Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Cải cách doanh nghiệp Nhà nước ở Trung Quốc và các bài học cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.85 KB, 29 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÀI GIỮA KÌ MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ VỀ CẢI CÁCH
KINH TẾ Ở TRUNG QUỐC

Đề bài 2: Cải cách doanh nghiệp Nhà nước ở Trung Quốc và
các bài học cho Việt Nam

Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Lan Hương
Người thực hiện: Hoàng Thị Thu Trang
Lớp QH2017E – Kinh Tế
MSV: 17050094

Hà Nội, tháng 12, năm 2020


A. MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài
Khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) luôn luôn tồn tại khách quan
trong nền kinh tế hiện đại mặc dù vai trò, quy mô và cơ chế quản lý các doanh
nghiệp này khơng hồn tồn giớng nhau ở các nước khác nhau, thậm chí ở các
thời kì khác nhau của ngay một nước.
Xét trên phạm vi toàn cầu, trong vòng hơn ba thập niên gần đây đã và
đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ những hoạt động cải cách DNNN trong tổng
thể những cải cách cơ cấu theo xu hướng tự do hóa và thị trường mở ở cả cấp độ
vĩ mô lẫn vi mô để nâng cao hiệu quả kinh tế của khu vực DNNN nói riêng và
của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Từ năm 1986, trong quá trình phát triển nền
kinh tế Việt Nam định hướng thị trường XHCN, Đảng và chính phủ Việt Nam đã
đề ra khá nhiều chính sách cải cách kinh tế – xã hội, trong đó cải cách DNNN,


ngày càng giữ vị trí trung tâm. Hiện nay, Việt Nam vẫn tiếp tục ở trong giai đoạn
quan trọng của quá trình cải cách DNNN nên rất nhiều vấn đề về cải cách
DNNN được đặt ra và cần phải nghiên cứu.
Về mặt lý luận, cho đến nay vẫn có nhiều quan điểm khác nhau về cải
cách DNNN trên thế giới. Trong bản thân lý luận cải cách DNNN ở các nước
đang chuyển đổi lại có sự phân biệt giữa chủ trương dùng liệu pháp sốc trong cải
cách DNNN (tiêu biểu là các chuyển đổi ở Trung Đông Âu như: Ba Lan, Cộng
hòa Séc, Hungari), với chủ trương cải cách mở cửa “dần dần từng bước, coi
trọng vai trò nhà nước” trong cải cách DNNN (tiêu biểu là Trung Quốc và Việt
Nam).
Trong nhiều thể loại đa dạng của mỗi nước, cải cách doanh nghiệp nhà
nước ở Trung Quốc nổi lên như một mô hình khá gần gũi với nước ta cả về
những khía cạnh nhận thức lẫn trong tổ chức thực hiện. Hơn nữa việc nghiên
cứu cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc còn hết sức cần thiết đối với
Việt Nam bởi một số lý do sau:
Thứ nhất, Trung Quốc và Việt Nam có nhiều nét tương đồng về cơ cấu và
cơ chế kinh tế, đặc biệt là về quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và về yêu cầu cải
cách khu vực doanh nghiệp nhà nước nói riêng.
Thứ hai, quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc đã thu
được những thành tựu nhất định ban đầu, những thành công này rất cần được
nghiên cứu và phổ biến.

1


Thứ ba, Trung Quốc hiện nay đang là đối tác hợp tác toàn diện và chiến
lược nhất là về kinh tế thương mại, đầu tư, trao đổi văn hóa - khoa học của nước
ta.
Thứ tư, Trung Quốc là một trong các nước đang phát triển lớn nhất thế

giới và việc Trung Quốc gia nhập WTO đã và đang ảnh hưởng đáng kể đến sự
phát triển kinh tế khu vực và Việt Nam.
Vì vậy, nghiên cứu đồng bộ và chuyên sâu về định hướng, những giải
pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước của Trung Quốc không chỉ giúp cho việc
hiểu biết đầy đủ, thực chất hơn cuộc cải cách mở cửa và chuyển đổi nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang màu
sắc Trung Quốc, mà điều quan trọng hơn là những kinh nghiệm rút ra từ đây sẽ
rất có ích cho công cuộc đổi mới và phát triển các doanh nghiệp nhà nước nói
riêng và toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói chung.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa và phân tích các quan điểm, nội dung chính sách
và các giải pháp cũng như thành công và hạn chế trong cải cách doanh nghiệp
nhà nước ở Trung Quốc từ năm 1978 đến nay, bài luận đặt mục tiêu cao nhất là
góp phần làm sáng tỏ những căn cứ vào định hướng cải cách doanh nghiệp nhà
nước ở Trung Quốc đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích góp phần
phát triển cả về lý luận cũng như thực hiện cải cách doanh nghiệp nhà nước ở
nước ta.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu những lý thuyết có liên quan trực tiếp đến cải cách doanh
nghiệp nhà nước ở Trung Quốc.
- Tập trung nghiên cứu một số khía cạnh của cải cách DNNN trong tiến
trình cải cách kinh tế nói chung, chủ yếu là loại hình doanh nghiệp nhà nước thu
lợi nhuận từ năm 1978 tới nay ở Trung Quốc.
- So sánh những tương đồng và khác biệt chủ yếu về bối cảnh, mục tiêu,
phương pháp và kết quả cùng triển vọng về cải cách doanh nghiệp nhà nước của
Trung Quốc và Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung sang cơ chế thị trường. Từ đó rút ra một số kết luận cụ thể cho cải cách
doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài luận sử dụng đồng bộ và linh hoạt các phương pháp nghiên cứu khoa

học, phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp phân tích
tổng hợp, phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp so sánh, phương pháp
2


thống kê và có sự kế thừa chắt lọc kết quả khảo sát tình hình cải cách doanh
nghiệp nhà nước của nhiều công trình, nhiều tác giả đáng tin cậy, nhất là các số
liệu văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XV, XVI và các nghị
quyết của ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc có liên quan
đến vấn đề cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Q́c.
5. Đóng góp của bài ḷn
- Về mặt lý luận: góp phần hệ thống hóa và chỉ rõ những cơ sở khoa học,
phương hướng, nội dung, động thái và triển vọng cải cách doanh nghiệp nhà
nước ở Trung Quốc.
Đặc biệt luận án góp phần làm rõ thêm nhận định cái “riêng” của cải cách
doanh nghiệp Trung Quốc hiện nay chính là sự vận dụng một cách tổng hợp các
lý thuyết kinh tế thị trường Đông – Tây, nhất là các lý thuyết kinh tế thị trường
hiện đại; chế độ kinh tế cơ bản trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội mang
màu sắc Trung Quốc là dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại, trong đó chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất làm chủ thể kinh tế, đồng thời phát triển nhiều
hình thức sở hữu khác, xóa bỏ mọi trở ngại, mọi sự trói buộc do hình thức sở
hữu không hợp lý gây ra đối với sự phát triển sức sản xuất và xu hướng quốc tế
hóa nền kinh tế.
- Về mặt thực tiễn: bài luận nêu ra những bài học kinh nghiệm thực tiễn
về cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc mà các nước đang chuyển đổi
từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, trong đó có
Việt Nam có thể tham khảo; đặc biệt trong lĩnh vực cổ phần hóa và phát triển
chế độ doanh nghiệp hiện đại, hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp kinh doanh thu
lợi nhuận trong bối cảnh một cửa hội nhập quốc tế…
6. Cấu trúc bài luận

A. MỞ ĐẦU................................................................................................................1
1. Sự cần thiết của đề tài............................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu...............................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................2
5. Đóng góp của bài luận............................................................................................3
6. Cấu trúc bài luận....................................................................................................3
B. NỘI DUNG............................................................................................................. 6
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn để tiến hành cải cách doanh nghiệp nhà
nước ở Trung Quốc....................................................................................................6
3


1.1 Những cơ sở lý luận..............................................................................................6
1.1.1 Lý luận Mác - Lênin..........................................................................................6
1.1.2 Lý thuyết kinh tế của Keynes...........................................................................6
1.1.3 Chủ nghĩa tự do mới.........................................................................................7
1.1.4 Lý thuyết về doanh nghiệp hiện đại.................................................................7
1.1.5 Lý luận của Trung Quốc về chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế thị trường.............................................................................7
1.2 Những cơ sở thực tiễn........................................................................................10
1.2.1 Làn sóng tư nhân hóa......................................................................................10
1.2.2 Thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và xu hướng tăng cường
hội nhập kinh tế quốc tế ở Trung Quốc..................................................................10
Kết luận chương 1:....................................................................................................13
Chương 2: Nội dung cơ bản của cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc........14
2.1 Đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước...................14
2.1.1 Tách quyền sở hữu nhà nước và quyền kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước........................................................................................................................... 14
2.1.2 Thực hiện sự tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.....................14

2.2 Đổi mới hình thức tổ chức doanh nghiệp nhà nước.........................................15
2.2.1 Cơng ty hóa doanh nghiệp nhà nước.............................................................15
2.2.2 Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước...........................................................15
2.2.3 Xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại ở Trung Quốc...............................15
2.3 Tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước........15
2.3.1 Không ngừng bổ sung hoàn thiện cơ sở pháp lý kinh doanh cho doanh
nghiệp nhà nước.......................................................................................................15
2.3.2 Phối hợp sử dụng đồng bộ các chính sách vĩ mơ hỗ trợ tích cực cho quá
trình cải cách doanh nghiệp nhà nước và Trung Q́c.........................................15
2.3.3 Xây dựng và phát triển các định chế thị trường thuận lợi cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.................................................................16
Kết luận chương 2.....................................................................................................16
Chương 3: Những thành công và hạn chế trong cải cách doanh nghiệp nhà nước
ở Trung Quốc. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam..............................................18

4


3.1 Những thành công và hạn chế trong cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung
Quốc.......................................................................................................................... 18
3.1.1 Những thành công...........................................................................................18
3.1.2 Những hạn chế.................................................................................................19
3.2 Bài học kinh nghiệm cho quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Việt
Nam........................................................................................................................... 21
3.2.1 So sánh cải cách kinh tế nói chung và cải cách doanh nghiệp nhà nước nói
riêng giữa Trung Q́c và Việt Nam.......................................................................21
Kết luận chương 3.....................................................................................................23
KẾT LUẬN............................................................................................................... 25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................28


5


NỘI DUNG

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn để tiến hành cải cách doanh nghiệp
nhà nước ở Trung Quốc
1.1 Những cơ sở lý luận
1.1.1 Lý luận Mác - Lênin
Ngay từ đầu cải cách Đảng Cộng sản nhà nước Trung Quốc đã xác định
lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm cơ sở lý luận cơ bản để chỉ đạo của cải cách doanh
nghiệp nhà nước của mình Điều đó được thể hiện ở những luận điểm chủ yếu
như:
- Tôn trọng tính độc lập tự chủ kinh doanh của các chủ thể kinh tế thế
trong điều kiện cạnh tranh tự do.
- Khả năng và sự cần thiết tách quyền sở hữu ta khỏi quyền sử dụng để
các yếu tố sản xuất được tự do vận động và sử dụng có hiệu quả theo quy luật
thị trường.
- Về mô hình doanh nghiệp: Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản Mác - Ăngghen
chỉ ra vai trò, triển vọng to lớn của loại hình sở hữu và công ty cổ phần, trong đó
tính xã hội đã đạt tới mức cao nhất: nó là phương thức tổ chức sản xuất kinh
doanh chủ yếu của xã hội hiện đại. Ngoài ra, chính sách kinh tế mới của Lênin
(NEP) cũng là một luận cứ lý luận quan trọng cho việc chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa được khởi đầu thực hiện vào
những năm 1920 ở nước Nga.
1.1.2 Lý thuyết kinh tế của Keynes
Để khắc phục khuyết tật của cạnh tranh thị trường tự do, lý thuyết kinh tế
tư bản chủ nghĩa có điều tiết kết của J.M.Keynes xuất hiện. Ông chủ trương dựa
vào nhà nước để khắc phục các khuyết tật của thị trường. Có thể nói, với sự ra
đời của học thuyết Keynes, nhà nước trở lên nên tích cực hơn và đóng góp vai

trò “bàn tay hữu hình”, thực sự tham gia vào công việc điều tiết nền kinh tế, từ
đó hình thành và phát triển trên thực tế khu vực kinh tế quốc doanh dựa trên sở
hữu nhà nước.
Tuy nhiên, trên thực tế lý thuyết Keynes cũng sớm bộc lộ những khuyết
tật khi nhà nước can thiệp trực tiếp quá sâu vào nền kinh tế và hoạt động của thị
trường
Do đó phải khéo léo kết hợp cả hai yếu tố nhà nước và thị trường nhằm
đạt hiệu quả kinh tế xã hội tối ưu. Trên cơ sở tư tưởng đó, chủ nghĩa tự do mới
ra đời.
6


1.1.3 Chủ nghĩa tự do mới
Được hợp thành và thể hiện dưới nhiều lý thuyết, song về cơ bản, chủ
nghĩa tự do mới chủ trương ba nguyên tắc:
- Giảm can thiệp của nhà nước vào kinh tế nhằm phát huy tính tự chủ chủ,
sáng tạo của doanh nghiệp.
- Giảm thuế để kích thích sản xuất
- Mở rộng tư nhân hóa, tự do hóa
Lý thuyết tự do mới tạo thêm cơ sở lý luận trực tiếp để Trung Quốc thực
hiện việc chuyển đổi đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa ba sang nền kinh tế thị
trường
Trong chủ nghĩa tự do mới, lý thuyết về quyền sở hữu đã và đang được
các nhà kinh tế, đặc biệt là các nhà cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung
Quốc quan tâm nghiên cứu và vận dụng.
1.1.4 Lý thuyết về doanh nghiệp hiện đại
Doanh nghiệp là đơn vị tế bào kinh tế và phổ biến trong kinh tế thị
trường, thông qua các hoạt động hữu ích thu lợi nhuận là nơi trực tiếp biến thành
quả nghiên cứu và triển khai thành hiện thực. Ngoài những tính chất chung,
doanh nghiệp hiện đại còn có những đặc trưng riêng:

- Có năng lực trình độ sản xuất khoa học - kinh doanh hiện đại theo chiều
sâu, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và sức cạnh tranh mạnh trên thị trường
thế giới.
- Có năng lực sản xuất quy mô lớn, đa dạng hóa ngành nghề, sản phẩm
thích ứng với tính đa dạng và đầy biến động của thị trường.
- Quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh được tách bạch rõ ràng.
- Thực hiện công ty hóa, có vai trò pháp nhân độc lập, quyền tài sản rõ
ràng thông qua thị trường cổ phiếu và thị trường khác.
- Ap dụng chế độ quản lý theo 2 cấp trở lên.
Ngoài các đặc trưng trên, doanh nghiệp hiện đại còn thể hiện ở yêu cầu
văn hóa doanh nghiệp và quản lý lấy con người làm gốc, cũng như triển vọng
phát triển theo chiều dọc và chiều ngang.
1.1.5 Lý luận của Trung Quốc về chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung sang nền kinh tế thị trường
1.1.5.1 Lý thuyết chuyển đổi của Hungari và các nước Đông Âu
7


Thực chất các nhà kinh tế ở các nước này khẳng định rằng: “không có sở
hữu tư nhân hay đa dạng hóa sở hữu thì khó có thể có được một nền kinh tế hiệu
quả: khu vực doanh nghiệp tư nhân cần và sẽ ngày càng đóng vai trò chủ chốt
trong sự chuyển đổi sang cơ chế thị trường ở các nước hậu xã hội chủ nghĩa”
đều đề cao tư nhân hóa cùng với việc đẩy mạnh những cải cách thể chế và môi
trường kinh doanh những quan điểm của họ ít nhiều cũng giúp cho Trung Quốc
tham khảo về đường lối cải cách doanh nghiệp nhà nước của mình.
1.1.5.2 Lý luận của Trung Quốc về chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
- Có thể chia quá trình phát triển lý luận của Trung Quốc về chuyển đổi
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa theo các
giai đoạn như sau:

Giai đoạn từ tháng 12/1978 đến tháng 10/1984: đây là giai đoạn Trung
Quốc mở rộng quyền tự chủ của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
Giai đoạn từ tháng 10/1984 đến tháng 9/1988: đây là giai đoạn Trung
Quốc cải cách nhằm tăng cường sức sống cho DNNN, giao quyền, tách quyền
sở hữu khỏi quyền kinh doanh.
Giai đoạn từ tháng 9/1988 đến tháng 12/1991: đây là giai đoạn “chấn
chỉnh, cải tạo nền kinh tế quá nóng”. Giai đoạn này Trung Quốc đẩy mạnh cổ
phần hóa DNNN, tối ưu hóa kết cấu quản trị doanh nghiệp.
Giai đoạn 1992 - 1997: đây là giai đoạn Trung Quốc tăng cường cải cách
DNNN dưới khẩu hiệu “xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc
sắc Trung Quốc”. Giai đoạn này, Trung Quốc đã thực hiện chế độ cổ phần hóa
rộng rãi cho các DNNN, đây là biện pháp cải cách với bước đột phá lớn.
Giai đoạn 1998 - 2002: Cuộc khủng hoảng tài chính châu A năm 1998 đã
ít nhiều ảnh hưởng đến nền kinh tế Trung Quốc. Các DNNN Trung Quốc gặp rất
nhiều khó khăn trong việc đối phó với giảm nhu cầu thanh khoản, dẫn đến hàng
hóa sản xuất bị tồn đọng lớn. Đây là giai đoạn Trung Quốc tiến hành giải thể
quản lý nhà nước trên quy mô rộng.
Giai đoạn 2003 - 2012 là giai đoạn Trung Quốc đẩy nhanh mạnh cải cách
DNNN, xây dựng các tập đoàn kinh tế lớn, thực thi cải cách quản lý tài sản nhà
nước.
Giai đoạn sau Đại hội XVIII (10/2012), trải qua 34 năm cải cách kinh tế
(1978 - 2012), nền kinh tế Trung Quốc đã phát triển cao, nhanh, liên tục đến
8


mức độ đã “quá nóng” đầu tư cao. Trung Quốc gọi là “trạng thái cũ”, buộc
Trung Quốc phải thúc đẩy đi sâu cải cách tồn diện, chủn sang mơ hình mới,
gọi là “trạng thái bình thường mới”.
Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc (10/2017) đánh dấu bước
chuyển lớn trong cải cách kinh tế vĩ mô nói chung và cải cách DNNN Trung

Quốc nói riêng. Với kế hoạch đưa ra đầy tham vọng, Trung Quốc mong muốn
đến năm 2020 sẽ trở thành xã hội khá giả toàn diện (xóa nghèo), đến năm 2035
sẽ trở thành quốc gia thực hiện hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa (XHCN), thực lực
kinh tế, thực lực khoa học - công nghệ Trung Quốc sẽ có bước nhảy vọt, xếp
hàng đầu trong các nước có mô hình sáng tạo, cơ bản hình thành bố cục quản trị
xã hội hiện đại, cơ bản thực hiện mục tiêu Trung Quốc tươi đẹp. Đến năm 2049,
Trung Quốc sẽ trở thành cường quốc XHCN hiện đại, giàu mạnh, dân chủ, văn
minh, hài hòa và tươi đẹp, Trung Quốc sẽ trở thành quốc gia hàng đầu về sức
mạnh tổng hợp quốc gia và tầm ảnh hưởng quốc tế...
Đại hội đề ra mục tiêu xây dựng hệ thống kinh tế hiện đại hóa, nền kinh tế
của Trung Quốc đã chuyển từ giai đoạn tăng trưởng cao sang giai đoạn phát
triển chất lượng cao, kiên trì coi chất lượng là số 1, ưu tiên hiệu quả và lợi ích,
dựa vào cải cách kết cấu theo hướng trọng cung làm dòng chính, sáng tạo khoa
học - kỹ thuật, tài chính hiện đại và nguồn nhân lực, không ngừng tăng cường
sức cạnh tranh và sáng tạo của nền kinh tế Trung Quốc.
Về việc đi sâu cải cách kết cấu theo hướng trọng cung, Trung Quốc đã
đưa ra việc xây dựng hệ thống kinh tế hiện đại hóa, đưa trọng điểm của phát
triển kinh tế vào nền kinh tế thực, đưa hệ thống nguồn cung chất lượng cao trở
thành phương hướng chính, tăng cường rõ ràng ưu thế chất lượng của nền kinh
tế Trung Quốc. Đẩy nhanh xây dựng cường quốc chế tạo, đẩy nhanh phát triển
ngành chế tạo tiên tiến, thúc đẩy hội nhập sâu rộng giữa mạng in-tơ-nét, số liệu
lớn, trí tuệ nhân tạo và kinh tế thực thể, tạo dựng điểm tăng trưởng mới, dẫn dắt
sáng tạo, môi trường xanh, các-bon thấp, kinh tế chia sẻ, chuỗi cung ứng hiện
đại... Đồng thời, Trung Quốc sẽ kiên trì loại bỏ năng lực sản xuất, loại bỏ tồn
kho, loại bỏ đòn bẩy, giảm giá thành, bổ sung thiếu sót, tối ưu hóa phân phối
nguồn tài nguyên tồn đọng, mở rộng nguồn cung chất lượng tốt, thực hiện cân
bằng động thái cung - cầu.
Phương châm, chiến lược cơ bản của Trung Quốc trong Đại hội XIX,
được đưa ra bằng 14 kiên trì, trong đó kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Trung Quốc đối với mọi công tác được xếp ở vị trí số 1. Đây là “sợi chỉ đỏ”

xuyên suốt trong cải cách xây dựng đất nước. Vì vậy, về vấn đề cải cách doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) Trung Quốc từ sau Đại hội XIX, Đảng Cộng sản
9


Trung Quốc đã chiếm vị trí tuyệt đối trong cải cách kinh tế, chỉ đạo kinh tế nói
chung và trong cải cách DNNN Trung Quốc nói riêng. Cải cách kinh tế sẽ theo
mô hình “nhà nước lớn, thị trường nhỏ”, ổn định chính trị và lợi ích quốc gia lấn
át việc xác lập các nền tảng của kinh tế thị trường. Trong cải cách doanh nghiệp
nhà nước ở Trung Quốc, vai trò, vị trí của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chiếm
vị trí tuyệt đối. Thậm chí, Trung Quốc đã đưa sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
vào Điều lệ hoạt động của các tập đoàn DNNN niêm yết.
1.2 Những cơ sở thực tiễn
Cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc còn được định
hướng và tiến hành trên cơ sở những thực tiễn sau
1.2.1 Làn sóng tư nhân hóa
Nhìn chung việc tư nhân hóa ở các nước cơng nghiệp phát triển được tiến
hành từ những năm 80 có điểm chung nổi bật là
- Xóa bỏ quan liêu, tệ tập trung quá mức, cắt giảm sự can thiệp trực tiếp
của nhà nước vào sản xuất kinh doanh.
- Không tư nhân hóa những xí nghiệp thuộc một số ngành then chốt như
ngành năng lượng, quốc phòng
- Về cơ bản việc tư nhân hóa được thể hiện bằng cách: bán đấu giá các cở
phiếu trên thị trường chứng khốn; bán một phần vốn cho cá nhân hay công ty
tư nhân; bán cổ phiếu cho một nhóm người nhất định, ưu tiên bán cho những
người làm trong xí nghiệp.
Hòa nhập vào làn sóng tư nhân hóa của thế giới, các nước đang phát triển
từ những năm 80 cũng khởi động phong trào tư nhân hóa các doanh nghiệp quốc
doanh và Trung Quốc với tư cách là một nước đang phát triển cũng khơng nằm
ngồi xu thế đó.

Tư nhân hóa ở đây được coi là một trong các điểm then chốt và nội dung
lớn trong tiến trình đổi nới xã hội chính trị, kinh tế ở Nga và Đông Âu và Trung
Quốc đã nhìn vào sự đổi mới này để rút ra các bài học kinh nghiệm cho chính
mình. Hầu hết tiến trình cải cách kinh tế ở đây đều theo ‘liệu pháp sốc” nhằm
nhanh chóng hình thành các xí nghiệp tư nhân, hỗn hợp, cấu thành của nền kinh
tế thị trường hiện đại.
1.2.2 Thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và xu hướng tăng
cường hội nhập kinh tế quốc tế ở Trung Quốc
Doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc có một quá trình phát triển lâu dài
và có vai trò quan trọng, là lực lượng chính tạo nên sự thay đổi kết cấu kinh tế
10


công nghiệp, là nguồn cung cấp sản phẩm chủ yếu cho nhu cầu xuất khẩu và là
nguồn thu ngân sách cho nhà nước.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, các doanh nghiệp nhà nước đã bộc
lộ nhiều mặt yếu kém và việc cải cách chúng đã trở thành một tất yếu không thể
trì hoãn. Hơn nữa, môi trường và sự hội nhập quốc tế của Trung Quốc cũng đã
tạo ra sức ép mạnh mẽ buộc Trung Quốc phải tiến hành và đẩy nhanh hơn quá
trình cải cách doanh nghiệp nhà nước. Trong gần 30 năm qua, khu vực kinh tế
nhà nước Trung Quốc đã chứng kiến nhiều thay đổi. Cụ thể là:
Thứ nhất, kể từ cuối thập niên 1990, số lượng các DNNN Trung Quốc đã
bị thu hẹp đáng kể. Năm 1992, Trung Quốc có khoảng 113.000 DNNN, tới năm
1998 con số này giảm gần một phần hai xuống 65.000 và tới năm 2014, chỉ còn
18.808. Theo Báo cáo của Cơ quan Thống kê Quốc gia Trung Quốc qua các
năm, nếu như năm 1998 số lượng DNNN chiếm tới gần 40% thì năm 2002, tỷ lệ
này đã bắt đầu giảm xuống khoảng 20% và chỉ còn ở mức dưới 5% giai đoạn
2010 – 2014, (năm 2014 chỉ còn 2%). Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, số
lượng DNNN bị thu hẹp một phần là do các biện pháp cải cách khu vực kinh tế
nhà nước của Chính phủ, một phần là do sự lớn mạnh nhanh chóng của khu vực

kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, tỷ lệ đóng góp cho GDP của DNNN cũng sụt giảm. Ước tính
đóng góp của khu vực này trong tổng sản lượng công nghiệp quốc gia giai đoạn
2010 – 2014 chỉ vào khoảng 25 – 30%, giảm đáng kể so với mức 49,6% năm
1998 và 70 – 80% những năm 1980. Cụ thể, năm 1993, khu vực kinh tế nhà
nước và các loại hình kinh tế tập thể chiếm tới gần như toàn bộ sản lượng sản
xuất công nghiệp của cả nền kinh tế (3.918,9 nghìn tỷ nhân dân tệ, tương đương
với mức đóng góp 81% GDP), ngoại trừ một phần nhỏ từ các hộ kinh doanh nhỏ
lẻ và các hình thức sở hữu khác (921,3 nghìn tỷ nhân dân tệ, tương đương với
19%). Tới năm 2014, xu thế này đã có sự đảo chiều rõ rệt, khu vực kinh tế tư
nhân vươn lên trở thành khu vực đóng góp lớn nhất cho nền kinh tế. Mặc dù
vậy, sự suy giảm về vai trò của khu vực kinh tế nhà nước đối với GDP không
đồng nghĩa với quy mô kinh tế của khu vực này bị thu hẹp, trái lại, các DNNN
vẫn tiếp tục phình to cả về tổng vốn đầu tư tài sản cố định lẫn lĩnh vực kinh
doanh.
Thứ ba, lao động trong khu vực kinh tế nhà nước ở Trung Quốc dù liên
tục bi cắt giảm biên chế song hiện vẫn còn khả đông đảo cả về số lượng lẫn tỷ
trọng lao dộng. Các chương trình cải cách DNNN đã buộc các doanh nghiệp
phải cắt giảm hàng chục triệu lao dộng. Cụ thể, trong quá trình tái cấu trúc các
DNNN giai đoạn 1998 – 2003, 28 triệu lao động đã bị mất việc làm. Chính phủ
Trung Quốc cũng dự định sẽ tiếp tục cắt giảm khoảng 5-6 triệu lao động nữa
11


trước năm 2020, trong đó, riêng ngành than và thép, chủ yếu là các DNNN, con
số lao động bị sa thải có thể lên tới 1,8 triệu người. DNNN đánh mất vai trò là
chủ thể thu hút nhiều lao động nhất cho nền kinh tế, nhường vị trí này vào tay
các khu vực kinh tế ngồi q́c doanh.
Trong śt giai đoạn năm 1992 – 1997, có tới hơn 100 triệu lao động làm
việc trong các DNNN, chiếm tới 16% lao động của tồn bộ nền kinh tế. Mặc dù

con sớ này đã bắt đầu giảm mạnh từ năm 1998 do chính sách cắt giảm mạnh mẽ
của Thủ tướng Trung Quốc khi đó Chu Dung Cơ, song tính tới cuối năm 2014,
vẫn có hơn 63 triệu người, tương đương khoảng 8,17% tổng số lực lượng lao
động đang làm việc. Nếu so sánh với các nền kinh tế phát triển khác trên thế giới
(tỷ lệ này thường dưới 7%), đặc biệt là Mỹ với tỷ lệ dưới 2% từ cuối thập niên
1970, thì con số này của Trung Quốc như hiện nay vẫn là mức cao. Đó còn chưa
kể tới số liệu thớng kê của các cơ quan độc lập nước ngồi như Bloomberg
Intelligence (2015) cho rằng tỷ lệ lao động trong các DNNN ở khu vực thành thị
năm 2014 thực tế xấp xỉ mốc 20% và trước đó là 80% năm 1995 và 50% năm
2005.
Thứ tư, tổng lượng vốn đầu tư tài sản cố định cho các DNNN ngày càng
gia tăng, đặc biệt có sự tăng đột biến vào năm 2008. Nguyên nhân bởi khủng
hoảng tài chính toàn cầu 2008, Trung Quốc đã tung ra gói cứu trợ khổng lồ 4
nghìn tỷ nhân dân tệ để bù đắp cho sự suy giảm. Các ngân hàng được yêu cầu
cho các DNNN vay những doanh nghiệp đã phung phí tiền bạc vào nhà máy và
thiết bị mới bất kể nhu cầu thương mại. Gói kích thích thúc đẩy một sự bùng nổ
xây dựng các nhà máy, nhà ở và các cơ sở hạ tầng và khiến tổng vốn đầu tư tài
sản cố định cho DNNN đã tăng đáng kể.
Nếu xét về tổng tài sản trong các doanh nghiệp thì khu vực kinh tế nhà
nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn hơn cả, gấp đôi hai khu vực kinh tế tư nhân và khu
vực có vớn đầu tư nước ngồi. Bất chấp hoạt động thiếu hiệu quả, nhưng các
DNNN Trung Quốc vẫn sở hữu một khối lượng tài sản khổng lồ và liên tục gia
tăng qua các năm. Chỉ tính riêng các DNNN, mặc dù sụt giảm về số lượng
doanh nghiệp nhưng tổng tài sản nắm giữ của các DNNN lại có chiều hướng
tăng lên, từ 3.170 tỷ USD năm 2009 (tương đương 61,7% GDP) lên tới hơn
5.600 tỷ USD cuối năm 2013, trong đó có tới hơn 690 tỷ USD ở nước ngoài.
Trong nhóm mười quốc gia có tỷ trọng DNNN lớn nhất trên thế giới xét theo
quy mô doanh thu, tài sản và giá trị thị trường, Trung Quốc dẫn đầu với tỷ lệ
hiện diện của các DNNN lên tới 96%, trong khi đó Các Tiểu vương quốc Ả rập
đứng thứ 2 với 88%, tiếp sau lần lượt là Nga (81%), Indonesia (69%) và

Malaysia (68%).

12


Cùng với đó, tổng giá trị tài sản của ủy ban quản lý và giám sát doanh
nghiệp nhà nước của Trung Quốc (The State-ovvned Assets Supervision and
Administration Commission – SASAC) cũng tăng lên chóng mặt, từ mức 7,1
nghìn tỷ nhân dân tệ trong năm 2003, thời điểm mới thành lập, chỉ trong 6 năm
giá trị tài sản của SASAC đã tăng gấp 3 lần lên 21 nghìn tỷ năm 2009 và 6 năm
sau con số này năm 2015 tăng thêm 5 lần dao động ở mức trên 100 nghìn tỷ –
tương đương với GDP của cả khu vực EU tính theo ngang giá sức mua. Thực tế
này là kết quả kế hoạch tái cấu trúc doanh nghiệp của Chính phủ Trung Quốc,
trong đó các doanh nghiệp nhỏ bị sát nhập hoặc bị thâu tóm bởi các tập đoàn
kinh tế lớn.
Kết luận chương 1:
Việc cải cách kinh tế và cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc đã
và đang được hình thành, tiến triển khá tốt. Trước hết đạt được thành công đó là
nhờ Trung Quốc đã vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin một cách sáng tạo vào hoàn
cảnh cụ thể của nước mình. Mặt khác, còn nhờ Trung Quốc đã sớm tiếp cận với
các lý thuyết kinh tế tiến bộ trên thế giới trong đó có chủ nghĩa tự do mới coi
trọng mô hình nền kinh tế hỗn hợp đang ngày càng phổ biến trên thế giới. Hơn
nữa, Trung Quốc còn làm giàu thêm những căn cứ lý thuyết và thực tiễn cải cách
của mình bằng những lý thuyết và thực tiễn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hóa sang nền kinh tế thị trường, kể cả chính sách kinh tế mới trong công cuộc
chuyển đổi kinh tế ở Nga và Đông Âu. Bên cạnh đó những thực tế hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngồi q́c doanh ở Trung Q́c, đặc
biệt những tác động ngoại lực khi Trung Quốc chủ động mở cửa và đàm phán
gia nhập vào các tổ chức thương mại quốc tế và khu vực đã khẳng định tính tất
yếu phải cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc.

Việc nắm bắt xử lý nhất quán một cách khoa học và sáng tạo tất cả những
lý thuyết và thực tiễn trên thực sự là căn cứ để Trung Quốc định hình và phát
hiện dần các chủ trương đường lối mục tiêu nội dung cũng như phương thức cải
cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc sẽ được đề cập dưới đây.

13


Chương 2: Nội dung cơ bản của cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc.
2.1 Đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
2.1.1 Tách quyền sở hữu nhà nước và quyền kinh doanh của doanh nghiệp
nhà nước
Ở Trung Quốc, việc tách quyền sở hữu và quyền kinh doanh nhằm thực
hiện quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước đã được thực hiện từng bước,
từng thời kỳ với những yêu cầu cụ thể khác nhau:
Từ 1978-1984: Thời kỳ này nghiệm các quyền sở hữu và quyền kinh
doanh chủ yếu mới tập trung vào việc mở rộng quyền tự chủ về lợi nhuận doanh
nghiệp. Tuy vậy trên thực tế doanh nghiệp vẫn còn chịu sự khống chế của kế
hoạch mang tính pháp lệnh tập trung cao độ.
Từ 1984-1991: Thực hiện chuyển lợi nhuận thành thuế theo hai bước và
thực hiện chế độ khoán kinh doanh dưới nhiều hình thức.
Từ 1992 đến nay: Trung Quốc đã áp dụng các biện pháp cải cách Nhà
nước đại diện và triệt để nhằm thực hiện đầy đủ quyền tự chủ kinh doanh cho
doanh nghiệp nhà nước.
2.1.2 Thực hiện sự tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước
2.1.2.1 Tự chủ về tài chính
Trung Q́c đã sớm khẳng định qùn tự chủ về tài chính trong cải cách
doanh nghiệp nhà nước và coi tự chủ về tài chính của doanh nghiệp là hạt nhân
để đảm bảo tự chủ các mặt khác.
2.1.2.2 Tự chủ lao động, tiền lương và phân phối thu nhập

Để kích thích sản xuất, Trung Quốc cũng đã coi trọng và từng bước thực
hiện quyền tự chủ lao động, tiền lương và phân phối thu nhập cho các doanh
nghiệp nhà nước.
2.1.2.3 Tự chủ về kế hoạch và thị trường
Ngay từ khi bắt đầu cải cách doanh nghiệp nhà nước, Trung Quốc đã xem
tự chủ về kế hoạch và thị trường là một nội dung quan trọng, vì nó giúp cho
doanh nghiệp nhà nước được hạch toán độc lập, năng động và thích ứng với cơ
chế thị trường.
2.1.2.4 Tự chủ về đổi mới kỹ thuật và ứng dụng công nghệ tiên tiến
Ngay từ thời kỳ đầu cải cách doanh nghiệp nhà nước (giai đoạn 1978 –
1984), nhà nước Trung Quốc đã có nhiều văn bản pháp quy để doanh nghiệp tự
chủ đổi mới kỹ thuật, ứng dụng công nghệ tiên tiến và tăng năng suất lao động.
14


Tóm lại, cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc theo hướng đảm
bảo quyền tự chủ kinh doanh theo cơ chế thị trường ngày càng được coi trọng
trên cơ sở tách quyền sở hữu và quyền kinh doanh, cho phép doanh nghiệp ngày
càng có toàn quyền trong việc xây dựng và thực hiện phương án kinh doanh.
2.2 Đổi mới hình thức tổ chức doanh nghiệp nhà nước
2.2.1 Cơng ty hóa doanh nghiệp nhà nước
Trung Q́c cho rằng chế độ công ty là định hướng cần thiết cho cải cách
doanh nghiệp nhà nước và Trung Quốc cũng đã thể chế hóa về nguyên tắc các
hình thức hoạt động của công ty kinh doanh trên lãnh thổ của mình.
2.2.2 Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Chế độ cở phần hóa được Trung Quốc coi là hình thức và là giải pháp chủ
yếu để cách chế độ sở hữu doanh nghiệp nhà nước vì đây là hình thức của chế
độ công hữu có lợi cho sự phát triển của khu vực kinh tế Nhà nước; không làm
thay đổi vị trí làm chủ của người lao động.
2.2.3 Xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại ở Trung Quốc

Từ năm 1987, Trung Quốc đã xác định rõ việc xây dựng chế độ doanh
nghiệp hiện đại tại được coi là nhiệm vụ trung tâm của công cuộc cải cách thể
chế kinh tế thế ở Trung Quốc.
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn song nhìn chung việc xây dựng chế độ
doanh nghiệp hiện đại ở Trung Q́c thời gian qua có những tiến triển nởi bật:
hồn thành chế độ pháp nhân doanh nghiệp, bước đầu xác lập chế độ trách
nhiệm hữu hạn, từng bước thực hiện chế độ tổ chức kinh doanh khoa học.
2.3 Tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước
2.3.1 Không ngừng bổ sung hoàn thiện cơ sở pháp lý kinh doanh cho doanh
nghiệp nhà nước
Để cải cách doanh nghiệp nhà nước phát triển thuận lợi, tích cực và đúng
hướng, nhà nước Trung Quốc đã rất coi trọng việc tạo lập hành lang pháp lý;
tiến dần từ thấp đến cao, từ địa phương đến trung ương. Đặc biệt là từ năm 1988
đến nay, Trung Quốc đã xúc tiến ban hành các đạo luật vừa tạo ra môi trường
kinh doanh thuận lợi vừa thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế
thị trường.
2.3.2 Phối hợp sử dụng đồng bộ các chính sách vĩ mơ hỗ trợ tích cực cho
quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước và Trung Quốc
Về chính sách thuế: Trung Quốc đã xúc tiến đổi mới cơ chế quản lý thuế
theo hướng tinh giảm các loại thuế, từng bước pháp chế và đơn giản hóa các
hoạt động quản lý thuế nhằm thúc tiến độ cải cách doanh nghiệp nhà nước.
15


Về chính sách giá cả: Trung Quốc theo hướng cắt giảm hầu hết bao cấp
qua giá, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện quyền tự chủ về giá.
Về chính sách lãi suất: Trung Quốc chủ trương điều chỉnh lãi suất linh
hoạt phù hợp với thị trường tự do, từng bước điều chỉnh tỷ giá hới đối chính
thức sát với tỷ giá trị trường tự do, dần dần thực hiện chế độ một tỷ giá và phát
triển thị trường tín dụng, tiền tệ giúp cho doanh nghiệp tiếp cận thị trường vốn

trong xã hội.
2.3.3 Xây dựng và phát triển các định chế thị trường thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước
Từ ngày mở cửa tới nay, mặc dù Trung Quốc đã xây dựng được hệ thống
thị trường tương đới hồn chỉnh; như các thị trường vớn, lao động, kỹ thuật,
thông tin, bất động sản, hàng tiêu dùng, và tư liệu sản xuất nhưng nhìn vào cụ
thể thì các loại thị trường phát triển chưa cân đối giữa các vùng, ngành, thành
nhiều loại thị trường còn ở trình độ thấp, nhất là các thị trường gắn bó với doanh
nghiệp (thị trường khoa học kỹ thuật, thị trường thông tin, thị trường vốn…).
Trung Quốc đã và vẫn đang nỗ lực để giải quyết tờn tại này.
Ngồi việc phát triển các định chế thị trường cần thiết trên đây, Trung
Quốc rất coi trọng phát triển kinh tế thế dân doanh như là một nhân tố thị trường
gắn bó hỗ trợ tích cực cho cải cách doanh nghiệp nhà nước.
Kết luận chương 2
Xuất phát từ chủ trương từng bước cải cách cả các quan hệ kết cấu bên
trong lẫn các hình thức vận động bên ngoài của doanh nghiệp nhà nước phù hợp
với xu hướng vận động của nền kinh tế thị trường hiện đại, nội dung cải cách
doanh nghiệp nhà nước của Trung Quốc không ngừng được mở rộng bao qt
tồn bộ đời sớng kinh tế - xã hội của doanh nghiệp nhà nước, với các trọng tâm
là:
Thứ nhất: Đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước
theo cơ chế thị trường mà điểm mấu chốt của nó là khách quyền sở hữu và
quyền kinh doanh; nghĩa là doanh nghiệp nhà nước phải được quyền hạch toán
độc lập trên các mặt: tài chính, lao động, tiền lương, phân phối thu nhập, kế
hoạch và thị trường, tự chủ về đổi mới kỹ thuật và công nghệ.
Thứ hai: Đổi mới, đa dạng hóa hình thức sở hữu và các hình thức tổ chức
doanh nghiệp nhà nước theo hướng công ty hóa, cổ phần hóa nhằm tạo điều kiện
để xây dựng xí nghiệp hiện đại giúp doanh nghiệp nhà nước phát triển hiệu quả,
ứng phó với những biến động của thị trường nhất là trong điều kiện Trung Quốc
đẩy mạnh gia nhập các tở chức kinh tế tồn cầu và khu vực.

16


Thứ ba: việc tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp
nhà nước được tiến hành với tư cách vừa là một nội dung của cải cách doanh
nghiệp nhà nước vừa là điều kiện tiền đề về để tiến hành các giải pháp hỗ trợ và
đảm bảo cho quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước trên thực tế đạt kết quả
đề ra.
Việc khơng ngừng bở sung hồn thiện môi trường pháp lý kinh doanh:
điều chỉnh các công cụ chính sách thuế, giá cả, lãi suất, xây dựng và phát triển
hệ thớng thị trường hồn chỉnh (ưu tiên các thị trường vốn, lao động, tư liệu sản
xuất, kỹ thuật, thông tin, bất động sản, thị trường hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng;
coi trọng cả phát triển kinh tế dân doanh,…) đã cho phép Trung Quốc thay da
đổi thịt dần dần khu vực doanh nghiệp nhà nước theo định hướng và yêu cầu đề
ra, giữ vững được nhịp độ phát triển và ổn định tình hình kinh tế - xã hội quốc
gia.

17


Chương 3: Những thành công và hạn chế trong cải cách doanh nghiệp nhà
nước ở Trung Quốc. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
3.1 Những thành công và hạn chế trong cải cách doanh nghiệp nhà nước ở
Trung Quốc
3.1.1 Những thành công
Cải cách doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc những năm qua được biểu
hiện cụ thể kết quả như sau:
- Khắc phục được tình trạng nợ xấu và chấm dứt thua lỗ kinh doanh ở một
số DN. Cuối năm 1999, trong tất cả 30 tỉnh thành, khu vực của Trung Quốc có
gần 90% số DN thực hiện cải cách đã tăng lợi nhuận hoặc giảm lỗ ở các mức độ

khác nhau. Các DN có truyền thống thua lỗ như: DN ngành dệt, nguyên vật liệu
xây dựng, đường sắt... hầu hết đã xoay chuyển được tình cảnh thua lỗ triền
miên. Năm 2000, các DN công nghiệp nhà nước đạt mức lợi nhuận 24,7 tỷ USD,
tăng 2,9 lần so với năm 1997; năm 2001, lợi nhuận thực hiện tăng khoảng 14%
so với năm 2000.
- Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế-xã hội. Với sự điều chỉnh chính sách phát triển các thành phần kinh
tế, kết cấu sở hữu nhà nước và tập thể đã được thu hẹp; tỷ trọng DNNN trong
GDP tuy có giảm, nhưng hiệu quả của nó lại được nâng cao. Lợi nhuận thu được
từ các DNNN tăng từ 74,3 tỷ NDT năm 1989 lên 238,8 tỷ NDT vào năm 2001.
Các DNNN vẫn là đơn vị kinh tế đóng góp nhiều nhất cho ngân sách nhà nước.
Năm 2000, mức đóng thuế của các DNNN đã chiếm 67% mức thuế của toàn bộ
các DN công nghiệp. Đồng thời, DNNN cũng là nơi giải quyết việc làm cho xã
hội nhiều hơn so với các DN tư nhân hay các DN hương trấn. Đặc biệt, tỷ trọng
đầu tư vào tài sản cố định của các DNNN luôn tỏ rõ tính vượt trội so với DN
thuộc các thành phần kinh tế khác. Năm 2000, tỷ trọng đầu tư về tài sản cố định
của các DNNN chiếm trên 50%, còn các DN thuộc thành phần khác là 21%.
Theo số liệu thống kê của Hội đồng Nhà nước công bố vào đầu năm
2006, Trung Quốc còn khoảng 138.000 DNNN công nghiệp và thương mại, với
khoảng 43 triệu người đang làm việc. Doanh thu của các DNNN công nghiệp và
DN có cổ phần nhà nước chiếm tới 40,5% tổng doanh thu và 46% lợi nhuận của
các DN công nghiệp trong cả nước. Số liệu này đã phản ánh thực trạng của các
DNNN trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại vẫn đang nắm vai trò kiểm
soát trong nền kinh tế.
- Chủn đởi và hồn thiện cơ chế kinh doanh của các doanh nghiệp.
Thông qua cải cách, các DNNN đã thực hiện một sự chuyển đổi cơ chế kinh
18


doanh mạnh mẽ bằng việc chuyển sang thành các công ty, tập đồn kinh tế, cơng

ty cở phần, cơng ty trách nhiệm hữu hạn, xí nghiệp liên doanh, công ty 100%
vốn nhà nước... hoạt động theo “Luật công ty”. Theo đó, các doanh nghiệp đã có
được quyền tự chủ nhiều hơn trong sử dụng vốn và tài sản nhà nước. Trung
Quốc đã từng bước hình thành được khung cơ bản về quản lý, giám sát việc sử
dụng tài sản nhà nước trong các DN, làm rõ quyền hạn, trách nhiệm dân sự trước
pháp luật của DN đối với việc bảo toàn và tăng giá trị tài sản nhà nước của DN.
- Thông qua cải cách chế độ sở hữu, nhiều tập đồn kinh tế mạnh của
Trung Q́c đã ra đời và có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Đồng thời, hình thành trong các DN ý thức cạnh tranh, mạnh thắng yếu thua,
đào thải lẫn nhau.
3.1.2 Những hạn chế
Trung Quốc gia nhập WTO tháng 12 - 2001. Đây là mốc quan trọng đánh
dấu công cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc bước vào thời kỳ mới, nền kinh
tế hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới. Vì vậy, quá trình cải cách DNNN ở
Trung Quốc đang đặt ra những vấn đề cần tiếp tục giải quyết trong thời gian tới
như sau:
Năng lực cạnh tranh của các DNNN còn yếu, khoảng cách chênh lệch
giữa DN của Trung Quốc với các doanh nghiệp trên thế giới còn quá lớn. Bằng
số liệu thống kê sẽ cho chúng ta thấy, từ năm 1993-1995, Trung Quốc có 7.950
DNNN quy mô lớn với số vốn bình quân là 0,186 tỷ NDT, trong đó chỉ có 450
DNNN quy mô cực lớn với số vốn đầu tư trung bình 1,039 tỷ NDT (tương
đương 100 triệu USD). Nếu so với số vốn đầu tư của doanh nghiệp quy mô nhỏ
nhất trong số 500 doanh nghiệp hàng đầu của thế giới thì số vốn của các DNNN
quy mô cực lớn của Trung Quốc mới chỉ bằng 1/10. Đến năm 1998, giá trị bình
quân tổng tài sản của 500 doanh nghiệp hàng đầu Trung Quốc đạt 700,11 triệu
USD, nhưng con số này cũng chỉ bằng 0,88% tổng giá trị tài sản của 500 doanh
nghiệp mạnh của thế giới.
Về trình độ khoa học kỹ thuật ứng dụng trong sản xuất, 4 ngành kinh tế
quan trọng như: cơ khí, hố dầu, điện tử và chế tạo ơ tô của Trung Quốc dù đã
có bước tiến lớn nhưng vẫn bị đánh giá là đi sau trình độ phát triển công nghệ

của các nước phát triển trên thế giới. Khoản đầu tư cho nghiên cứu cải tiến kỹ
thuật hoặc phát triển sản phẩm mới của các DNNN còn rất nhiều hạn chế.
Sự can thiệp hành chính của nhà nước vẫn còn chi phối mạnh mẽ nhiều
hoạt động của doanh nghiệp. Một tình trạng khá phổ biến hiện nay là các doanh
nghiệp thường tìm cách quan hệ với cơ quan nhà nước để trông đợi những khoản
lợi ích cục bộ cho riêng DN mình. Theo con số thống kê cho thấy, ở các DNNN,
19


người đứng đầu đơn vị thường bỏ ra 15,4% tổng số thời gian và sức lực để đi
xây dựng quan hệ với các cơ quan hành chính. Ngoài ra, sự tác động của chính
phủ tới các doanh nghiệp được biểu hiện rõ ở chỗ trực tiếp can thiệp vào việc bổ
nhiệm các chức vụ lãnh đạo doanh nghiệp.
- Hiệu quả kinh doanh của các DNNN chưa thật sự được cải thiện. Sau
khi thực hiện hàng loạt các biện pháp cải cách, số DNNN có chuyển biến tích
cực về hiệu quả sản xuất kinh doanh chỉ có 2/5. Như vậy là, tình trạng các
DNNN làm ăn thua lỗ vẫn là một vấn đề nan giải cần được giải đáp.
Đầu năm 2005, để xoá bỏ tình trạng DNNN làm ăn thua lỗ, Quốc vụ viện
Trung Quốc đã phê chuẩn quy hoạch công tác 4 năm về đóng cửa, phá sản các
DNNN. Đây là bước quá độ để từ sau năm 2008, Chính phủ Trung Quốc sẽ cho
ra luật phá sản doanh nghiệp. Hiện nay, Trung Quốc đã đẩy mạnh việc chuyển
các DNNN có khả năng niêm yết trên thị trường chứng khoán thành những công
ty cổ phần. Đồng thời, đưa ra nhiều chính sách về phá sản, trong đó quy định
quyền của người lao động, về quản lý tài sản và các khoản vay khó đòi. Ở một
số tỉnh thành như: Bắc Kinh, Thượng Hải, Triết Giang, Phúc Kiến, Giang Tô đã
ngưng cấp các khoản tài trợ chính cho các DNNN có nguy cơ phá sản (10). Theo
số liệu thống kê cho thấy, tính đến tháng 5 - 2005 có đến hơn 1.800 DNNN làm
ăn thua lỗ, đang chờ phá sản, gây thất thoát lên đến 317,8 tỷ NDT.
- Tình trạng thực hiện chuyển quyền sở hữu tài sản DN không đúng quy
định làm tài sản nhà nước chảy vào túi tư nhân ở Trung Quốc đang trở thành vấn

nạn của nền kinh tế. Trong khi đó, Chính phủ chưa có những giải pháp hữu hiệu
để chấm dứt tình trạng này. Theo Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao Trung Quốc
Giả Xuân Vượng, năm 2004, có 10.407 cán bộ, nhân viên thuộc các DNNN bị
khởi tố và bắt giam vì đã chiếm đoạt, lạm dụng công quỹ, tự chia chác tài sản
nhà nước. Điển hình là các vụ khởi tố bắt giam Chủ tịch Hội đờng quản trị các
tập đồn Y Lợi, Xuân Đô, Kỹ thuật số Kim Chính, Cao tốc Trung Nguyên.
Hiện nay, để tránh thất thoát tài sản khi tiến hành cải cách DNNN, Uỷ ban
quản lý tài sản quốc gia Trung Quốc đưa ra, đối với các doanh nghiệp lớn không
cho phép giới lãnh đạo mua doanh nghiệp. Với doanh nghiệp vừa và nhỏ, nếu
giới lãnh đạo mua doanh nghiệp, cần làm rõ tình hình thực tế và có sự phụ trách,
giám sát của Uỷ ban quản lý tài sản quốc gia, hoặc cơ quan có trách nhiệm
tương đương. Nguồn gốc tài chính, lai lịch của người mua doanh nghiệp cũng
cần được làm rõ.

20


3.2 Bài học kinh nghiệm cho quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam
3.2.1 So sánh cải cách kinh tế nói chung và cải cách doanh nghiệp nhà nước
nói riêng giữa Trung Q́c và Việt Nam
3.2.1.1 Những tương đồng
Thứ nhất: Trung Quốc và Việt Nam trong một thời gian dài đã theo đuổi
cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ bộ, với xuất phát điểm khi tiến hành cải
cách DNNN đều là các nước đang phát triển trong giai đoạn chuyển đổi sang cơ
chế thị trường.
Thứ hai: Phương hướng chung, mục tiêu, nội dung cải cách doanh nghiệp
nhà nước ở hai nước về cơ bản là giống nhau.
Thứ ba: Cả hai nước đều đứng trước nhiều vấn đề bức xúc trong quá trình
chuyển đổi và cải cách doanh nghiệp nhà nước (thất nghiệp gia tăng, sự ổn định

xã hội bị tác động...)
Thứ tư: Cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc và đổi mới doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và đều
hướng đến mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhằm xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội ở mỗi nước.
3.2.1.2 Những khác biệt
Trung Quốc là một nước lớn trên thế giới (đất rộng người đông, thị trường
lớn) nên việc thực hiện cải cách, mở cửa thuận lợi hơn Việt Nam.
Trung Quốc cải cách mở cửa sớm hơn Việt Nam, đã tích lũy được nhiều
kinh nghiệm và bài học.
Trung Quốc gia nhập WTO trước Việt Nam
Hình thức cụ thể, thời gian phân chia giai đoạn, lộ trình và nhiều giải pháp
tiến hành cải cách doanh nghiệp nhà nước cũng khác nhau ở nhiều điểm.
3.2.2.2 Bài học kinh nghiệm về cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung
Q́c có thể vận dụng vào cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Trên cơ sở những so sánh tương đồng và khác biệt, bài luận đã rút ra được các
bài học kinh nghiệm sau:
Một là, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân nhằm giảm gánh nặng
cho kinh tế nhà nước. Từ khi mở cửa, cải cách, Trung Quốc đã nhìn nhận ngày
một đầy đủ và khoa học hơn về vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân trong nền kinh
tế. Sự thừa nhận vị trí hợp pháp đó làm cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển
21


mạnh mẽ, tạo ra cơ cấu của nền kinh tế thị trường cân đối, có hiệu quả. Nhà
nước bớt đi những gánh nặng phải đầu tư ngân sách cho các DNNN. Trong lĩnh
vực cạnh tranh thì DNNN có thể rút lui hoàn toàn để nhường chỗ cho DN tư
nhân.
Những năm gần đây, Trung Quốc khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân
hoạt động trong các ngành kinh tế mũi nhọn nhằm phá bỏ độc quyền của các

DNNN trong những ngành này. Năm 2005, công ty Okay Airways là công ty tư
nhân đầu tiên được Chính phủ Trung Quốc cho phép hoạt động kinh doanh trong
ngành hàng không. Tiếp theo đó, các công ty tư nhân United Eagle Airlines và
Spring - Autumn Airlines lần lượt được phép kinh doanh các chuyến bay thương
mại. Trong lĩnh vực viễn thông, vận tải đường sắt, từ năm 2006 đã có sự tham
gia của tư nhân.
Vì vậy, trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước, việc khuyến khích,
coi trọng phát triển kinh tế tư nhân, cần có những chính sách để khu vực này
được đối xử bình đẳng với khu vực kinh tế nhà nước.
Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa cải cách với quản lý DNNN; giữa cải cách
DNNN với điều chỉnh kết cấu của kinh tế nhà nước. Kinh nghiệm cải cách
DNNN ở Trung Quốc cho thấy, để thực hiện thành công cải cách DNNN là phải
kết hợp cải cách với việc không ngừng điều chỉnh kết cấu kinh tế nhà nước. Mục
đích của sự điều chỉnh này là nhằm tối ưu hoá kết cấu ngành nghề, thúc đẩy sự
phát triển hài hoà của các khu vực kinh tế, nâng cao sức mạnh tiềm tàng cho các
DNNN. Điều chỉnh kết cấu là quá trình cấu trúc lại hệ thống DNNN, nhằm loại
bỏ các DN làm ăn kém hiệu quả, giữ lại những DN quan trọng. Nhà nước chỉ
cần duy trì các DNNN ở những lĩnh vực then chốt, nắm huyết mạch nền kinh tế.
Ba là, xây dựng và phát triển đồng bộ thị trường tài chính, hệ thớng kiểm
tốn và hệ thớng pháp luật nhằm đảm bảo cho quá trình cải cách DNNN thành
công. Cùng với tiến trình cải cách DNNN, chính phủ cần phải xây dựng và kiện
tồn một hệ thớng hỗ trợ cho cải cách. Hệ thống đó bao gồm một hệ thống văn
bản pháp luật rõ ràng, nghiêm minh; một thị trường tài chính vận hành lành
mạnh và một hệ thớng kiểm tốn minh bạch, chính xác. Các cơng ty kiểm toán
có trách nhiệm đánh giá một cách chính xác và trung thực tình hình kinh doanh
của DN có niêm yết trên thị trường chứng khoán để cung cấp thơng tin, bảo đảm
hài hồ lợi ích giữa nhà đầu tư, người lao động, doanh nghiệp và chính phủ. Hệ
thống pháp luật cần được xử lý nghiêm minh những trường hợp nhà quản lý DN
hoặc cơng ty kiểm tốn gian lận trong khi tiến hành cở phần hố.
Ở Việt Nam, vào tháng 4 - 2007, một ví dụ điển hình của việc đánh giá

chưa đúng giá trị doanh nghiệp và thiếu minh bạch khi tiến hành Cở phần hố là
22


công ty Intimex thuộc Bộ Thương mại. Khi công ty đưa lên sàn giao dịch Hà
Nội đấu giá thì có 10 nhà đầu tư (hầu hết là cán bộ quản lý doanh nghiệp và
người thân của họ) trả giá cao nhất là 160.000đ/CP và họ mua gọn. Hậu quả là,
nhiều người công nhân có nhiều năm gắn bó với công ty đã trở thành người làm
thuê, mất hết quyền lợi, nhà nước bị thất thoát tài sản. Tình trạng này cần được
khắc phục ngay đối với các doanh nghiệp đang và sẽ tiến hành Cở phần hố
trong thời gian tới.
Bốn là, đa dạng hố sở hữu các DNNN quy mơ lớn. Hiện nay, Trung quốc
đang đẩy nhanh cải cách theo cơ chế đa dạng hoá sở hữu các DNNN lớn. Bởi lẽ,
các doanh nghiệp này chủ yếu đang hoạt động trong các ngành, lĩnh vực độc
quyền, nên việc cải cách sẽ phá bỏ độc quyền các doanh nghiệp. Đồng thời, các
DNNN quy mô lớn thường có quan hệ rất chặt với chính phủ. Thực hiện cải
cách theo cơ chế đa dạng hoá sở hữu DNNN sẽ cải thiện được hai cấu trúc và
một cơ chế, đó là, cải thiện cấu trúc quyền tài sản doanh nghiệp và cấu trúc quản
lý cơng ty, chủn đởi và hồn thiện cơ chế hoạt động doanh nghiệp. Tuy nhiên,
thực tiễn quá trình cải cách DNNN của Trung Quốc đang gặp phải khâu nhạy
cảm và cơ bản nhất đó là “cải cách quyền sở hữu tài sản DNNN”. Theo đó, đã
nảy sinh việc thực hiện chuyển quyền sở hữu tài sản doanh nghiệp không đúng
quy định, làm thất thoát tài sản nhà nước. Tình trạng tham ô, tham nhũng, làm
tài sản nhà nước chảy vào túi tư nhân ở Trung Quốc đang trở thành vấn nạn của
nền kinh tế. Trong khi đó, chính phủ chưa có những giải pháp hữu hiệu để chấm
dứt tình trạng này. Vấn đề đặt ra là, đẩy mạnh cổ phần hố DNNN phải đờng
thời coi trọng làm tớt vấn đề phân cấp, phân định rạch ròi, quản lý vốn tài sản
doanh nghiệp giữa trung ương và địa phương. Đồng thời, phải luật hố tồn bộ
việc sử dụng vớn, tài sản trong các doanh nghiệp; xây dựng hệ thống định giá tài
sản chính xác, hợp lý; thiết kế hệ thống ngăn chặn tệ tham nhũng chiếm dụng tài

sản, biến công thành tư. Kết hợp đồng bộ việc quản lý tài sản vốn nhà nước với
các mặt quản lý khác như: thuế, ngân hàng, tiền tệ, thị trường chứng khoán.
Kết luận chương 3
Với việc kiên trì mục tiêu cải cách doanh nghiệp nhà nước của mình, có
hướng đi và phương pháp đúng đắn, bước đi thận trọng, thành tựu của cải cách
doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc không ngừng được mở rộng, những tồn
tại của cải cách doanh nghiệp nhà nước cũng dần được khắc phục, tạo ra những
điều kiện mới thì cải cách doanh nghiệp nhà nước đi vào chiều sâu.
Những thực tế thành công, hạn chế thậm chí rất gian nan giải trả giá của
cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc cho phép các nền kinh tế đang
23


chuyển đổi nói chung và Việt Nam nói riêng rút ra những bài học kinh nghiệm
quý báu, nổi bật là các bài học về đa dạng hóa chế độ sở hữu, xây dựng chế độ
doanh nghiệp hiện đại, phát triển các tập đoàn doanh nghiệp lớn đủ khả năng và
định hướng hoạt động tồn q́c, xun q́c gia …Những kinh nghiệm này có
thể sẽ giúp Việt Nam đạt được những kết quả tốt hơn trong giai đoạn cải cách
doanh nghiệp nhà nước hiện tại và tương lai.

24


×