Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Cảm thức sinh thái trong Hoài niệm sói - (đã sửa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.56 KB, 13 trang )

CẢM THỨC SINH THÁI
TRONG HỒI NIỆM SĨI CỦA GIẢ BÌNH AO
NGUYỄN THỊ NGÀ(*)

Trung Quốc là một trong những cái nôi văn minh của nhân loại với nền
văn học phát triển phong phú, đa dạng và có ảnh hưởng sâu rộng trên toàn
thế giới. Đặc biệt sau cuộc cách mạng văn hóa năm 1978, văn học Trung
Quốc phát triển mạnh mẽ theo xu hướng “Song bách” – trăm hoa đua nở,
trăm nhà đua tiếng, nhiều nhà văn xuất hiện với phong cách sáng tạo độc
đáo. Trong đội ngũ “năm thế hệ nhà văn Trung Hoa”, Giả Bình Ao là một
trong những tác giả gây ấn tượng nổi bật trên văn đàn đương đại Trung Quốc
và thế giới. Ông là một trong số ít những nhà văn sáng tác thành cơng ở cả
ba thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn và tản văn. Trong đó, “các sáng tác tiểu
thuyết của ơng đối với lịch sử văn học thời kỳ mới chính là sự tồn tại độc
đáo và phức tạp trên văn đàn”1, là lĩnh vực ơng thành cơng hơn cả.
Tiểu thuyết Hồi niệm sói (xuất bản tại Trung Quốc năm 2000) được
chính tác giả cho là “Tác phẩm tự mình thấy mãn nguyện nhất” 2. Năm 2003,
Hồi niệm sói được giới thiệu với bạn đọc Việt Nam (Vũ Công Hoan dịch,
Nhà xuất bản Văn học phát hành). Hồi niệm sói - với những câu chuyện ly
kỳ và những ý tưởng phong phú, sớm được coi là “ghi chép về thợ săn” ở
bản Thương Châu. Cuốn tiểu thuyết là câu chuyện về quá trình tìm kiếm sói,
đan xen những đồn đại đầy màu sắc huyền bí, đã thể hiện tồn diện cuộc đọ
sức giữa sinh và tử, thiện và ác, đúng và sai, ngoan ngỗn và tàn bạo của
người và sói đã trải qua trong hiện thực và lịch sử Thương Châu. Xét trên
tổng thể, mối quan hệ giữa sói và người đã trở thành ngọn nguồn ý nghĩa của
tiểu thuyết.
Giả Bình Ao là tác giả của những trang viết nổi tiếng về vùng đất
Thương Châu - cái nơi của nền văn hóa Tần Hán với những truyền thống lâu
(*)

Nghiên cứu sinh, Trường Đại học Sư phạm Hoa Đông, Thượng Hải, Trung Quốc.


Lôi Đạt: <Tư liệu nghiên cứu Giả Bình Ao>, Nhà xuất bản Văn nghệ Sơn Đơng, năm 2006, trang 7.
2
Trương Anh: <Hồi niệm sói: Về ngụ ngơn hiện thực sinh tồn>, Báo Văn hóa Trung Quốc, ngày 18-72000.
1

1


bền hàng ngàn năm trong lịch sử Trung Hoa. Các tác phẩm của Giả Bình Ao
hầu như đều gắn bó với “căn cứ địa Thương Châu”3, như liên đới với nhau,
nhưng cách nhìn và cảm thức của nhà văn ln đổi mới. Thời kì trước Nơn
nóng, cuộc sống, con người Thương Châu hiện lên trong tác phẩm của Giả
Bình Ao thường là chuỗi hình ảnh vừa đẹp vừa sáng, với những phong tục
dân tộc mang phong cách cổ xưa, như một “bồng lai tiên cảnh” hài hòa và
tốt đẹp. Cái nhìn thẩm mỹ của ơng đã tái hiện một Thương Châu trong mộng
tưởng với diện mạo, cảnh quan địa lý, những di vật lịch sử, những nét đẹp
của văn hóa dân tộc. Ở những tác phẩm này, cũng có lúc ngịi bút của ơng
chạm vào những hiện tượng gồ ghề, nhưng rất ít khi đề cập đến vấn đề mâu
thuẫn xã hội căng thẳng và xung đột văn hóa khơng tương hợp. Ở Nơn
nóng, viết về những người từ Thương Châu đi ra thành thị, sự hài hòa và yên
tĩnh đã bị phá vỡ do tác động của cải cách xã hội, làm xuất hiện những biểu
hiện xung đột giữa thành thị và nơng thơn. Nơn nóng, đúng như cái tên của
nó - chính là sự háo hức điển hình trong thời kỳ chuyển mình của lịch sử.
Đến Phế đơ và Bạch dạ, nội dung chủ yếu đã là sự xung đột văn hóa. Các
nhân vật chính Trang Chi Điệp và Dạ Lang không thể trở thành nhân vật
chiến thắng trong sự xung đột đó, đã rơi vào tuyệt vọng để rồi cuối cùng đều
ra đi trong sự sụp đổ tinh thần. Ở Thổ môn, tác giả muốn xây dựng sự hịa
thuận lí tưởng của “nơng thơn trong thành thị”, nhưng đó chỉ có thể là xã hội
khơng tưởng, sự thất lạc trong quê hương vẫn là chủ đề chính và xuyên suốt
của tác phẩm. Đến Cao Lão trang, nhân vật chính Tử Đường tiến hành một

chuyến đi tìm về cội nguồn của quê hương, mong muốn xây dựng lại một
mơ hình văn hóa lý tưởng, nhưng sau cùng vẫn chỉ là sự tháo chạy về thành
phố. Hồi niệm sói gần như là sự kế thừa, tiếp nối chủ đề này. Thương Châu
trong Hồi niệm sói đã bị lỗ chỗ thương tích bởi những xung đột của văn
minh hiện đại và những ham muốn hưởng thụ vật chất tầm thường. Cuộc
sống thành phố ồn ào tấp nập mang đến cho Tử Minh những xấu xa và tê
liệt, vô cùng buồn chán, trong sinh mệnh đầy những hư ảo. Thành phố ồn ào,
huyên náo đã làm anh dần dần mất đi hứng thú với cuộc sống và cảm xúc
mãnh liệt trong sáng tác. Vì vậy, anh bắt đầu nhớ về Thương Châu, hồi
3

Giả Bình Ao: <Tản văn đại hệ >, Tập 2, Quế Lâm: Nhà xuất bản Nhà xuất bản Ly Giang , năm 1993,
trang 112.

2


niệm về sói. Anh từ Tây Kinh về Thương Châu, cố gắng tìm một chút hứng
thú mãnh liệt trong cuộc sống từ sinh mệnh hoang dã bừng bừng của sói. Có
thể nói, trước đây Giả Bình Ao thơng qua đủ sắc màu xanh, đỏ, tím vàng,
đen, trắng để thể hiện trạng thái tồn tại của con người trong mỗi tác phẩm,
thì Hồi niệm sói chính là sự tổng hợp và dung hịa của những sắc màu đó
thành một thể thống nhất để nhìn thấu sự sinh tồn của con người, thể hiện
tầm tư duy triết học sâu sắc và khái qt của Giả Bình Ao.
Hồi niệm sói là những suy tư của tác giả về vấn đề bản thể sinh mệnh,
gắn với những cảm nhận sự suy thoái những tương quan đối kháng trong bản
năng sinh mệnh. Ông cho rằng, một khi bản thể sinh mệnh mất đi đối tượng
mang tính đối kháng trong mơi trường sinh thái, bản thể sẽ phát sinh biến dị,
sẽ mất đi sức sống. Ở phần cuối tiểu thuyết, tiếng kêu “Tơi cần sói” khơng
chỉ là tiếng kêu của Tử Minh, mà là sự cộng hưởng nhu cầu khẩn thiết của cả

một thành phố, hơn nữa, của cả một thời đại. Có thể nói, những suy xét trong
Hồi niệm sói về sự tồn tại giữa người và sói khơng cịn giới hạn trong một
khu vực, một dân tộc, một thời đại nữa, mà là mối quan hệ giữa nhân loại và
môi trường tự nhiên trên toàn thế giới. Trong toàn bộ những tác phẩm viết về
Thương Châu, đây là lần đầu tiên Giả Bình Ao bày tỏ nỗi âu lo của mình đối
với văn hóa Thương Châu, và rộng sâu hơn là nỗi âu lo đối với sự sinh tồn
của sinh mệnh con người. Như vậy, sự đối kháng giữa người và sói trên thực
tế là vấn đề về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Trên tầng ý nghĩa
này, rất nhiều nhà nghiên cứu đã giải thích Hồi niệm sói với ý thức luân lí
sinh thái hoặc trong quan niệm “thiên nhân hợp nhất” đã có từ lâu trong
truyền thống Trung Quốc.
Trước hết, suy tư của tác giả về sự sinh tồn của con người bắt nguồn từ
trải nghiệm cuộc sống thời đại, và chính bản thể sinh mệnh của nhà văn. Giả
Bình Ao thổ lộ: “Sau bốn mươi lăm tuổi, tơi có cảm giác càng ngày càng sợ
hãi thế giới này, tơi cũng khơng rõ là bởi vì tuổi cao, hay là do đọc nhiều bài
báo tin tức về chiến tranh, sự hủy diệt và thành quả khoa học kĩ thuật cao” 4.
Cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học kĩ thuật hiện đại, con
người không ngừng lợi dụng, cải tạo và chinh phục tự nhiên. Trong quá trình
4

Liêu Tăng Hồ: <Phỏng vấn Giả Bình Ao- Về “Hồi niệm sói”>, < Bình luận nhà văn đương đại>, năm
2000, số 4.

3


đó, một mặt con người tạo cho mình mơi trường sinh tồn thoải mái hơn, mặt
khác lại đang phá hoại nghiêm trọng môi trường sinh tồn. Ngày càng cảm
thấy “sợ hãi” với thực trạng này, Giả Bình Ao khơng thể không suy xét vấn
đề sinh tồn của con người trong các mối quan hệ con người và tự nhiên, con

người và xã hội, con người với con người... Hoài niệm sói như muốn chia sẻ
cùng bạn đọc: trong q trình văn minh hóa cao độ của con người, sinh
mệnh tự nhiên đang ngày càng bị thối hóa. Câu chuyện về cái chết của
gấu mèo lớn hơn một trăm kilogam và đứa con mới chào đời nặng chỉ
khoảng mười gram có thể được coi là hình ảnh ẩn dụ về sinh mệnh con
người. Con người luôn kiềm chế sự phát triển của tự nhiên đã tạo nên sự phá
hoại môi trường sinh tồn. Gấu mèo lớn hiện tại có lẽ chính là hình ảnh trong
tương lai của con người.
Sự sợ hãi và nghi hoặc đến từ bản thể sinh mệnh là nguyên do nội tại
khiến ông nảy ra sự suy xét đối với vấn đề tồn tại của con người. Với cuốn
tiểu thuyết này, người đọc có thể cảm nhận được sự ơn hịa của nhân sinh,
nhưng cũng có thể thấy được sự đối kháng của sinh mệnh. Trong sự đối
kháng của sinh mệnh, con người có thể thực hiện giá trị bản thân, có thể
ngày càng hồn thiện và vượt lên. Nhưng, trong q trình văn minh văn hóa
phát triển tốc độ cao, sức sống tự nhiên bị suy thoái. Trả lời phỏng vấn về
Hồi niệm sói, Giả Bình Ao giãi bày: “Con người trở thành người trong
cuộc đấu tranh với sói, sự biến mất của sói khiến con người rơi vào hoảng
loạn, cô đơn, yếu đuối và hèn hạ, và vẫn rơi vào cảnh chết chóc. Hồi niệm
sói là hoài niệm sinh mệnh dồi dào, hoài niệm anh hùng, hoài niệm sự cân
bằng trên thế giới”5. Trong Hoài niệm sói, người và sói đang ở trong một
tình huống nghịch lý: một mặt con người vì tồn tại mà khơng thể khơng săn
bắt sói; mặt khác, săn giết q độ khiến con người mất đi mặt đối lập của
sinh mệnh, cuối cùng con người mất đi ý nghĩa tồn tại của bản thân. Khi săn
bắt sói, sứ mệnh sinh tồn của Phó Sơn và đội săn bắt sói của anh mới được
thể hiện trọn vẹn, họ mới trở thành anh hùng. Đến khi khơng cịn sói để họ
săn bắt, mỗi sinh mệnh của họ lại bắt đầu bị thối hóa. Sau khi dân thôn
Hùng Nhĩ Xuyên hầu như điên cuồng giết đi những con sói cịn sót lại, họ
5

Liêu Tăng Hồ: <Phỏng vấn Giả Bình Ao- Về “Hồi niệm sói”>, < Bình luận nhà văn đương đại>, năm

2000, số 4.

4


bắt đầu chuyển hóa thành mặt đối lập của chính mình, biến thành “người
sói”. Theo Giả Bình Ao, con người bắt buộc phải dựa vào mặt đối lập mà tồn
tại, con người dựa vào chiến thắng mặt đối lập để thực hiện giá trị của bản
thân và duy trì cảm xúc mạnh mẽ của sinh mệnh. Sói, với tư cách là mặt đối
lập với con người, sức mạnh và sự ngoan cường của nó làm con người kinh
ngạc. Ý chí kiên cường và tư thế mạnh mẽ của chúng hoàn toàn trái ngược
với sự mềm yếu của cơ thể và tâm trí con người đương đại. Kiểu tương phản
này mang ý nghĩa biểu tượng cho người và sói trong tiểu thuyết, giữa người
và sói chỉ có thể là mặt đối lập mới có thể tồn tại. Vì vậy, tác giả nói rằng
bản thân nhớ về sói thực chất là đang nhớ về sức sống sinh mệnh tràn trề của
con người. Sự phá vỡ mơ hình hài hịa của thế giới làm cho ngày càng nhiều
loài và nhiều tài nguyên biến mất vĩnh viễn khỏi trái đất. Tuy nhiên, tất cả
các loài tự nhiên là một cấu trúc chuỗi, và khi bị đứt đoạn, toàn bộ cấu trúc
sẽ bị mất đi sự cân bằng. Động vật khơng cịn nữa, con người cũng khơng
thể cơ lập sinh sống trên trái đất, sói bị hủy diệt rồi, tiếp theo là con người
gặp tai họa. Xét trên ý nghĩa này, kết thúc vận mệnh mang tính bi kịch này
của sói thực ra chính là sự bắt đầu vận mệnh mang tính bi kịch của con
người. Một số những hiện tượng như phát bệnh điên dại, mọc lơng đầy
người, người biến thành sói, v.v.. mặc dù chỉ là một ý tượng thần bí mang
tính văn học nhưng nội hàm lại là những ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc về mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên.
Chỉ ra sự thối hóa khơng ngừng của sinh mệnh trong q trình văn
minh hóa cao độ chính là chủ đề quan trọng thường thấy trong tiểu thuyết
của Giả Bình Ao những năm 90 của thế kỉ trước. Giả Bình Ao là một nhà
văn “nơng nghiệp” điển hình, nhiều năm sinh sống ở thành thị không chỉ

khiến ông không thể hịa nhập với cuộc sống thành thị, thậm chí ơng cịn có
thái độ bài xích mạnh mẽ đối với văn minh hiện đại. Ông thiên về những thứ
như văn minh thuộc nơi thơn q, lực lượng mang tính hoang dã, sức sống
dồi dào... Trong Phế đô, Trang Chi Điệp chính là điển hình cho cuộc sống
khó khăn bế tắc trong hiện đại, là hình tượng người trí thức thành phố bị tha
hóa sức sống, anh đã thử thơng qua tình dục tiến hành tự mình cứu vãn chính
mình và xác nhận lại thân phận, hồi phục tình cảm mãnh liệt của cuộc sống
và sinh mệnh của mình, nhưng cuối cùng vẫn trầm luân trong suy sụp tinh

5


thần. Đến Hồi niệm sói, những lo nghĩ đó đã tiến thêm một bước đột phá
rõ ràng, tác giả triển khai sắp xếp nhân vật và tình tiết câu chuyện đều quay
quanh chủ đề này, nhưng là sự tuyệt vọng sâu sắc hơn.
Ý thức luân lí sinh thái là ý thức triết học lấy môi trường sinh thái làm
trung tâm. Nó dựa trên cơ sở về tính phản tư phê phán chủ nghĩa nhân loại
trung tâm lấy văn minh công nghiệp và lí tính khoa học kĩ thuật làm hạt
nhân. Đề xuất tôn trọng chỉnh thể sinh thái cùng tồn tại hài hòa giữa con
người và tự nhiên, ý thức luân lý sinh thái là cơ sở lý luận của văn học sinh
thái thế kỉ 20. Quan niệm này cho rằng, vạn vật tự nhiên là một chỉnh thể
sinh mệnh, lợi ích của chỉnh thể là trên hết, giữa các lồi trong hệ thống sinh
thái đều có mối quan hệ chặt chẽ, việc phá vỡ bất kỳ một sự liên kết nào sẽ
dẫn đến sự hỗn loạn và rối loại của chỉnh thể. “Các bộ phận đều có ý nghĩa
của chúng trong chỉnh thể. Mỗi bộ phận đặc định đều dựa vào hồn cảnh của
chỉnh thể đồng thời do nó quyết định” 6. Quan niệm chỉnh thể này không coi
mỗi loại bộ phận trong nội bộ chỉnh thể là trung tâm của chỉnh thể; con
người cũng không phải là ‘trung tâm’, mà chỉ là một bộ phận của chỉnh thể.
Hoài niệm sói lấy Thương Châu làm khơng gian địa lý văn hóa, lấy mối
quan hệ giữa người và sói tạo thành một khuôn khổ ngụ ngôn của tượng

trưng chỉnh thể, biểu hiện tư duy triết học của nhà văn đối với mối quan hệ
giữa người và tự nhiên, từ đó truyền tải một ý thức luân lí sinh thái rõ rệt.
Người và sói có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau, tương khắc tương sinh,
cả hai cùng dựa vào nhau giống như một chỉnh thể sinh mệnh. Mối quan hệ
giữa người và sói phản ánh mối quan hệ giữa tự nhiên và con người. Người
và sói đều là bộ phận cấu thành của hệ thống sinh thái, lợi ích chỉnh thể cao
hơn lợi ích bộ phận. Bất kỳ cái gì tách khỏi hệ thống sinh thái chỉnh thể đều
khó duy trì được sức sống cơ bản và sự phát triển lâu dài. Nhưng người ở
Thương Châu từ lâu đã xem “con người” là trung tâm và coi sói là kẻ đối
lập, liên tục tiến hành truy sát chúng. Đoạn kết của tiểu thuyết, mười lăm
con sói đều đã bị giết, Phó Sơn biến thành người sói, tất cả những người ở
Hùng Nhĩ Xuyên điên cuồng giết sói đều biến thành người sói. Đây chính là
hình tượng mang chiều sâu triết lý về sự báo ứng của hệ thống sinh thái đối
6

Carolyn Merchant: <Cái chết tự nhiên>, Ngô Quốc Thành dịch, Nhà xuất bản nhân dân Cát Lâm xuất bản,
năm 1999, trang 325.

6


với con người. Trong thế giới cùng cấu thành chủ khách thể này, con người
là chủ thể, sói là khách thể nhưng hiện tại sói đã khơng cịn tồn tại, cũng có
nghĩa là con người mất đi khách thể và đối tượng, tính chủ thể tự nhiên của
con người cũng khơng tồn tại. Hiện tượng thần bí người sói xuất hiện không
phải là sự hư cấu “thiên mã hành không” của nhà văn, mà có căn cứ triết lý
sâu sắc. Từ đây, chúng ta có thể hiểu rõ hơn một quy luật phổ biến của tự
nhiên: con người không phải là chúa tể của tự nhiên và vạn vật, mà chỉ là
một phần nhỏ trong chuỗi móc xích tự nhiên, càng khơng thể dùng phương
thức hủy diệt phía đối kháng để đảm bảo sự an toàn tuyệt đối của bản thân,

mà thay vào đó họ nên cùng tồn tại bình đẳng hài hịa với tự nhiên. Phó Sơn
đã cố gắng chinh phục và vượt lên trên những con sói, nhìn bề ngồi anh ta
đã thành cơng, nhưng anh ta hồn tồn chưa trở thành kẻ chiến thắng cuối
cùng, bởi vì anh ta chưa nhận ra mối quan hệ giữa bản thân mình và sói cũng
như vị trí của con người trong tự nhiên.
Dưới con mắt Giả Bình Ao, sói là đối tượng của con người và có địa vị
ngang bằng với con người. Sói và người giống nhau, cùng có sinh mệnh, có
sức mạnh và cảm xúc mãnh liệt. Chúng có quyền được tồn tại, đồng thời có
quyền lựa chọn khơng gian sống và cách thức sinh tồn. Sói tồn tại là bởi
chúng là mặt đối lập của con người, cũng chính là trong cuộc đấu tranh với
người, sẽ biểu hiện ra sức sống hoang dã của chúng. Thợ săn khơng có sói
thì sinh bệnh, thậm chí bị chết, sói khơng có thợ săn cũng trở nên yếu ớt
khơng có khả năng thậm chí khơng có hứng thú tồn tại. Như lời người đạo sĩ
già nói: “Bây giờ các anh khơng săn sói, khơng bắn sói nữa, song bản thân
nó lại suy sụp hay sao ấy”. Dường như sói chỉ có thể bảo vệ được sức mạnh
của mình khi đấu tranh với con người, khi đó chúng mới thể hiện được giá
trị của bản thân. Khi sói cảm thấy sinh mệnh khơng cịn ý nghĩa, cho dù con
người khơng giết chúng, chúng cũng sẽ tự sát. Trên hành trình chuyến đi của
thợ săn để bảo vệ những con sói cịn sót lại, sói lại ln chủ động khiêu
khích thợ săn, các địa điểm thợ săn đi qua đều có sự ẩn hiện của sói. Hành
động này của sói có thể hiểu là ánh sáng phản chiếu sức sống của chúng,
cũng có thể hiểu là hành động tự sát tập thể của sói. Trong q trình tranh
giành khơng gian sinh tồn với con người, chúng đã bị tổn thất nặng nề,
chúng phải trả giá bằng sinh mệnh đồng loại, cũng là để dành cho con người

7


sự báo thù nặng nề nhất. Con người tự tay tạo ra tai họa, sau cùng tai hoạ lại
rơi lên đầu của chính mình, con người trở thành tay sát thủ hủy diệt chính

mình. Khi thực sự ý thức được kết cục thảm hại này, con người bắt đầu hoài
niệm đến những con sói đã từng là kẻ thù mấy đời với mình.
Ý thức ln lí sinh thái của Hồi niệm sói cịn biểu hiện trong quan
niệm “bình đẳng chúng sinh”. Luân lí sinh thái cho rằng hệ thống sinh mệnh
là bình đẳng, địi hỏi con người thừa nhận và tôn trọng quyền sinh tồn và
phát triển của vạn vật trong tự nhiên. “Nguyên tắc bình đẳng của sinh thái
học bề sâu có tính cao xa của “bình đẳng chúng sinh”, tất cả sinh mệnh và
tồn tại đều có giá trị nội tại không thể tước đoạt, không thể thay thế. Con
người khơng cao hơn bất kì chủng vật nào, mà chỉ là một bộ phận bình đẳng
trong hệ thống sinh thái. Nó kiên quyết chống lại lập trường chủ nghĩa nhân
loại trung tâm chỉ xuất phát từ lợi ích của nhân loại bóc lột tự nhiên” 7. Ý
thức luân lí sinh thái tuy hình thành hệ thống giá trị trong triết học phương
Tây hiện đại, nhưng ý thức ấy vốn đã trở thành chủ đề chính trong triết học
cổ phương Đông, với nhiều biểu hiện phong phú, như các thuyết “thiên nhân
hợp nhất” của Nho gia, “vật cách bình đẳng” của Đạo gia, “sinh mệnh luân
hồi” của Phật giáo cùng với “vạn vật hữu linh” của tín ngưỡng nguyên thủy
Trung Hoa... Những quan niệm “vạn vật hữu linh” trong tín ngưỡng nguyên
thủy và “thiên nhân hợp nhất” trong triết học cổ đại Trung Quốc đã ảnh
hưởng rất nhiều đến triết học thẩm mỹ của Giả Bình Ao. Đặc biệt, hứng thú
với thuyết “vạn vật hữu linh”, ơng có sở thích đặc biệt với văn hóa thần bí
dân gian. Ơng đã bộc lộ trong tác phẩm: “Linh hồn tùy theo vạn vật mà ban
hình để ra đời. Con người tuy là tinh hoa của vạn vật, nhưng xét từ ý nghĩa
của sự sống thì bất kỳ động vật, thực vật và con người nào cũng chung sống
bình đẳng”. Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, “Tự nhiên cũng là yếu tố
quan trọng của sinh thái tinh thần. Tự nhiên là cái gốc của sự sống... Những
ai chỉ nhìn tự nhiên như khách thể nhận thức, mà không sống với tự nhiên sẽ
khơng bao giờ hiểu được cái bí ẩn của tự nhiên cùng những thi vị, mĩ cảm
của tự nhiên... Chủ nghĩa lí tính, chủ nghĩa khoa học là tác nhân khiến cho
thế giới tinh thần mất cân bằng. Người Trung Quốc nhìn thấy trong tư tưởng
7


Đỗ Văn Hiểu: <Văn học sinh thái và lí luận phê bình sinh thái>, sơ dịch từ cuốn “Đương đại tây Phương
tối tân văn luận giáo trình” của Vương Nhạc Xuyên, Nxb Đại học Phúc Đán, Thượng Hải, năm 2008,
/>
8


thiên nhân hợp nhất thời cổ đại một mơ hình sinh thái tinh thần. Người và
thiên nhiên có một quan hệ cảm ứng” 8. Trong Hồi niệm sói, điều này được
biểu hiện qua các hình tượng sự vật huyền bí hay hoang đường siêu thực.
Chẳng hạn, lão Tuyền trong thôn do háu ăn đã ăn phải một quả táo dính oan
hồn của Vương Sinh lại có thể bị hạt táo làm cho tắc trực tràng gần như bỏ
mạng. Chẳng hạn, miếng da sói thần bí mà Phó Sơn thường mang theo
người, hễ gặp phải chuyện lớn là có cảm ứng, thậm chí có thể sát hại Qch
Tài khi anh ăn trộm da sói mang về nhà: “Tối đến, hắn đắp da sói lên người,
nhưng da sói đã cuốn chặt hắn, da sói gặp nóng co lại, càng co càng chặt,
dường như bó hắn sắp ngạt thở, vợ hắn đã lấy dao rạch ra từng mảnh mới
giải thoát được. Nhưng từ đó trên người hắn bị phồng rộp thành những bong
bóng máu, không dậy được, sang ngày thứ ba từ trên giường lị hắn bị
xuống, đầu đâm xuống đất chết ln”. Khơng ít những hình ảnh huyền bí
xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày của người dân Thương Châu: anh
chàng đã từng được Phó Sơn cứu lại biến thành cơ gái để báo ứng anh ta;
nhân vật “tôi” trong khách sạn nhìn thấy một cơ gái nhưng khi đi lại gần thì
phát hiện đó là một gốc cây Đinh hương, v.v... Giả Bình Ao đã biểu đạt quan
niệm luân hồi sinh mệnh và vạn vật bình đẳng của tín ngưỡng Phật giáo qua
tác phẩm: “Nếu có thể như vậy, thì mọi thứ sống trên trái đất này đều bình
đẳng, kiếp này tôi là người, liệu kiếp trước chẳng phải là một con lợn, cịn
kiếp sau thì sao? Có lẽ là một con sói, con cá, một cây cỏ và một con hổ lớn
trán trắng mắt xếch. Tôi càng nghĩ viển vông như vậy, càng tâm thần, tơi biết
tồn bộ con người tôi không giống như một con cháu của Thương Châu, hay

nói một cách khác, quả thật đã phản bội các bậc tổ tiên dịng giống của
mình, đã nảy sinh cảm giác thân thiện đối với sói mà ngay cả bản thân cũng
cảm thấy ngạc nhiên”. Tất cả những hình tượng sự vật huyền bí này như đều
diễn dịch theo quan niệm của tác giả về vạn vật hữu linh và nhân quả báo
ứng.
Trong Hồi niệm sói, khơng chỉ có nghịch lý sinh thái về sự tương sinh
tương khắc giữa người và sói mà cịn có bài ca ca ngợi thiên nhân hợp nhất.
Sói là động vật thơng hiểu tính người, chúng cũng có các cung bậc tình cảm
8

Trần Đình Sử: <Phê bình sinh thái tinh thần trong nghiên cứu văn học hiện nay>, năm 2015,
.

9


vui buồn, giận hờn như con người. Khi gấu mèo lớn chết, chúng cũng biết rủ
nhau đến viếng đồng loại: “Sói ngậm hoa dại đến đặt ở chân tường và leo
bám lên tường là để viếng gấu mèo lớn...”. Khi sói già chết, chúng cịn có
thể giống với người đi tiến hành tang lễ cho đồng loại, nghi thức tang lễ và
sự chân thành tình cảm khơng kém chút nào so với con người: “Ngay sau đó,
một con sói nữa xuất hiện ở cạnh suối, nó cúi đầu, sau khi quay đi quay lại
một vịng, nó ngẩng lên tru một tiếng. lại đến hai con nữa, hai con này gần
như đi sóng hàng, bước đi thất thểu chực ngã. Bốn con sói xúm quanh con
chết cùng khóc”. Con người và tự nhiên là tương thông, tất cả những việc
làm nằm trong khả năng của con người đều phải thuận theo quy luật của tự
nhiên thì mới đạt đến sự hài hòa giữa con người và tự nhiên. Hành động của
đạo sĩ già thể hiện quan niệm về thiên nhân hợp nhất. Ơng thường nhận ni
các loại động vật nhỏ trong ngồi bao gồm cả sói, chờ cho chúng hồi phục
sức sống thì ơng lại thả về với tự nhiên. Trong ngơi đền trên núi vào một

đêm trắng xóa, những người thợ săn và đạo sĩ già đều không thể ngủ được,
ơng như cảm nhận được sói đã đến, lống thống nghe được tiếng cửa bị cào
cấu:
“Ai đấy? Đạo sĩ cất tiếng hỏi.
Rào! Một nắm đất cát ném vào cửa miếu.
Sói phải không?
Rào, rào! Hai nắm đất cát ném vào cửa miếu.
Đạo sĩ già ngồi dậy, xuống giường đi ra mở cửa. Kẹt một tiếng, cửa mở
ra một nửa, một vệt ánh sáng hình tam giác lọt vào. Hai con sói một to một
nhỏ xuất hiện trong ánh sáng hình tam giác. Tơi lập tức nhìn ra chú sói con
chính là con sói bé bỏng mình đã từng bế, nó khỏe mạnh ra nhiều, song hơi
bẽn lẽn, đầu tiên nó ở trước mặt sói to, sau nó nấp vào đằng sau thân sói to,
đi vẫy rối rít”.
Đoạn miêu tả quan hệ gần gũi giữa người và sói, thể hiện sự bình đẳng
hài hòa giữa con người và tự nhiên thật cảm động lịng người. Sói đến tìm
đạo sĩ già để trị bệnh, sau đó nó quỳ hai chân trước kêu hu hu ba tiếng thể
hiện sự cảm ơn, xong thì biến mất. Ở đây khơng có sự đối nghịch căng thẳng
giữa người và sói, tất cả đều rất bình thản, thậm chí cịn có một chút ơn hịa
10


như sự chung sống hòa hợp giữa những người bạn thân thuộc với nhau. Sói
có tính cách của con người, biết cầu xin, cũng biết cảm ơn. Giữa những
người sinh sống lâu dài trong núi và sói dường như khơng cịn bất kể một
ngăn cách nào, người cũng có thể hiểu được tiếng của sói và ngược lại. Khi
đạo sĩ già lương thiện chết, con sói đã từng tìm đến đạo sĩ già khám bệnh
thầm mang kim hương ngọc đến để cảm ơn và tưởng niệm ơng, tình cảm
chân thành của con người trên thế gian chẳng phải cũng như vậy đó sao. Ở
đây, sói đã dùng thân phận của sói để giao lưu với con người, thể hiện sự hài
hịa của tự nhiên. Trong tiểu thuyết cịn có một số chi tiết: sói sau khi biến

thành người đã qua lại và đấu tranh với người, sói lại có thể giả dạng người
để đi lại khắp nơi, sự tương ngộ của nhà báo Tử Minh với một số con sói ở
bên bờ sơng hồng hơn, v.v... Đặc biệt chi tiết cuối truyện, con sói già thành
tinh trăm tuổi vì trốn tránh sự săn bắt của đối thủ già Phó Sơn, đã biến thành
ông lão trốn vào trong thôn, sau lại biến thành lợn, khoác chiếc áo mưa, ngồi
sau xe máy của Ngũ Phong, khi đang cố gắng thoát khỏi sự vây bắt, thân
phận bị bại lộ đã đánh nhau một trận quyết tử với Phó Sơn và cuối cùng chết
dưới dao và gậy của dân trong thôn. Những sự việc này tuy nghe có chút
hoang đường, nhưng lại rất hợp tình hợp lí và chân thực, bởi trong suy nghĩ
của Giả Bình Ao, sói là động vật thơng minh tài trí; hay như lời của đạo sĩ
già: “Sói thơng tính người mà!”. Xét trên quan điểm của chủ nghĩa sinh thái,
mối quan hệ giữa sói và người là bình đẳng, con người khơng nên tự cho
mình hơn hẳn sói, con người và vạn vật vạn sự trong tự nhiên mặc dù tương
sinh tương khắc nhưng đều nên chung sống bình đẳng, hài hòa.
Đương nhiên, cảm quan sinh thái này chỉ là ý tưởng văn hóa của Giả
Bình Ao, bởi thực tế tàn khốc khiến ông thất vọng và bi quan nhiều hơn.
Trong tiểu thuyết của ông, con người luôn ở trong một hồn cảnh nghịch lý.
Từ tiểu thuyết Phế đơ trở đi, âm hưởng bi quan luôn in dấu đậm trên các
trang sách. Nếu như âm hưởng ấy trong Phế đô dấy lên từ hiện thực xã hội
trong thời kỳ chuyển hình, thì trong Hồi niệm sói lại gắn với cái nhìn suy
xét sâu sắc đối với thế giới, đối với nhân loại và đối với tự nhiên.
Tình tiết cốt truyện Hồi niệm sói qua lời kể của nhân vật ‘tơi’ rất đơn
giản nhưng đã để lại trong lịng người đọc những suy tư triết lý sâu sắc. Tự
kể về những gì đã thấy, đã chứng kiến, đã suy ngẫm qua cuộc tổng điều tra
11


mười lăm con sói, “tơi” như đã dẫn dắt người đọc vào thiên ngụ ngôn hiện
đại về sự sinh tồn của thế giới, con người. Những gì được vẽ lên trong tác
phẩm không chỉ là các bức tranh cuộc sống, mà quan trọng hơn là sự suy

nghĩ và lo âu về sự tồn tại của con người do trạng thái hiện thực sinh tồn của
chính con người gây ra. Đây chính là lý do khiến độc giả của Hồi niệm sói
cảm thấy khơng dễ dàng, nếu khơng nói là ngỡ ngàng, lúng túng khi đọc tác
phẩm.
Trên phương diện sáng tạo nghệ thuật, tiếp tục phát huy những thủ
pháp xây dựng thế giới ý tượng theo quan niệm “thiên nhân hợp nhất”, “vạn
vật hữu linh”… mà Giả Bình Ao theo đuổi từ giữa những năm 80 của thế kỉ
trước, Hoài niệm sói thể hiện khơng ít những đột phá. Chẳng hạn, tác giả đã
lấy thực nói ảo, biến ảo thành thực, biến khơng thành có, thực ảo tương sinh,
trong biến lại khơng có biến, trong khơng có biến lại có biến... Xử lý mối
quan hệ giữa miêu tả chi tiết với thể hiện ý tưởng tổng thể, Hồi niệm sói
đánh dấu bước phát triển mới trong phong cách sáng tác của Giả Bình Ao, là
tác phẩm tiên phong hướng tới những độc đáo nghệ thuật mới của ông. Như
ông đã tâm sự trong lời đề bạt cuốn sách: “Trong Hoài niệm sói, tơi lại thử
nghiệm một lần nữa, ý tưởng cục bộ đã không được tôi coi trọng, mà trực
tiếp xử lý tình tiết thành ý tưởng. Thử nghiệm này liệu có đem lại kết quả
như dự kiến hay khơng, tạm thời tơi chưa biết, song nỗi vui sướng cảm thấy
có niềm an ủi nảy sinh trong sáng tác thì có thật” 9.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Carolyn Merchant: <Cái chết tự nhiên>, Ngô Quốc Thành dịch, Nhà xuất bản nhân
dân Cát Lâm xuất bản, năm 1999, trang 325.
2. Đỗ Văn Hiểu: <Văn học sinh thái và lí luận phê bình sinh thái>, sơ dịch từ cuốn
“Đương đại tây Phương tối tân văn luận giáo trình” của Vương Nhạc Xuyên, Nxb Đại
học
Phúc
Đán,
Thượng
Hải,
năm
2008,

/>3. Giả Bình Ao: <Bạch Dạ>, Nhà Xuất Bản Hoa Hạ, năm 1995.
9

Giả Bình Ao: <Hồi niệm sói>, Vũ Cơng Hoan dịch, Nhà xuất bản Văn học, năm 2003, trang 350.

12


4. Giả Bình Ao: <Cao Lão Trang>, Nhà xuất bản Văn nghệ Thái Bạch, năm 1998.
5. Giả Bình Ao: <Hồi niệm sói>, Vũ Cơng Hoan dịch, Nhà xuất bản Văn học, năm
2003, trang 35, 56, 180, 242-243, 257-258, 262, 259, 348, 350.
6. Giả Bình Ao: <Nơn nóng>, Vũ Cơng Hoan dịch, Nhà xuất bản Văn học, năm 1998.
7. Giả Bình Ao: <Phế đô>, Vũ Công Hoan dịch, Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 1999.
8. Giả Bình Ao: <Tản văn đại hệ >, Tập 2, Quế Lâm: Nhà xuất bản Nhà xuất bản Ly
Giang, năm 1993, trang 112.
9. Giả Bình Ao: <Thổ môn>, Nhà xuất bản Xuân Phong, năm 1996.
10. Liêu Tăng Hồ: <Phỏng vấn Giả Bình Ao- Về “Hồi niệm sói”>, < Bình luận nhà văn
đương đại>, năm 2000, số 4.
11. Lơi Đạt: <Tư liệu nghiên cứu Giả Bình Ao>, Nhà xuất bản Văn nghệ Sơn Đông, năm
2006, trang 7.
12. Trần Đình Sử: <Phê bình sinh thái tinh thần trong nghiên cứu văn học hiện nay>, năm
2015, .
13. Trương Anh: <Hồi niệm sói: Về ngụ ngơn hiện thực sinh tồn>, Báo Văn hóa Trung
Quốc, ngày 18-7-2000.

13




×