Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

luận văn khoa kinh tế luật Pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH Tuấn Tám Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.36 KB, 57 trang )

TÓM LƯỢC
Chương 1: Khóa luận nghiên cứu một cách chi tiết những lý luận cơ
bản về pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa,
đồng thời, làm rõ được các vấn đề có liên quan. Bao gồm: một số khái niệm
cơ bản liên quan đến giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa; cơ sở ban hành
pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa và nội dung
pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Chương 2: Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Qua đó, rút ra được những bất cập của
pháp luật hiện hành, những khó khăn mà Công ty TNHH Tuấn Tám Vĩnh Phúc
còn tồn tại trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Chương 3: Qua việc nghiên cứu lý luận pháp luật về vấn đề giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH Tuấn
Tám Vĩnh Phúc, đưa ra một số kiến nghị của bản thân nhằm khắc phục
những vấn đề còn tồn tại, hoàn thiện pháp luật, xây dựng khung pháp lý
hoàn chỉnh về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
1
1
LỜI CẢM ƠN
Nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo cũng như giúp sinh
viên nắm bắt được kiến thức thực tế. Trường Đại học Thương mại, khoa Kinh
tế - Luật đã tổ chức cho sinh viên năm cuối đi thực tập tại các bộ phận pháp
chế trong hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước về thương mại (bao gồm các cơ
quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp từ Trung ương đến địa
phương); các tổ chức trọng tài thương mại và các doanh nghiệp tham gia hoạt
động trong lĩnh vực thương mại. Thông qua quá trình đó, sinh viên được củng
cố kiến thức đã học khi ngồi trên ghế nhà trường, đồng thời vận dụng những
kiến thức có được một cách linh hoạt, sáng tạo vào thực tế, tạo hành trang
hữu ích cho sinh viên sau khi tốt nghiệp.
Nhân đây, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Giám đốc Công ty
TNHH Tuấn Tám Vĩnh Phúc - cô Nguyễn Thị Tám cùng tập thể các anh chị


nhân viên trong Công ty đã tạo điều kiện cho tôi thực tập tại đây và có một
thời gian thực tập hiệu quả.
Đặc biệt, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến cô giáo ThS.Trịnh Thị
Sâm đã chỉ dạy, hướng dẫn tôi tận tình trong quá trình thực tập tại Công ty
TNHH Tuấn Tám Vĩnh Phúc và trong quá trình hoàn thành Khóa luận tốt
nghiệp.
Với thời lượng và kiến thức có hạn, chắc chắn Khóa luận không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý
báu của quý thầy cô.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 24 tháng 04 năm 2015
Sinh viên thực tập
Lê Thị Hạnh
2
2
3
3
MỤC LỤC
4
4
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa của từ viết tắt
1 BLDS Bộ luật dân sự
2 LTM Luật thương mại
3 TNHH Trách nhiệm hữu hạn
5
5
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận
Trong hành trình gần bảy mươi năm kể từ khi nước Việt Nam dân chủ

cộng hòa ra đời (ngày 02 tháng 09 năm 1945) thì đã có hơn ba mươi năm trải
qua chiến tranh vệ quốc vô cùng khốc liệt. Ngày nay, cả thế giới biết đến Việt
Nam như một bằng chứng về sự thành công trong chuyển đổi kinh tế từ một
nước có nền kinh tế lạc hậu trở thành một nước có nền kinh tế thị trường với
minh chứng: Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 176 quốc gia, có quan hệ
kinh tế với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, khoảng 80 quốc gia
và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam ngày
càng phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu hơn, đặc biệt kể từ khi
Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO. Việc mở cửa thị trường
(khi gia nhập WTO) đồng nghĩa với Việt Nam được tiếp cận thị trường hàng
hóa của tất cả các nước thành viên, một thị trường hàng hóa vô cùng rộng
lớn, hứa hẹn gặt hái được nhiều thành công. Việc trao đổi mua bán hàng hóa
diễn ra một cách mạnh mẽ và được không chỉ Việt Nam mà hầu hết các nước
thành viên, các quốc gia trên thế giới thực hiện chủ yếu thông qua hình thức
hợp đồng.
Mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, tối thiểu hóa rủi ro của nền kinh tế thị
trường cũng như của các nước, các bên chủ thể trong nền kinh tế chỉ có thể
đạt được khi các giao dịch được giao kết với những điều khoản chặt chẽ, đầy
đủ, chính xác, phù hợp với quy định của pháp luật và lợi ích của các bên. Lúc
này, hơn bao giờ hết hợp đồng được sử dụng một cách phổ biến trong các
hoạt động giao dịch thương mại của các thương nhân. Hợp đồng đóng vai trò
quan trọng trong việc xây dựng hành lang pháp lý đặc biệt cho việc mua, bán,
cung cấp dịch vụ, việc giao thương giữa các thương nhân với nhau được
thuận lợi và bền vững.
Hơn thế nữa, đối với doanh nghiệp, hợp đồng còn là cơ sở pháp lý để
các doanh nghiệp xác định quyền và nghĩa vụ của mình. Trong một chừng
mực nào đó, hợp đồng cho phép các doanh nghiệp tạo ra một luật lệ riêng,
thông qua các điều khoản của thỏa thuận mà các bên đã giao kết để điều
chỉnh mối quan hệ giữa doanh nghiệp với đối tác. Bên cạnh các quyền và
nghĩa vụ cơ bản mà pháp luật quy định về hợp đồng và đặc biệt là hợp đồng

thương mại, các bên sẽ quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ như: thời gian
thực hiện hợp đồng (hợp đồng được thực hiện trong bao lâu), hiệu lực của
6
6
hợp đồng (hợp đồng có hiệu lực và kết thúc hiệu lực khi nào), tiến trình thanh
toán, phương thức thanh toán, trách nhiệm của các bên khi không thực hiện
cam kết của mình, Tính chặt chẽ của hợp đồng quyết định tới sự tồn tại,
phát triển của doanh nghiệp và cao hơn, nó quyết định đến sự phát triển của
một nền kinh tế.
Nắm bắt được nhu cầu tất yếu của nền kinh tế, Việt Nam đã có những
quy định về hợp đồng được thể hiện trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật
như: BLDS, LTM, Luật sở hữu trí tuệ, Luật kinh doanh bảo hiểm, giúp cho
Việt Nam, các doanh nghiệp của Việt Nam, các chủ thể trong nền kinh tế tham
gia vào các quan hệ kinh tế một cách thuận lợi, có trật tự,
Sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung với mục đích bắt kịp với thực tiễn xã hội,
ở cái nhìn tổng quát pháp luật về hợp đồng Việt Nam được xem khá tiến bộ,
quán triệt, thể chế hóa được các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế -
xã hội của Nhà nước, cụ thể hóa các quyền về kinh tế, dân sự của công dân
được ghi nhận trong Hiến pháp và đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế. Các quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng đã thể hiện quan điểm
tăng cường quyền tự do hợp đồng thông qua việc các bên được toàn quyền
quyết định về đối tác tham gia ký kết hợp đồng, hình thức hợp đồng, nội dung
hợp đồng hay trách nhiệm của các bên khi có vi phạm hợp đồng.
Song cũng chính được quy định rải rác trong nhiều văn bản quy phạm
pháp luật khác nhau mà quy định của pháp luật về hợp đồng còn thiếu tính
thống nhất, không đồng bộ, mâu thuẫn và chồng chéo lên nhau.
Quy định của pháp luật về hợp đồng chưa được quy định trong một văn
bản quy phạm pháp luật cụ thể, duy nhất. Các quy định của pháp luật về hợp
đồng hiện nay vẫn còn cứng nhắc và tồn tại nhiều lỗ hổng. Những quy định
bất hợp lý trong pháp luật về hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại đã đóng

khung các hoạt động kinh doanh vốn dĩ hết sức mềm dẻo, linh hoạt, năng
động và nhiều sáng tạo.
Những thiếu sót, bất cập, yếu kém của pháp luật về hợp đồng đã gây ra
không ít những khó khăn cho các chủ thể khi tham gia giao kết, thực hiện hợp
đồng với những lỗi đáng ra không nên có. Những lỗi chung mà các chủ thể
thường mắc khi tham gia ký kết, thực hiện hợp đồng thường xoay quanh vấn
đề về hình thức của hợp đồng, ủy quyền trong việc ký kết hợp đồng hay về
thời hiệu khởi kiện tranh chấp. Điều này đặt ra một yêu cầu cấp thiết cần phải
tiến hành một cuộc cải cách pháp luật hợp đồng cho thực sự phù hợp với bối
7
7
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang trên đà phát triển sâu rộng, đa dạng và
mạnh mẽ hiện nay.
Nhận thấy tầm quan trọng của pháp luật về hợp đồng cũng như tầm
quan trọng của pháp luật về giao kết hợp đồng trong đó đặc biệt là pháp luật
về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa - vấn đề then chốt quyết định sự
thành công hay thất bại của một nền kinh tế. Vấn đề giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa có được pháp luật Việt Nam quy định một cách chặt chẽ, các
doanh nghiệp Việt Nam có nắm bắt đầy đủ và thực hiện đúng hay không, tôi
đã chọn đề tài: “Pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Thực tiễn
áp dụng tại Công ty TNHH Tuấn Tám Vĩnh Phúc” để làm rõ hơn về điều này.
2.Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
Với tầm quan trọng không hề nhỏ đối với khả năng tồn tại, phát triển của
các doanh nghiệp cũng như đối với nền kinh tế, đã có không ít các công trình
khoa học, các bài viết, bài báo, dành mối quan tâm đặc biệt nghiên cứu các
vấn đề về hợp đồng (trong đó có vấn đề hợp đồng mua bán hàng hóa). Các
góc độ khác nhau, các cấp độ khác nhau của các công trình nghiên cứu, các
bài viết, bài báo cho thấy một cái nhìn toàn diện hơn về hợp đồng trên nhiều
khía cạnh. Từ tổng thể cho đến chi tiết, có thể nhắc tới một số công trình, bài
viết, bài báo như:

- Luận văn hợp đồng mua bán hàng hóa từ lý thuyết đến thực tiễn áp
dụng tại Công ty TNHH IPC, tác giả Phạm Thị Lan Phương, bảo vệ thành
công 2012. Luận văn nghiên cứu quá trình phát triển của hợp đồng cũng như
các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán hàng
hóa.
- Khóa luận Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương
mại tại Việt Nam, tác giả Trần Tuấn Anh, bảo vệ thành công năm 2013.
Khóa luận nghiên cứu bản chất pháp lý của hợp đồng, hợp đồng trong lĩnh
vực thương mại và lịch sử hình thành, phát triển của các chế định về hợp
đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam.
- Luận văn Ký kết hợp đồng kinh tế, tác giả Phạm Mai Phương, bảo vệ
thành công năm 2014. Luận văn nghiên cứu những vấn đề cơ bản về chế độ
pháp lý của hợp đồng kinh tế, thực trạng ký kết hợp đồng kinh tế và đưa ra
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ký kết hợp đồng kinh tế.
- Bài viết Pháp luật về hợp đồng kinh tế của tác giả Lê Thị Bích Ngọc,
đăng trên trang voer.edu.vn ngày 10 tháng 07 năm 2014. Bài viết tập trung
8
8
nghiên cứu về các nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị
trường.
- Bài viết Bàn về khái niệm và các điều kiện của đề nghị giao kết hợp
đồng theo Bộ luật dân sự 2005 của Ts.Ngô Huy Cường, giảng viên khoa Luật,
trường Đại học Quốc gia Hà Nội đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp luật số
tháng 1 năm 2010.
Có rất nhiều bài viết, bài báo, công trình khoa học, nghiên cứu các vấn
đề liên quan đến hợp đồng. Tuy nhiên lại chưa có bài viết, bài báo, công trình
khoa học, nào nghiên cứu vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, đặc
biệt nghiên cứu tại một doanh nghiệp cụ thể - Công ty TNHH Tuấn Tám Vĩnh
Phúc. Do đó, tôi đã chọn đề tài: “Pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa. Thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH Tuấn Tám Vĩnh Phúc” để tiếp

tục kế thừa và phát triển, nghiên cứu sâu hơn pháp luật hợp đồng về mảng
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
9
9
3.Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
• Trình bày những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh vấn đề giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
• Nghiên cứu thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa.
• Đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa.
• Đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện khung pháp lý về giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa.
Đề tài nghiên cứu: “Pháp luật về vấn đề giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa. Thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH Tuấn Tám Vĩnh Phúc”.
4.Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm hai đối tượng chính:
- Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về hợp đồng thương
mại, điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
- Thực trạng áp dụng pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa tại Công ty TNHH Tuấn Tám Vĩnh Phúc.
4.2.Mục tiêu:
Khóa luận được xây dựng với mục tiêu làm cho người đọc thấy rõ được
các vấn đề pháp lý về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa được quy định
trong một số văn bản quy phạm pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy phạm
pháp luật đó thông qua nghiên cứu, phân tích thực tiễn áp dụng tại một doanh
nghiệp cụ thể. Trên cơ sở phân tích lý thuyết kết hợp phân tích thực tiễn áp
dụng tại một doanh nghiệp cụ thể tìm ra mặt tích cực, mặt hạn chế, các lỗ
hổng, sai, sót của hệ thống pháp luật quy định các vấn đề liên quan đến giao

kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Từ đó đưa ra một số biện pháp, kiến nghị
nhằm xây dựng một khung pháp lý hoàn chỉnh nhất về giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa, góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ
trong điều kiện hội nhập hiện nay.
Từ mục đích nghiên cứu trên, khóa luận đặt ra các mục tiêu cụ thể:
- Tìm hiểu, phân tích các khái niệm cơ bản liên quan đến giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa.
- Nêu ra thực trạng hoạt động giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa ở
Việt Nam và đánh giá thực trạng pháp luật về vấn đề này.
10
10
Đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp
luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
4.3.Phạm vi:
Với thời lượng có hạn, khóa luận được giới hạn trong phạm vi sau:
Thời gian: Khóa luận sẽ tập trung nghiên cứu pháp luật về giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa kể từ khi BLDS 2005 và LTM 2005 được ban hành và
có hiệu lực cho đến nay.
Không gian: Khóa luận sẽ đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề pháp lý về
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, điển hình tại Công ty TNHH Tuấn Tám
Vĩnh Phúc.
Nguồn tư liệu: Khóa luận không giới hạn về nguồn tư liệu. Nguồn tư liệu có
thể là các văn bản quy phạm pháp luật, các công trình khoa học, các bài báo, bài
viết, sách, tạp chí hay các website, có liên quan đến vấn đề giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa.
5.Phương pháp nghiên cứu
Để có cái nhìn tổng quan về đề tài nghiên cứu, khóa luận sử dụng kết
hợp nhiều phương pháp nghiên cứu với nhau như: phương pháp phân tích,
phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp hay phương pháp điều tra số
liệu. Trong đó:

- Phương pháp điều tra số liệu: Dựa trên nguồn thông tin sơ cấp, thứ
cấp thu thập được từ các nghiên cứu trước đây và từ nguồn thông tin có được
qua thời gian thực tập tại Công ty TNHH Tuấn Tám Vĩnh Phúc để xây dưng cơ
sở luận cứ và làm minh chứng chứng minh các lập luận đưa ra trong bài là có
căn cứ.
- Phương pháp phân tích: Phân chia đề tài nghiên cứu thành các phần lý
luận, thực trạng, đánh giá giúp cho việc phân tích được dễ dàng và có một cái
nhìn khách quan.
- Phương pháp so sánh: So sánh các quy phạm pháp luật liên quan đến
đề tài nghiên cứu. Đồng thời, so sánh kết quả Công ty TNHH Tuấn Tám Vĩnh
Phúc đạt được trong lĩnh vực giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với mục
tiêu ban đầu mà Công ty đã đề ra.
- Phương pháp tổng hợp: Tổng hợp các quan điểm, các công trình
nghiên cứu, các bài viết, bài báo, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan
đến đề tài nghiên cứu để có cái nhìn tổng quan nhất.
Qua việc nghiên cứu sẽ tạo được tính mới và tính cấp thiết cho khóa
luận.
11
11
6.Kết cấu khóa luận
Kết cấu khóa luận bao gồm ba chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh điều chỉnh vấn
đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa.
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện khung pháp lý về giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa gắn với Công ty TNHH Tuấn Tám Vĩnh Phúc.
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ GIAO
KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1.Một số khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề giao kết hợp đồng mua bán

hàng hóa
• Khái niệm hợp đồng:
Theo Điều 388 BLDS 2005, hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các
bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Như vậy, một hợp đồng phải xuất phát từ yếu tố thoả thuận nhưng
không phải mọi thoả thuận đều là hợp đồng. Chỉ những thoả thuận làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên mới tạo nên quan
hệ hợp đồng.
• Khái niệm hàng hóa:
Căn cứ theo khoản 2 Điều 3 LTM 2005 quy định, hàng hóa bao gồm tất cả
các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn
liền với đất đai.
• Khái niệm mua bán hàng hóa:
Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa
vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh
toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở
hữu hàng hoá theo thỏa thuận (căn cứ theo khoản 8 Điều 3 LTM 2005).
• Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa:
Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất chung của hợp đồng, nó là
sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ
trong quan hệ mua bán. LTM không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán
hàng hóa trong thương mại, nhưng có thể dựa vào khái niệm hợp đồng mua
bán tài sản trong luật dân sự để xác định bản chất của hợp đồng mua bán
hàng hóa.
12
12
Theo Điều 428 BLDS 2005, hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận
giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận
tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán.
• Khái niệm giao kết hợp đồng:

Giao kết hợp đồng có thể hiểu là quá trình bày tỏ, thống nhất ý chí giữa
các bên theo hình thức, nội dung, nguyên tắc, trình tự nhất định, được pháp
luật thừa nhận nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự
1
.
• Khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng:
Căn cứ theo Điều 390 BLDS 2005, đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể
hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên
đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể.
• Khái niệm chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng:
Căn cứ theo Điều 396 BLDS 2005, chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận
toàn bộ nội dung của đề nghị.
2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa
2.1. Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa
Với đặc trưng của nền kinh tế thị trường, mua - bán là phương thức chủ
yếu của quá trình lưu thông từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng. Người trao
đổi hàng hóa có quyền tự do lựa chọn trên thị trường ở ba mặt: tự do lựa
chọn nội dung trao đổi, mua bán; tự do lựa chọn đối tác và tự do lựa chọn giá
cả theo phương hướng thuận mua vừa bán. Hoạt động mua bán hàng hóa
được thực hiện thường xuyên, liên tục và rộng khắp trên cơ sở một kết cấu hạ
tầng cần thiết để hoạt động mua bán hàng hóa diễn ra được thuận lợi, an toàn
với một hệ thống thị trường ngày càng phát triển đa dạng, mạnh mẽ: Các đối
tác hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều theo đuổi lợi ích của mình; lợi
ích cá nhân trở thành động lực trực tiếp cho sự phát triển kinh tế và tự do
cạnh tranh là thuộc tính của nền kinh tế thị trường, đồng thời là động lực thúc
đẩy sự tiến bộ kinh tế - xã hôi. Trong nền kinh tế hiện nay, hầu hết những giao
dịch nhằm thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên

1 Nguyễn Hà Linh (2013, tr.13) nêu rõ giao kết hợp đồng có thể hiểu là quá trình bày tỏ, thống nhất ý chí giữa
các bên theo hình thức, nội dung, nguyên tắc, trình tự nhất định, được pháp luật thừa nhận nhằm xác lập quyền
và nghĩa vụ dân sự.
13
13
cứu đều liên quan đến việc thiết lập quan hệ hợp đồng – một thoả thuận
ràng buộc về mặt pháp lý thì có thể khẳng định rằng, những điều kiện ra đời
của nền sản xuất hàng hoá cũng chính là những điều kiện ra đời của hợp
đồng.
Thêm vào đó, ở nước ta, kể từ khi Đảng và Nhà nước thực hiện công
cuộc đổi mới nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với nhiều thành
phần sở hữu phát triển bình đẳng có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình,
các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế đều phải dựa vào các quan hệ
hợp đồng. Để thực hiện chức năng của mình, Nhà nước luôn chú ý đến việc
điều chỉnh vấn đề pháp lý các hoạt động kinh tế của các đơn vị kinh tế, trong
đó việc điều chỉnh các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa là một nội dung
hết sức quan trọng.
Trước sự vận hành của nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường thì
việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là cần thiết và hợp lý. Vì thế, Nhà nước đã
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp
đồng mua bán hàng hóa nói riêng nhằm mục đưa hoạt động mua bán hàng
hóa đi đúng hướng; các chủ thể trong quan hệ mua bán được tự do nhưng
trong khuôn khổ pháp luật, thúc đẩy kinh tế; đồng thời tạo điều kiện để Nhà
nước dễ dạng quản lý hoạt động mua bán hàng hóa của các chủ thể trong
nền kinh tế.
Cơ sở ban hành các pháp luật hợp đồng nói chung và hợp đồng mua
bán hàng hóa nói riêng cũng chính là cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh vấn
đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng mua bán

hàng hóa
2.2.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
 Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo
đức xã hội.
BLDS quy định cho các chủ thể được tự do giao kết hợp đồng nhằm tạo
điều kiện cho các chủ thể có thể thoả mãn nhu cầu vật chất cũng như nhu cầu
tinh thần. Dựa trên nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ các điều
kiện tư cách chủ thể đều có thể tham gia giao kết bất kỳ một giao dịch, hợp
đồng nào, nếu muốn. Tuy nhiên, hợp đồng chỉ có hiệu lực pháp luật, được
pháp luật công nhận và bảo vệ khi ý chí của các bên giao kết hợp đồng phù
14
14
hợp với ý chí của nhà nước. Hay nói cách khác, sự tự do ý chí giao kết hợp
đồng của các chủ thể phải nằm trong khuôn khổ, giới hạn nhất định – giới hạn
lợi ích của các cá nhân khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự công cộng.
Nếu để các bên tự do vô hạn, thì hợp đồng dân sự sẽ trở thành phương tiện
để kể giàu bóc lột người nghèo và sẽ là nguy cơ đối với lợi ích chung của xã
hội. Chính vì vậy, trong xã hội ta – xã hội xã hội chủ nghĩa, lợi ích chung của
toàn xã hội (lợi ích cộng đồng) và đạo đức xã hội không cho phép bất cứ cá
nhân, tổ chức nào được lợi dụng ý chí tự do để biến những hợp đồng thành
phương tiện bóc lột.
Bên cạnh việc bảo đảm lợi ích của mình, các chủ thể phải chú ý tới
quyền, lợi ích của người khác và của toàn xã hội. Tự do của mỗi chủ thể
không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Lợi ích của cộng đồng, của toàn
xã hội được quy định bởi pháp luật và đạo đức xã hội trở thành giới hạn cho
sự tự do ý chí của các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng nói riêng, và
trong mọi hành vi của chủ thể nói chung.
 Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng
Nguyên tắc này được quy định nhằm bảo đảm trong việc giao kết hợp
đồng không ai bị cưỡng ép hoặc bị những cản trở trái với ý chí của mình, đồng

thời thể hiện bản chất của quan hệ pháp luật dân sự nói chung và quan hệ mua
bán hàng hóa nói riêng.
Quy luật giá trị đòi hỏi các bên chủ thể khi tham gia các quan hệ trao đổi
phải bình đẳng với nhau, không ai được viện lý do khác biệt về hoàn cảnh
kinh tế, thành phần xã hội, dân tộc, giới tính hay tôn giáo… để tạo ra sự bất
bình đẳng trong quan hệ dân sự. Hơn nữa, ý chí tự nguyện của các bên chủ
thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa chỉ được bảo đảm khi các bên bình
đẳng với nhau trên mọi phương diện. Chính vì vậy, pháp luật không thừa nhận
những hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết khi thiếu sự bình đẳng và ý
chí tự nguyện của một trong các bên chủ thể. Tuy nhiên trên thực tế, việc
đánh giá một hợp đồng có được giao kết bảo đảm ý chí tự nguyện của các
bên là một công việc hoàn toàn không đơn giản.
Như đã biết, ý chí tự nguyện là sự thống nhất giữa ý chí chủ quan bên
trong và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài của chủ thể. Chính vì vậy, sự thống nhất
ý chí của chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với sự bày tỏ ý chí đó
trong nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa đã giao kết chính là cơ sở quan
trọng để xác định một hợp đồng mua bán hàng hóa đã đảm bảo nguyên tắc tự
nguyện. Nói cách khác, việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa chỉ được
15
15
coi là tự nguyện khi hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa phản ánh một
cách khách quan, trung thực mong muốn, nguyện vọng của các bên chủ thể
tham gia hợp đồng.
Do đó, theo quy định của pháp luật thì tất cả những hợp đồng mua bán
hàng hóa được giao kết do bị nhầm lẫn, lừa dối hay bị đe doạ đều không đáp
ứng được nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, trung thực, ngay thẳng khi
giao kết và do đó bị vô hiệu.
2.2.2 Về chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, do đó điều kiện
bắt buộc phải có để thiết lập nên một hợp đồng mua bán hàng hóa đó là điều

kiện chủ thể.
Căn cứ theo các quy định của LTM 2005, hợp đồng mua bán hàng hóa
có thể được giao kết giữa các bên: Thương nhân với thương nhân hay
thương nhân với cá nhân không phải là thương nhân. Như vậy, một bên chủ
thể trong hợp đồng mua bán hàng hóa bắt buộc phải là thương nhân, bên còn
lại có thể là thương nhân hoặc không là thương nhân.
1.Chủ thể là thương nhân
Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 LTM 2005, thương nhân bao gồm tổ
chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một
cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Trong đó, các tổ chức
kinh tế được thành lập hợp pháp bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, công ty
TNHH một thành viên, công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty hợp danh
và công ty cổ phần. Sau khi đăng ký kinh doanh, các tổ chức kinh tế trở thành
thương nhân và có quyền tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
nhằm đáp ứng nhu cầu lợi ích, nhu cầu kinh doanh. Khi giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa, mỗi bên phải cử ra một đại diện hợp pháp của mình để
tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Có thể chia thương nhân thành hai nhóm là thương nhân có tư cách
pháp nhân và thương nhân không có tư cách pháp nhân. Trong đó:
 Thương nhân có tư cách pháp nhân bao gồm:
Công ty TNHH hai thành viên trở lên: người đại diện theo pháp luật của
công ty TNHH hai thành viên trở lên là Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc
Giám đốc (Tổng giám đốc) theo quy định cụ thể tại Điều lệ công ty.
Công ty TNHH một thành viên: Người đại diện theo pháp luật của công
ty TNHH một thành viên là Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty
hoặc Giám đốc (Tổng giám đốc) theo quy định tại Điều lệ công ty.
16
16
Công ty cổ phần: Người đại diện theo pháp luật là Chủ tịch Hội đồng
quản trị hoặc Giám đốc (Tổng giám đốc) theo quy định tại Điều lệ công ty.

Công ty hợp danh: Người đại diện theo pháp luật của công ty hợp danh
là các thành viên hợp danh theo quy định tại Điều lệ công ty.
 Thương nhân không có tư cách pháp nhân bao gồm:
Doanh nghiệp tư nhân: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
tư nhân là chủ doanh nghiệp tư nhân. Trong trường hợp chủ doanh nghiệp tư
nhân thuê người khác làm giám đốc thì giám đốc là đại diện cho doanh nghiệp
theo hợp đồng trách nhiệm giữa chủ doanh nghiệp với người được thuê làm
giám đốc và theo quy định của pháp luật.
Cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có
đăng ký kinh doanh: Người đại diện theo pháp luật là người đứng tên trong
Giấy đăng ký kinh doanh.
Như vậy, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là người đứng
đầu pháp nhân theo điều lệ của pháp nhân hay quyết định của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền (căn cứ theo khoản 4 Điều 141 BLDS 2005). Căn cứ để
xác định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có thể là Điều lệ
công ty, Giấy chứng nhận đầu tư hoặc Giấy đăng ký kinh doanh. Căn cứ để
xác định đại diện theo pháp luật của cá nhân là Giấy đăng ký kinh doanh.
Thương nhân có thể tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
thông qua người đại diện theo pháp luật, đồng thời cũng có thể tham gia giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa thông qua người đại diện theo ủy quyền.
Căn cứ theo các quy định của BLDS 2005, nếu người đại diện theo
pháp luật không tham gia giao kết hợp đồng được có thể uỷ quyền cho người
khác thay mình giao kết hợp đồng. Người này được xác định hay còn được
gọi là người đại diện theo ủy quyền.
Căn cứ theo Điều 143 BLDS 2005 quy định: “1. Cá nhân, người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân có thể ủy quyền cho người khác xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự. 2.Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám
tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định
giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập.”
Có hai hình thức ủy quyền:

- Ủy quyền thương xuyên: Là loại hình ủy quyền diễn ra trong một thời
gian dài nhằm ký kết nhiều giao dịch, nhiều hợp đồng. Việc ủy quyền thường
17
17
xuyên có thể được ghi nhận trong Điều lệ, quy chế hoặc quy định do thương
nhân ban hành.
- Ủy quyền vụ việc: Là loại hình ủy quyền diễn ra trong một thời gian
ngắn nhằm ký kết một hoặc một số hợp đồng cụ thể.
Người được uỷ quyền chỉ được phép hoạt động trong phạm vi được uỷ
quyền và không được uỷ quyền lại cho người khác.
Ngoài ra, chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có thể là thương
nhân Việt Nam hay có thể là thương nhân nước ngoài.
2.Chủ thể không phải là thương nhân
Căn cứ vào mục đích sinh lợi, trong rất nhiều trường hợp, tổ chức, cá
nhân không phải là thương nhân cũng được coi là chủ thể giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa khi họ giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương
nhân.
Khác với bên là chủ thể là thương nhân, bên chủ thể không phải là
thương nhân có thể là mọi chủ thể có đầy đủ năng lực hành vi dân sự để giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Đó có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức có
tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân hay cũng có thể là hộ
gia đình, tổ hợp tác, không hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên và liên tục.
2.2.3. Trình tự, thủ tục giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Trình tự giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là quá trình mà trong đó
các bên chủ thể bảy tỏ ý chí với nhau bằng cách trao đổi ý kiến để đi đến thoả
thuận trong việc cùng nhau làm xác lập những quyền và nghĩa vụ đối với
nhau. Thực chất, đó là quá trình mà hai bên “mặc cả” với nhau về những điều
khoản trong nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa. Quá trình này diễn ra
thông qua hai giai đoạn:

Thứ nhất: Bên đề nghị đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa.
Thứ hai: Bên được đề nghị chấp nhận lời đề nghị giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa và đi đến giao kết hợp đồng.
2.2.4. Đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Như đã biết, đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là việc thể
hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên
đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể trong quan hệ mua bán hàng
hóa.
18
18
Thực chất, đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là việc một
bên biểu lộ ý chí của mình trước người khác bằng cách bày tỏ cho phía bên
kia biết ý muốn tham gia giao kết với người đó một hợp đồng mua bán hàng
hóa.
Việc đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được thực
hiện bằng nhiều cách thức khác nhau như:
Thứ nhất: Người đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có thể
gặp trực tiếp người được đề nghị trao đổi, thỏa thuận và trực tiếp đưa ra lời
đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Thứ hai: Người đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có thể gửi
lời đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa tới người được đề nghị
thông qua các phương tiện điện tử như qua mạng internet, fax hay bằng việc
chuyển, gửi công văn, giấy tờ qua đường bưu điện,
 Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực:
Căn cứ theo Điều 391 BLDS 2005, thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng
có hiệu lực được xác định là thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa có hiệu lực do bên đề nghị ấn định. Nếu bên đề nghị không ấn định
thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận
được đề nghị đó.

Các trường hợp được coi là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng
được xác định như sau:
Thứ nhất: Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là
cá nhân; được chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân.
Thứ hai: Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên
được đề nghị.
Thứ ba: Khi bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng
thông qua các phương thức khác.
 Thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
Căn cứ theo Điều 392 BLDS 2005, bên đề nghị giao kết hợp đồng có
thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong các trường hợp sau đây:
Thứ nhất: Nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi
hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị.
Thứ hai: Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường
hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều
kiện đó phát sinh.
19
19
Khi bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị thì đề nghị đó được coi
là đề nghị mới.
 Hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
Căn cứ theo Điều 393 BLDS 2005, trong trường hợp bên đề nghị giao
kết hợp đồng thực hiện quyền huỷ bỏ đề nghị do đã nêu rõ quyền này trong
đề nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị và thông báo này chỉ có hiệu
lực khi bên được đề nghị nhận được thông báo trước khi bên được đề nghị trả
lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
 Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
Căn cứ theo Điều 394 Bộ luật dân sự 2005, đề nghị giao kết hợp đồng
chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
Thứ nhất: Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận.

Thứ hai: Hết thời hạn trả lời chấp nhận.
Thứ ba: Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực.
Thứ tư: Khi thông báo về việc huỷ bỏ đề nghị có hiệu lực.
Thứ năm: Theo thoả thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị
trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời.
 Sửa đổi đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa do bên được đề nghị
đề xuất:
Căn cứ theo Điều 395 BLDS 2005, khi bên được đề nghị đã chấp nhận
giao kết hợp đồng, nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị thì coi như
người này đã đưa ra một lời đề nghị giao kết mới.
2.2.5. Chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa thực chất là việc bên
được đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa nhận lời đề nghị và đồng
ý tiến hành giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với bên đã đưa ra lời đề
nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa đó.
 Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
Căn cứ theo Điều 397 BLDS 2005, khi bên đề nghị có ấn định thời hạn
trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời
hạn đó, nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời
hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời.
Trong trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì
lý do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này
thì thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp
20
20
bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề
nghị.
Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua
điện thoại hoặc qua các phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời
ngay có chấp nhận hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp có thoả thuận về

thời hạn trả lời.
 Rút lại thông báo trả lời chấp nhận:
Căn cứ theo Điều 400 BLDS 2005, bên được đề nghị giao kết hợp đồng
có thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng, nếu thông báo này đến
trước hoặc cùng với thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao
kết hợp đồng.
2.2.5. Địa điểm giao kết hợp đồng
Căn cứ theo Điều 403 Bộ luật dân sự 2005, địa điểm giao kết hợp đồng
dân sự do các bên thoả thuận; nếu không có thoả thuận thì địa điểm giao kết
hợp đồng dân sự là nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở của pháp nhân đã đưa
ra đề nghị giao kết hợp đồng.
2.2.6. Thời gian giao kết hợp đồng
Giao kết hợp đồng là một vấn đề quan trọng trong pháp luật hợp đồng
bởi nó giúp ta xác định được khi nào hợp đồng được xác lập. Là một hợp đồng
cụ thể trong số các hợp đồng cơ bản của hợp đồng thương mại, do đó, hợp
đồng mua bán hàng hóa cũng tuân theo những quy định của BLDS 2005 về
vấn đề thời điểm giao kết hợp đồng.
Căn cứ theo Điều 404 Bộ luật dân sự 2005 quy định: Hợp đồng dân sự
được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao
kết; hợp đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà
bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời
chấp nhận giao kết; thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các
bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng và thời điểm giao kết hợp đồng
bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản.
2.2.6. Hình thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Tự do thỏa thuận là một trong những nguyên tắc quan trọng trong giao
kết hợp đồng. Điều này có nghĩa, các bên được tự do lựa chọn hình thức phù
hợp khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, tự do lựa chọn trong
khuôn khổ pháp luật cho phép.
21

21
Về nguyên tắc, hình thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa phải phù
hợp với hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa. LTM 2005 không quy định
hình thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, song có thể dựa vào quy
định của LTM 2005 về hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa để xác định
hình thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 24 LTM 2005 quy định, hình thức của hợp
đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được
xác lập bằng hành vi cụ thể. Do đó, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có
thể được xác lập dưới ba hình thức: lời nói, văn bản hoặc hành vi.
Đối với giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa được xác lập bằng hình
thức lời nói (hay còn gọi là hình thức miệng), các bên tham gia giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa chỉ cần thỏa thuận miệng với nhau về nội dung cơ
bản của hợp đồng. Giao kết hợp đồng dưới hình thức này rất thuận tiện,
nhanh chóng và thường áp dụng cho những trường hợp mà các bên tham gia
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa đã quen biết và có sự tin tưởng lẫn
nhau hoặc đối với những hợp đồng mua bán hàng hóa ngay sau khi giao kết
sẽ thực hiện và chấm dứt ngay. Hình thức này có giá trị pháp lý không dễ xảy
ra tranh chấp khi thực hiện hợp đồng.
Đối với giao kết hợp đồng được xác lập bằng hình thức văn bản, các
bên khi tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ ghi nhận nội dung
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa bằng một văn bản chứa đựng đầy đủ
các nội dung cơ bản của hợp đồng và có chữ ký xác nhận của các bên. Hình
thức này tạo ra chứng cứ pháp lý chắc chắn hơn so với hình thức miệng.
Thông thường theo hình thức này, hợp đồng được lập thành nhiều bản mỗi
bên giữ một bản làm bằng chứng chứng minh quyền của mỗi bên. Căn cứ vào
văn bản hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên dễ dàng xác định được quyền
và nghĩ vụ. Đặc biệt, các bên còn dễ dàng thực hiện quyền yêu cầu của mình
đối với bên kia. Hình thức này thường được áp dụng trong các quan hệ mua
bán hàng hóa mà việc thực hiện hợp đồng không cùng lúc với việc giao kết,

các giao dịch mua bán hàng hóa quan trọng, có giá trị lớn hay các hợp đồng
mua bán hàng hóa có độ nhạy cảm cao.
Ngoài hai hình thức nói trên, hợp đồng mua bán hàng hóa còn có thể
được giao kết bằng một hình thức khác đó là hình thức hành vi. Theo đó, hợp
đồng mua bán hàng hóa sẽ được giao kết miễn các hành vi đó chứa đựng
những thông tin mà các bên trong quan hệ mua bán hàng hóa đó hiểu và thực
22
22
hiện trên thực tế. Giống với hình thức miệng, hợp đồng mua bán hàng hóa
được giao kết bằng hình thức hành vi có giá trị pháp lý không cao, dễ xảy ra
tranh chấp.
2.2.7. Nội dung giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa chính là nội dung hợp
đồng mua bán hàng hóa. Do đó, các quy định pháp luật về nội dung hợp
đồng mua bán hàng hóa cũng chính là các quy định pháp luật về nội dung
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều khoản do các bên thỏa
thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Do đó, nội
dung của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể hiểu là tổng hợp các điều khoản
do các bên thỏa thuận, các điều khoản đó xác định những quyền và nghĩa vụ
cụ thể của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
Căn cứ theo Điều 402 BLDS 2005 quy định nội dung của hợp đồng:
“Tuỳ theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về những nội dung
sau đây:
1. Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc
không được làm.
2. Số lượng, chất lượng.
3. Giá, phương thức thanh toán.
4. Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng.
5. Quyền, nghĩa vụ của các bên.

6. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
7. Phạt vi phạm hợp đồng.
8. Các nội dung khác.”
Xuất phát từ nguyên tắc tự do hợp đồng, pháp luật không giới hạn các
điều khoản mà các bên thỏa thuận với nhau. Nội dung của hợp đồng mua bán
hàng hóa trước hết là các điều khoản do các bên thỏa thuận. Đồng thời, trên
cơ sở các quy định của BLDS, LTM và tính chất của quan hệ hợp đồng mua
bán hàng hóa, có thể thấy những điều khoản quan trọng của hợp đồng mua
bán hàng hóa bao gồm: đối tượng, số lượng, chất lượng, giá cả, phương thức
thanh toán, thời gian thanh toán, thời hạn giao hàng, địa điểm giao hàng,
Tuy nhiên, với từng hợp đồng mua bán hàng hóa cụ thể lại có sự khác nhau.
Các điều khoản trong nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể
chia ra thành ba loại:
23
23
Loại thứ nhất: Điều khoản cơ bản
Các điều khoản cơ bản xác định nội dung chủ yếu và là những điều
khoản không thể thiếu của hợp đồng mua bán hàng hóa. Nếu không thỏa
thuận được các điều khoản này thì hợp đồng mua bán hàng hóa không thể
giao kết được. Điều khoản cơ bản có thể do tính chất của từng hợp đồng
quyết định hoặc do pháp luật quy định. Tùy theo từng loại hợp đồng mà điều
khoản cơ bản có thể là đối tượng, giá cả, địa điểm Có những điều khoản
đương nhiên là điều khoản cơ bản, vì không thoả thuận tới nó sẽ không thể
hình thành hợp đồng. Bên cạnh đó cũng có những điều khoản vốn dĩ không
phải là điều khoản cơ bản nhưng các bên thấy cần phải thoả thuận được điều
khoản đó mới giao kết hợp đồng thì những điều khoản này cũng là điều khoản
cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ giao kết
Loại thứ hai: Điều khoản thông thường
Điều khoản thông thường là những điều khoản được pháp luật quy định
trước. Nếu khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên không thoả

thuận những điều khoản này thì vẫn coi như hai bên đã mặc nhiên thoả thuận
và được thực hiện như pháp luật đã quy định. Khác với điều khoản cơ bản,
các điều khoản thông thường không làm ảnh hưởng tới quá trình giao kết hợp
đồng. Để giảm bớt những công việc không cần thiết trong giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa, các bên có thể không cần thoả thuận và không cần ghi
vào văn bản hợp đồng những điều khoản mà pháp luật đã quy định nhưng các
bên vẫn phải thực hiện những điều khoản đó. Vì vậy, nếu có tranh chấp về
những nội dung này thì quy định của pháp luật sẽ là căn cứ để xác định quyền
và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng
1
.
Loại thứ ba: Điều khoản tùy nghi
Ngoài những điều khoản phải thoả thuận vì tính chất của hợp đồng và
những điều khoản mà pháp luật đã quy định trước, khi giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa các bên còn có thể thoả thuận để xác định thêm một số điều
khoản khác nhằm làm cho nội dung của hợp đồng mua bán hàng háo được cụ
thể hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong quá trình thực hiện hợp
đồng. Các điều khoản này được gọi là điều khoản tùy nghi
2
.
Điều khoản tùy nghi là những điều khoản mà các bên tham gia giao kết
hợp đồng tự ý lựa chọn và thoả thuận với nhau để xác định quyền và nghĩa vụ
dân sự của các bên. Thông qua điều khoản tùy nghi, bên có nghĩa vụ được
phép lựa chọn một trong những cách thức nhất định để thực hiện hợp đồng,
24
24
sao cho thuận lợi mà vẫn bảo đảm được quyền yêu cầu của bên kia
3
. Dựa
vào tính chất các điều khoản tùy nghi có thể chia ra làm hai loại là điều khoản

tùy nghi ngoài pháp luật và điều khoản tùy nghi khác pháp luật
4
.
Như vậy, tùy từng hợp đồng cụ thể, một điều khoản trong nội dung của
hợp đồng mua bán hàng hóa có thể là điều khoản cơ bản, có thể là điều
khoản thông thường hay cũng có thể là điều khoản tùy nghi.
3. Nguyên tắc về pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa
3.1. Nguyên tắc tự do kinh doanh
Quyền tự do kinh doanh tồn tại như một nhu cầu tất yếu của sự phát
triển kinh tế, xã hội. Quyền tự do kinh doanh là một phần hợp thành đóng vai
trò quan trọng trong hệ
thống các quyền tự do của con người. Giá trị của quyền tự do kinh
doanh được thể hiện ở chỗ, mọi chủ thể trong nền kinh tế đều được tự do
hoạt động kinh doanh của mình theo khuôn khổ của pháp luật.
Dưới góc độ chủ thể, quyền tự do kinh doanh là khả năng hành động có
ý thức của các chủ thể trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, trong
quá trình tồn tại và phát triển. Quyền tự do kinh doanh bao gồm các khả năng
mà cá nhân, pháp nhân có thể xử sự như: Tự do đầu tư vốn để thành lập
doanh nghiệp, tự do lựa chọn mô hình tổ chức kinh doanh, tự do lựa chọn đối
tác để thiết lập quan hệ kinh doanh, tự do cạnh tranh, tự do lựa chọn giải
quyết phương thức tranh chấp trong kinh doanh,
Dưới góc độ là một chế định pháp luật, quyền tự do kinh doanh là một
chế định pháp luật bao gồm hệ thống các quy định pháp luật và những bảo
đảm pháp lý do Nhà nước ban hành nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể thực
hiện quyền tự do kinh doanh.
Như vậy, quyền tự do kinh doanh một mặt bao gồm những quyền mà
các chủ thể kinh doanh được hưởng, mặt khác là trách nhiệm của Nhà nước
khi thực hiện chức năng quản lý của mình. Việc giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa là một trong các hoạt động kinh doanh. Do đó được hưởng các

quyền cũng như chịu trách nhiệm quản lý của Nhà nước theo nguyên tắc tự
do kinh doanh.
3.2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật hay còn gọi là nguyên tắc bính
đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
25
25

×