trình tâm
20


lý bắc chước thường tạo ra và định hình các “khuôn mẫu hành vi” cho các
thành viên trong xã hội; do đó, q trình tâm lý bắc chước có ảnh hưởng nhất
định đến công tác GDPL cho các đối tượng xã hội. Trong hoạt động GDPL
cho đồng bào DTTS, về cơ bản, q trình tâm lý bắt chước có ảnh hưởng tích
cực đối với việc tham gia hoạt động này của người dân, vì đa số đồng bào
DTTS là những người chân thật, chất phác, sống đề cao tình nghĩa, coi trọng
công lý; biết thực hiện những hành vi hợp pháp dù có thể chưa hiểu biết nhiều

về pháp luật. Q trình lây lan tâm lý cũng có ảnh hưởng nhất định đến hoạt
động GDPL cho đồng bào DTTS.
1.3.2. Các yếu tố khách quan
Hoạt động của GDPL cho bất kỳ đối tượng nào trong xã hội, trong đó
có đồng bào DTTS ở huyện An Lão, nó ln diễn ra trong một phạm vi không
gian nhất định của xã hội, phụ thuộc và chịu sự ảnh hưởng bởi các yếu tố về
kinh tế, về chính trị, về văn hóa và xã hội nhất định. Nhìn trên phương diện
này, các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến GDPL cho đồng bào DTTS bao
gồm yếu tố kinh tế, yếu tố văn hóa - xã hội.
* Yếu tố kinh tế
Nền kinh tế phát triển năng động, bền vững sẽ là điều kiện thuận lợi để
hoạt động GDPL cho đồng bào DTTS đạt được chất lượng, hiệu quả cao.
Ngược lại, khi nền kinh tế chậm phát triển và thiếu tính bền vững sẽ ảnh
hưởng tiêu cực tới chất lượng và hiệu quả của GDPL cho đồng bào. Điều đó
nói lên rằng, yếu tố kinh tế có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động GDPL cho
đồng bào DTTS.
- Điều kiện kinh tế: Khi nền kinh tế phát triển, đời sống vật chất, lợi ích
kinh tế được bảo đảm thì đồng bào DTTS sẽ phấn khởi, tin tưởng vào pháp
luật, vào sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý, điều hành của Nhà
21


nước; nhờ đó, củng cố niềm tin vào hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước,
tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào DTTS hăng hái, nhiệt tình tham gia hoạt
động GDPL nhằm trang bị, nâng cao kiến thức, hiểu biết pháp luật. Chỉ khi
thu nhập, mức sống của đồng bào DTTS được cải thiện cơ bản, khơng cịn
phải lo lắng về cái ăn, cái mặc hàng ngày thì đồng bào mới có thể tồn tâm,
tồn ý tham gia các cơng việc chung, trong đó có GDPL dành cho họ; từ đó,
chấp hành nghiêm chỉnh kỷ cương, phép nước. Cịn khi lợi ích kinh tế khơng
được đảm bảo, đời sống vật chất cịn nhiều khó khăn thì tư tưởng nhân dân,

đồng bào DTTS sẽ diễn biến phức tạp; ý thức chủ động, tích cực tham gia
GDPL sẽ bị suy giảm; và do đó, trình độ kiến thức pháp luật của đối tượng
này cũng khó có thể được cải thiện.
Kinh tế phát triển, với nguồn lực kinh tế đủ mạnh, chính quyền các cấp
có điều kiện để đầu tư kinh phí nhiều hơn cho việc xây dựng cơ sở vật chất,
mua sắm các thiết bị kỹ thuật phục vụ GDPL cho đồng bào DTTS. Chính
sách đãi ngộ đối với đội ngũ CBCC quản lý và trực tiếp tham gia GDPL cho
đồng bào DTTS nhờ đó cũng gia tăng. Ngồi ra, nguồn kinh phí dồi dào cũng
giúp chính quyền các cấp đầu tư mạnh hơn cho việc lựa chọn, gửi con em
đồng bào DTTS tham gia các khóa đào tạo chính quy, bài bản về chuyên
ngành luật, trở thành cán bộ pháp lý và quay trở về phục vụ chính cộng đồng
dân tộc mình. Kinh phí cũng phục vụ cho việc mua sắm các thiết bị điện tử,
biên soạn sách pháp luật phổ thông, các loại tài liệu, tờ gấp, tờ rơi, băng, đĩa
về pháp luật... phục vụ GDPL cho đồng bào DTTS. Ngược lại, nếu điều kiện
kinh tế, nguồn chi ngân sách trung ương và địa phương cho GDPL cho đồng
bào DTTS bị eo hẹp thì hoạt động GDPL cho đồng bào khó đạt hiệu quả như
mong muốn.
* Yếu tố văn hóa - xã hội
22


×