Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Bình luận điểm mới của BLLĐ 2019 về giao kết hợp đồng lao động? Bài tập tình huống?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.86 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT KINH TẾ
BỘ MÔN LUẬT LAO ĐỘNG
.………***………..

BÀI TẬP HỌC KỲ
MÔN: LUẬT LAO ĐỘNG
ĐỀ SỐ : 01

HỌ VÀ TÊN :
MSSV : K18DCQ
LỚP

: K18DCQ

NGÀNH

0

:


Hà Nội, 2020

1


ĐỀ BÀI
BÀI LÀM CÓ 2 CÁCH KHÁCH NHAU
Câu 1 (4 điểm): Bình luận điểm mới của Bộ luật lao động năm
2019 về giao kết hợp đồng lao động?


Câu 2 (6 điểm):
T là kỹ sư xây dựng, làm việc tại công ty M (100% vốn
nước ngoài) đóng trên địa quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Trước khi ký hợp đồng lao động, hai bên thỏa thuận thử việc
trong thời gian là 4 tháng, từ ngày 1/6/2019 đến 30/9/2019 mức
lương là 90% tiền lương của công việc làm thử. Hết thời gian
thử việc, hai bên ký HĐLĐ thời hạn 1 năm. Ngày 20/3/2020
trong quá trình làm việc anh T bị tai nạn phải vào viện điều trị 2
tuần. Sau khi ra viện, anh T được xác định suy giảm 35% khả
năng lao động. Ngày 8/4/2020 công ty M ra quyết định chấm
dứt HĐLĐ đối với anh T vì lý do anh không đủ sức khỏe và công
việc đã có người khác thực hiện. Tuy nhiên, nhận thức được việc
chấm dứt HĐLĐ của công ty là trái pháp luật nên ngày
15/4/2020 công ty gửi thông báo về việc hủy quyết định chấm
dứt HĐLĐ và đề nghị anh T quay trở lại làm việc nhưng anh T
không đồng ý. Ngày 5/10/2020, anh T đã khởi kiện vụ việc ra
tòa án yêu cầu công ty phải bồi thường toàn bộ tiền lương cho
anh trong thời gian không được làm việc làm việc (toàn bộ thời
gian còn lại của HĐLĐ).
Hỏi:
1. Nhận xét về hợp đồng thử việc giữa công ty M và anh T?
2. Giải quyết quyền lợi cho anh T khi bị tai nạn lao động?
3. Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết đơn yêu cầu của anh
T?
1


4. Yêu cầu của anh T có được chấp nhận không? Tại sao?
BÀI LÀM
Câu 1:

CÁCH 1:
Bình luận điểm mới của Bộ luật lao động năm 2019 về giao kết
hợp đồng lao động:
Giao kết giữa người sử dụng lao động và người lao động không
nhất thiết phải là “Hợp đồng lao động” mà có thể thỏa thuận ký
hợp đồng theo tên gọi khác, miễn sao trong hợp đồng thể hiện
đầy đủ các nội dung về việc làm có trả lương, sự quản lý, điều
hành, giám sát của một bên.
Nếu như Bộ luật lao động năm 2012 cho phép giao kết Hợp
đồng lao động bằng lời nói áp dụng đối với công việc tạm thời
có thời hạn dưới 03 tháng, thì Bộ luật lao động năm 2019 chỉ
cho phép áp dụng giao kết hợp đồng bằng lời nói đối với hợp
đồng có thời hạn dưới 01 tháng, trừ 1 số trường hợp bắt buộc ký
hợp đồng bằng văn bản tại khoản 2 Điều 18, điểm a khoản 1
Điều 145, khoản 1 Điều 162 Bộ luật lao động năm 2019.
Bộ luật lao động năm 2019 cũng bổ sung thêm hành vi người sử
dụng lao động không được làm khi giao kết, thực hiện hợp đồng
lao động, đó là quy định buộc người lao động thực hiện hợp
đồng lao động để trả nợ cho người sử dụng lao động.
Đồng thời, Bộ luật lao động năm 2019 đã bỏ loại hợp đồng theo
mùa vụ. Như vậy, kể từ ngày 01/01/2021, hợp đồng lao động sẽ
được giao kết theo một trong các loại sau đây: hợp đồng lao
động không xác định thời hạn; hợp đồng lao động xác định thời
hạn, trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt

2


của hợp đồng lao động trong thời gian không quá 36 tháng kể
từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực.

Bộ luật lao động năm 2019 cũng chấp nhận hợp đồng lao động
được thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp
dữ liệu. Cụ thể, hợp đồng lao động được giao kết thông qua
phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy
định của pháp luật về giao dịch điện tử có giá trị như hợp đồng
lao động bằng văn bản.
Theo quy định tại Bộ luật lao động năm 2012 thì chỉ có đối
tượng ký hợp đồng lao động mùa vụ là đương nhiên không phải
thử việc. Tuy nhiên, Bộ luật lao động năm 2019 cũng không áp
dụng thử việc đối với hợp đồng lao động dưới 01 tháng.
Về thời gian thử việc, BLLĐ mới bổ sung quy định: Thời gian
thử việc không quá 180 ngày đối với công việc của người quản
lý doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật
Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh
tại doanh nghiệp.
Bộ luật cũng bổ sung thêm 04 trường hợp người lao động được
tạm hoãn hợp đồng lao động gồm: người lao động thực hiện
nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ; người lao động được bổ
nhiệm làm người quản lý doanh nghiệp của công ty TNHH MTV
do Nhà nước nắm 100% vốn điều lệ; người lao động được ủy
quyền để thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu
nhà nước đối với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; người
lao động được ủy quyền để thực hiện quyền, trách nhiệm của
doanh nghiệp đối với phần vốn của doanh nghiệp đầu tư tại
doanh nghiệp khác.

3


Hợp đồng lao động được giao kết thông qua phương tiện điện tử

dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật
về giao dịch điện tử có trị như hợp đồng lao động bằng văn bản.
Quy định này phù hợp với Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và
tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể ký kết hợp đồng lao
động linh hoạt hơn trong bối cảnh cách mạng công nghệ 4.0.
Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp thứ 4, quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, sự bùng nổ của công nghệ thông tin
và dịch chuyển lao động toàn cầu thì hình thức hợp đồng lao
động bằng “văn bản” không chỉ hiểu ở dạng “giấy tờ” mà còn
tồn tại dưới các hình thức thư điện tử email, các giao dịch điện
tử và đi kèm với nó có thể là chữ ký số.
CÁCH 2:
- Ghi nhận hình thức Giao kết hợp đồng lao động
thơng qua giao dịch điện tử có hiệu lực như hợp
đồng bằng văn bản
Tại luật mới quy định về HĐLĐ theo hướng bảo vệ tốt hơn đối
với NLĐ, cụ thể tại Điều 13 có bổ sung:
Khoản 1: HĐLĐ được giao kết thông qua phương tiện điện tử có
giá trị như HĐLĐ bằng văn bản
Khoản 2: “Trước khi nhận NLĐ vào làm việc thì NSDLĐ phải giao
kết hợp đồng lao động với NLĐ”
- Về loại HĐLĐ, BLLĐ đã bỏ loại HĐLĐ theo mùa vụ
hoặc theo một công việc nhất định.
Theo đó các bên lựa chọn một trong hai loại HĐLĐ để giao kết
là HĐLĐ không xác định thời hạn và HĐLĐ xác định thời hạn
không quá 36 tháng.
- Ghi nhận phương thức mới giao kết HĐLĐ
4



Xuất phát từ thực tiễn, với sự phát triển của khoa học công
nghệ thì việc giao kết hợp đồng lao động không đơn thuần chỉ
bằng văn bản, lời nói hay hành vi. Chính vì vậy, Điều 14 Bộ luật
Lao động mới đã ghi nhận thêm hình thức giao kết hợp đồng
lao động thơng qua phương tiện điện tử có giá trị như hợp đồng
lao

động

bằng văn bản.
Ngoài ra, với những trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi
khác nhưng có nội dung thể hiện việc làm có trả cơng, tiền
lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì vẫn
được coi là hợp đồng lao động.
HĐLĐ được giao kết thông qua phương tiện điện tử dưới hình
thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao
dịch điện tử có trị như HĐLĐ bằng văn bản. Quy định này phù
hợp với Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và tạo điều kiện thuận
lợi cho các chủ thể ký kết HĐLĐ linh hoạt hơn trong bối cảnh
cách mạng công nghệ 4.0. Dưới tác động của cuộc cách mạng
công nghiệp thứ 4, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự bùng
nổ của công nghệ thông tin và dịch chuyển lao động toàn cầu
thì hình thức HĐLĐ bằng “văn bản” không chỉ hiểu ở dạng “giấy
tờ” mà còn tồn tại dưới các hình thức thư điện tử email, các
giao dịch điện tử và đi kèm với nó có thể là chữ ký số.
- Được ký hợp đồng xác định thời hạn nhiều lần với
người cao tuổi
Thông thường, người cao tuổi thường là những người có nhiều
năm làm việc với nhiều kinh nghiệm, đặc biệt là những công
việc yêu cầu trình độ cao. Do đó, để phát huy giá trị của người

cao tuổi, Điều 149 Bộ luật Lao động cho phép người sử dụng lao
5


động thỏa thuận giao kết nhiều lần hợp đồng lao động xác định
thời hạn với người cao tuổi thay vì kéo dài thời hạn hợp đồng
lao động hoặc giao kết hợp đồng lao động mới như trước đây.
……………………..
Câu 2: Giải quyết tình huống
CÁCH 1:
1. Nhận xét về hợp đồng thử việc giữa công ty M và anh
T?
Điều 24 Bộ luật lao động năm 2019 quy định:
“Điều 24. Thử việc
1. Người sử dụng lao động và người lao động có thể thỏa thuận
nội dung thử việc ghi trong hợp đồng lao động hoặc thỏa thuận
về thử việc bằng việc giao kết hợp đồng thử việc.
2. Nội dung chủ yếu của hợp đồng thử việc gồm thời gian thử
việc và nội dung quy định tại các điểm a, b, c, đ, g và h khoản 1
Điều 21 của Bộ luật này.
3. Không áp dụng thử việc đối với người lao động giao kết hợp
đồng lao động có thời hạn dưới 01 tháng.”
Điều 25 Bộ luật lao động năm 2019 quy định:
“Điều 25. Thời gian thử việc
Thời gian thử việc do hai bên thỏa thuận căn cứ vào tính chất
và mức độ phức tạp của công việc nhưng chỉ được thử việc một
lần đối với một công việc và bảo đảm điều kiện sau đây:
1. Không quá 180 ngày đối với công việc của người quản lý
doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Quản
lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại

doanh nghiệp;

6


2. Khơng q 60 ngày đối với cơng việc có chức danh nghề
nghiệp cần trình độ chun mơn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên;
3. Không quá 30 ngày đối với cơng việc có chức danh nghề
nghiệp cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật trung cấp, công nhân
kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ;
4. Không quá 06 ngày làm việc đối với công việc khác.”
Như vậy, hợp đồng thử việc giữa T và công ty M là trái với quy
định của Bộ luật lao động năm 2019 về thời gian thử việc. Theo
đó ta thấy công việc của T là kỹ sư xây dựng thì thời gian thử
việc tối đa chỉ được phép áp dụng là không quá 60 ngày theo
quy định tại Khoản 2 Điều 25 Bộ luật lao động năm 2019. Trong
khi đó công ty M và T ký hợp đồng thử việc có thời hạn 4 tháng
là vượt quá thời hạn quy định. Từ những phân tích trên thấy
được rằng hợp đồng thử việc giữa T và công ty M là trái với quy
định của pháp luật về thời gian thử việc (Khoản 2 Điều 25 Bộ
luật lao động năm 2019).
2. Giải quyết quyền lợi cho anh T khi bị tai nạn lao
động?
Điều 38 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 quy định:
“Điều 38. Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối
với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp
Người sử dụng lao động có trách nhiệm đối với người lao động
bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp như sau:
1. Kịp thời sơ cứu, cấp cứu cho người lao động bị tai nạn lao

động và phải tạm ứng chi phí sơ cứu, cấp cứu và điều trị cho
người lao động bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp;

7


2. Thanh tốn chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị
ổn định cho người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp
như sau:
a) Thanh tốn phần chi phí đồng chi trả và những chi phí khơng
nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao
động tham gia bảo hiểm y tế;
b) Trả phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động đối
với những trường hợp kết luận suy giảm khả năng lao động
dưới 5% do người sử dụng lao động giới thiệu người lao động đi
khám giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng
giám định y khoa;
c) Thanh tốn tồn bộ chi phí y tế đối với người lao động khơng
tham gia bảo hiểm y tế;
3. Trả đủ tiền lương cho người lao động bị tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp phải nghỉ việc trong thời gian điều trị, phục
hồi chức năng lao động;
4. Bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động mà khơng
hồn tồn do lỗi của chính người này gây ra và cho người lao
động bị bệnh nghề nghiệp với mức như sau:
a) Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương nếu bị suy giảm từ 5% đến
10% khả năng lao động; sau đó cứ tăng 1% được cộng thêm
0,4 tháng tiền lương nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11%
đến 80%;
b) Ít nhất 30 tháng tiền lương cho người lao động bị suy giảm

khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao
động bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;

8


5. Trợ cấp cho người lao động bị tai nạn lao động mà do lỗi của
chính họ gây ra một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức quy định
tại khoản 4 Điều này với mức suy giảm khả năng lao động
tương ứng;
6. Giới thiệu để người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp được giám định y khoa xác định mức độ suy giảm khả
năng lao động, được điều trị, điều dưỡng, phục hồi chức năng
lao động theo quy định pháp luật;
7. Thực hiện bồi thường, trợ cấp đối với người bị tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày có
kết luận của Hội đồng giám định y khoa về mức suy giảm khả
năng lao động hoặc kể từ ngày Đoàn điều tra tai nạn lao động
công bố biên bản điều tra tai nạn lao động đối với các vụ tai
nạn lao động chết người;
8. Sắp xếp công việc phù hợp với sức khỏe theo kết luận của
Hội đồng giám định y khoa đối với người lao động bị tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp sau khi điều trị, phục hồi chức năng
nếu còn tiếp tục làm việc;
9. Lập hồ sơ hưởng chế độ về tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp từ Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
theo quy định tại Mục 3 Chương này;
10. Tiền lương để làm cơ sở thực hiện các chế độ bồi thường,
trợ cấp, tiền lương trả cho người lao động nghỉ việc do bị tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được quy định tại các khoản 3,

4 và 5 Điều này là tiền lương bao gồm mức lương, phụ cấp
lương và các khoản bổ sung khác thực hiện theo quy định của
pháp luật về lao động.
9


11. Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định chi
tiết các khoản 3, 4 và 5 Điều này.”
Trên đây là quyền lợi của anh T khi bị tai nạn lao động.
3. Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết đơn yêu cầu của
anh T?
Hành vi của công ty M đã vi phạm pháp luật lao động và ảnh
hưởng tới quyền lợi lao động của người lao động. Trường hợp
này ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của anh T, anh T có thể
làm đơn khiếu nại lên công ty yêu cầu giải thích rõ lý do và nêu
ra căn cứ pháp lý. Trường hợp công ty không giải quyết anh T có
thể khiếu nại lên Phòng lao động - thương binh và xã hội yêu
cầu giải quyết hoặc có thể kiện ra tòa án nhân dân quận/huyện
nơi công ty đang đóng trụ sở để giải quyết tranh chấp.
Điều 187 Bộ luật lao động năm 2019 quy định:
“Điều 187. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động
cá nhân
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
lao động cá nhân bao gồm:
1. Hòa giải viên lao động;
2. Hội đồng trọng tài lao động;
3. Tòa án nhân dân.”
Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 188 Bộ luật lao động năm
2019:
“Điều 188. Trình tự, thủ tục hòa giải tranh chấp lao động

cá nhân của hòa giải viên lao động
1. Tranh chấp lao động cá nhân phải được giải quyết thơng qua
thủ tục hịa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu
Hội đồng trọng tài lao động hoặc Tòa án giải quyết, trừ các
10


tranh chấp lao động sau đây không bắt buộc phải qua thủ tục
hòa giải:
a) Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về
trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;”
Trong tình huống trên anh T đã kiện ra tòa án. Tại điểm a Khoản
1 Điều 32 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định:
“Điều 32. Những tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án
1. Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người
sử dụng lao động phải thơng qua thủ tục hịa giải của hòa giải
viên lao động mà hòa giải thành nhưng các bên không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng, hịa giải khơng thành hoặc
khơng hịa giải trong thời hạn do pháp luật quy định, trừ các
tranh chấp lao động sau đây khơng bắt buộc phải qua thủ tục
hịa giải:
a) Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc tranh
chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động;”
Điểm c Khoản 1 Điều 35 BLTTDS 2015 quy định thẩm quyền của
Tòa án nhân dân cấp huyện như sau:
“Điều 35. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện
1. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo
thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đâ

c) Tranh chấp về lao động quy định tại Điều 32 của Bộ luật
này.”
Vì đây là tranh chấp lao động cá nhân giữa T và Công ty M về
trường hợp anh T bị công ty M đơn phương chấm dứt hợp đồng

11


nên tòa án có thẩm quyền giải quyết đơn khởi kiện của T là Tòa
án nhân dân cấp huyện.
4. Yêu cầu của anh T có được chấp nhận khơng? Tại sao?
Điều 41 Bộ luật lao động năm 2019 quy định:
“Điều 41. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao
động đã giao kết; phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người
lao động không được làm việc và phải trả thêm cho người lao
động một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp
đồng lao động.
Sau khi được nhận lại làm việc, người lao động hoàn trả cho
người sử dụng lao động các khoản tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp
mất việc làm nếu đã nhận của người sử dụng lao động.
Trường hợp không cịn vị trí, cơng việc đã giao kết trong hợp
đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì hai
bên thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước quy định tại
khoản 2 Điều 36 của Bộ luật này thì phải trả một khoản tiền
tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những
ngày không báo trước.

2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc thì
ngồi khoản tiền phải trả quy định tại khoản 1 Điều này người
sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại
Điều 46 của Bộ luật này để chấm dứt hợp đồng lao động.

12


3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại
người lao động và người lao động đồng ý thì ngồi khoản tiền
người sử dụng lao động phải trả theo quy định tại khoản 1 Điều
này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật
này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm cho người
lao động nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng
lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.”
Theo như quy định trên, yêu cầu công ty phải bồi thường toàn
bộ tiền lương cho anh trong thời gian không được làm việc làm
việc (toàn bộ thời gian còn lại của HĐLĐ) của anh T được chấp
nhận.
Vì công ty gửi thông báo về việc hủy quyết định chấm dứt hợp
đồng lao động và đề nghị anh T quay trở lại làm việc nhưng anh
T không đồng ý. Tại Khoản 2 Điều 41 ở trên đã nói rõ “ngoài
khoản tiền phải trả quy định tại khoản 1 Điều này người sử
dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều
46 của Bộ luật này để chấm dứt hợp đồng lao động.”
CÁCH 2:
1. Hợp đồng lao động thử việc giữa công ty M và anh T:
Theo tình huống: Trước khi ký hợp đồng lao động, hai bên thỏa
thuận thử việc trong thời gian là 4 tháng, từ ngày 1/6/2019 đến
30/9/2019 mức lương là 90% tiền lương của công việc làm thử.

 Hợp đồng thử việc
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 24 Bộ luật lao động 2019 thì
“Người sử dụng lao động và người lao động có thể thỏa thuận
nội dung thử việc ghi trong hợp đồng lao động hoặc thỏa thuận
về thử việc bằng việc giao kết hợp đồng thử việc".
13


Và theo nguyên tắc giao kết hợp đồng phải dựa trên tiêu chí tự
nguyện, tự do giao kết hợp đờng thì giữa anh T và Công ty M
hoàn toàn có thể thỏa thuận và giao kết hợp đồng thử việc
trước khi anh B vào làm việc chính thức.
Tuy nhiên, Điều 25 Bộ luật lao động 2019 lại quy định như sau:
" Điều 25. Thời gian thử việc
Thời gian thử việc do hai bên thỏa thuận căn cứ vào tính chất
và mức độ phức tạp của công việc nhưng chỉ được thử việc một
lần đối với một công việc và bảo đảm điều kiện sau đây:
1. Không quá 180 ngày đối với công việc của người quản lý
doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Quản
lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại
doanh nghiệp;
2. Khơng q 60 ngày đối với cơng việc có chức danh nghề
nghiệp cần trình độ chun mơn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên;
3. Không quá 30 ngày đối với cơng việc có chức danh nghề
nghiệp cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật trung cấp, công nhân
kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ;
4. Không quá 06 ngày làm việc đối với công việc khác."
Như vậy, thời gian thử việc giữa anh T và Công ty M từ ngày
01/06/2019 đến 20/09/2019 với công việc kỹ sư điện của anh B
là trái quy định pháp luật.

 Lương thử việc
Điều 26 Bộ luật lao động năm 2019 quy định: “Tiền lương của
người lao động trong thời gian thử việc do hai bên thỏa thuận
nhưng ít nhất phải bằng 85% mức lương của cơng việc đó.”

14


Như vậy, việc công ty M ký hợp đồng thử việc với anh T cùng
điều khoản: mức lương là 90% tiền lương của công việc làm
thử là đúng với quy định của pháp luật lao động 2019.
2. Quyền lợi của anh T khi bị tai nạn lao động:
Theo tình huống: Ngày 20/3/2020 trong quá trình làm việc anh
T bị tai nạn phải vào viện điều trị 2 tuần. Sau khi ra viện, anh T
được xác định suy giảm 35% khả năng lao động.
Khoản 8 Điều 3 Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015 quy định:
“Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận,
chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao
động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực
hiện công việc, nhiệm vụ lao động”.
Theo như tình huống trên, anh T bị tai nạn trong quá trình làm
việc. Do đó, đây là vụ việc tai nạn lao động theo Luật An toàn,
vệ sinh lao động 2015.
Điều 38 Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015 quy định:
“Điều 38. Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối
với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp
Người sử dụng lao động có trách nhiệm đối với người lao động
bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp như sau:
1. Kịp thời sơ cứu, cấp cứu cho người lao động bị tai nạn lao

động và phải tạm ứng chi phí sơ cứu, cấp cứu và điều trị cho
người lao động bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp;

15


2. Thanh toán chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị
ổn định cho người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp
như sau:
a) Thanh toán phần chi phí đờng chi trả và những chi phí không
nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao
động tham gia bảo hiểm y tế;
b) Trả phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động đối
với những trường hợp kết luận suy giảm khả năng lao động dưới
5% do người sử dụng lao động giới thiệu người lao động đi
khám giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng
giám định y khoa;
c) Thanh toán toàn bộ chi phí y tế đới với người lao động không
tham gia bảo hiểm y tế;
3. Trả đủ tiền lương cho người lao động bị tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp phải nghỉ việc trong thời gian điều trị, phục
hồi chức năng lao động;
4. Bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động mà không
hoàn toàn do lỗi của chính người này gây ra và cho người lao
động bị bệnh nghề nghiệp với mức như sau:
a) Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương nếu bị suy giảm từ 5% đến
10% khả năng lao động; sau đó cứ tăng 1% được cộng thêm 0,4
tháng tiền lương nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11%
đến 80%;
b) Ít nhất 30 tháng tiền lương cho người lao động bị suy giảm

khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao
động bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;

16


5. Trợ cấp cho người lao động bị tai nạn lao động mà do lỗi của
chính họ gây ra một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức quy định
tại khoản 4 Điều này với mức suy giảm khả năng lao động
tương ứng;
6. Giới thiệu để người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp được giám định y khoa xác định mức độ suy giảm khả
năng lao động, được điều trị, điều dưỡng, phục hồi chức năng
lao động theo quy định pháp luật;
7. Thực hiện bồi thường, trợ cấp đối với người bị tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày có
kết luận của Hội đồng giám định y khoa về mức suy giảm khả
năng lao động hoặc kể từ ngày Đoàn điều tra tai nạn lao động
công bố biên bản điều tra tai nạn lao động đối với các vụ tai
nạn lao động chết người;
8. Sắp xếp công việc phù hợp với sức khỏe theo kết luận của
Hội đồng giám định y khoa đối với người lao động bị tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp sau khi điều trị, phục hồi chức năng
nếu còn tiếp tục làm việc;
9. Lập hồ sơ hưởng chế độ về tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp từ Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
theo quy định tại Mục 3 Chương này;
10. Tiền lương để làm cơ sở thực hiện các chế độ bồi thường,
trợ cấp, tiền lương trả cho người lao động nghỉ việc do bị tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được quy định tại các khoản 3,

4 và 5 Điều này là tiền lương bao gồm mức lương, phụ cấp
lương và các khoản bổ sung khác thực hiện theo quy định của
pháp luật về lao động.
17


11. Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định chi
tiết các khoản 3, 4 và 5 Điều này.”
Như vậy, dựa vào điều luật trên, quyền lợi của anh T khi bị tai
nạn lao động là:
Công ty M bồi thường cho Người lao động là anh T bị tai nạn lao
động mà không hoàn toàn do lỗi của chính người này gây ra và
cho người lao động bị bệnh nghề nghiệp với mức như sau:
+ Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương nếu bị suy giảm từ 5%
đến 10% khả năng lao động; sau đó cứ tăng 1% được cộng
thêm 0,4 tháng tiền lương nếu bị suy giảm khả năng lao
động từ 11% đến 80%;
Trợ cấp cho người lao động là anh T bị tai nạn lao động mà do
lỗi của chính họ gây ra một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức
quy định tại khoản 4 Điều này với mức suy giảm khả năng lao
động tương ứng;
3. Toà án có thẩm quyền giải quyết đơn yêu cầu của anh T:
Tranh chấp giữa anh T và Công ty M là tranh chấp về lao động
cá nhân giữa cá nhân người lao động và người sử dụng lao
động.
Căn cứ vào Điều 187 Bộ luật lao động 2019:
“Điều 187. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động
cá nhân
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
lao động cá nhân bao gồm:

1. Hòa giải viên lao động;
2. Hội đồng trọng tài lao động;
18


3. Tịa án nhân dân.”
Theo tình h́ng, ngày 5/10/2020 anh T đã khởi kiện vụ việc ra
tòa án.
Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định:
“Điều 39. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh
thổ được xác định như sau:
a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân
hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp
về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;
b) Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản
yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu
nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu
nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về
dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;
c) Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tịa án nơi có
bất động sản có thẩm quyền giải quyết.”
Như vậy, trong trường hợp này anhT là nguyên đơn, công ty M
là bị đơn. Vì vậy anh T có thể gửi đơn ra Tòa án nhân quận Đống
Đa của thành phố Hà Nội, nơi công ty M đóng trụ sở chính để
yêu cầu tòa án quận Đớng Đa giải qút.
4. Yêu cầu công ty phải bồi thường toàn bộ tiền lương cho anh

trong thời gian không được làm việc của anh T

19


Căn cứ quy định tại Điều 41 Bộ luật lao động năm 2019 quy
định về nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
“1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao
động đã giao kết; phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người
lao động không được làm việc và phải trả thêm cho người lao
động một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp
đồng lao động.
Sau khi được nhận lại làm việc, người lao động hoàn trả cho
người sử dụng lao động các khoản tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp
mất việc làm nếu đã nhận của người sử dụng lao động.
Trường hợp khơng cịn vị trí, cơng việc đã giao kết trong hợp
đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì hai
bên thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước quy định tại
khoản 2 Điều 36 của Bộ luật này thì phải trả một khoản tiền
tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những
ngày không báo trước.
2. Trường hợp người lao động khơng muốn tiếp tục làm việc thì
ngồi khoản tiền phải trả quy định tại khoản 1 Điều này người
sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại
Điều 46 của Bộ luật này để chấm dứt hợp đồng lao động.
3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại
người lao động và người lao động đồng ý thì ngồi khoản tiền

người sử dụng lao động phải trả theo quy định tại khoản 1 Điều
này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật
này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm cho người
20


lao động nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng
lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.”
Theo quy định trên, trường hợp anh T không muốn tiếp tục làm
việc thì ngoài khoản tiền phải trả quy định khoản 1 Điều này
công ty M phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46
của Bộ luật này để chấm dứt hợp đồng lao động.
Anh T yêu cầu công ty phải bồi thường toàn bộ tiền lương cho
anh trong thời gian không được làm việc làm (toàn bộ thời gian
còn lại của HĐLĐ). Ở khoản 1 Điều 41 này quy định: “Phải nhận
người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao
kết; phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không
được làm việc” và “phải trả thêm cho người lao động một
khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao
động.”
Việc yêu cầu của anh T có được chấp nhận hay không phải tuỳ
thuộc vào Hợp đồng lao động mà 2 bên đã ký. Nếu trong hợp
đồng có nội dung sẽ “bồi thường toàn bộ tiền lương cho người
lao động trong thời gian không được làm việc làm (toàn bộ thời
gian còn lại của HĐLĐ)” thì anh T sẽ được quyền lợi như anh
yêu cầu.

21




×