Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Người thực hành trong đồng phạm từ thực tiễn huyện bình chánh, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 74 trang )

ĐỖ PHÚC LỘC

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

ĐỖ PHÚC LỘC

NGƯỜI THỰC HÀNH TRONG ĐỒNG PHẠM
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ
TỤNG HÌNH SỰ

KHĨA IX.1

Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ PHÚC LỘC

NGƯỜI THỰC HÀNH TRONG ĐỒNG PHẠM TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô của Học viện khoa
học xã hội đã tận tình giảng dạy, cung cấp lượng kiến thức vơ cùng q báu
cho tơi trong q trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn “Người thực hành trong đồng phạm từ
thực tiễn huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh” là cơng trình nghiên
cứu khoa học độc lập của tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thị
Phương Hoa.
Các thông tin, tài liệu nêu trong luận văn đều là trung thực, được trích
dẫn rõ ràng và được liệt kê trong danh mục tài liệu tham khảo. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được cơng bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác.
Tác giả

Đỗ Phúc Lộc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI
THỰC HÀNH TRONG ĐỒNG PHẠM ............................................................ 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của đồng phạm và người thực hành trong
đồng phạm ..................................................................................................... 7

1.2. Quy định của Bộ luật hình sự về người thực hành trong đồng phạm .. 15
1.3 Quy định của luật hình sự một số nước về người thực hành trong
đồng phạm ................................................................................................... 25
Tiểu kết Chương 1 ............................................................................................. 29
Chương 2. ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI THỰC HÀNH
TRONG ĐỒNG PHẠM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BÌNH CHÁNH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ....................................................................... 30
2.1. Thực tiễn xác định người thực hành trong đồng phạm ........................ 30
2.2 Thực tiễn quyết định hình phạt đối với người thực hành trong đồng
phạm ............................................................................................................ 42
2.3 Vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất
lượng áp dụng pháp luật về người thực hành trong đồng phạm ................. 52
Tiểu kết Chương 2 ............................................................................................. 63
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 66


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ đầy đủ

BLHS

Bộ luật hình sự

TNHS

Trách nhiệm hình sự


CTTP

Cấu thành tội phạm

TANDTC

Tịa án nhân dân Tối cao

HĐXX

Hội đồng xét xử


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triền về kinh tế - xã hội của
đất nước, tình hình tội phạm trên toàn quốc diễn biến ngày càng phức tạp, gia
tăng về số lượng. Những vụ án do nhiều người cùng thực hiện, mang tính chất
quốc tế, xuyên quốc gia ngày càng nhiều với quy mơ và tính chất phức tạp
ngày càng cao. So với tội phạm do một người thực hiện, tội phạm có đồng
phạm thực hiện thường mang tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn các vụ án
một người thực hiện.
Trong quá trình giải quyết vụ án quyết định hình phạt chính là kết quả
cuối cùng của hoạt động xét xử, cụ thể hóa trách nhiệm hình sự đối với tội
phạm từng trường hợp cụ thể, gắn liền với hành vi phạm tội cụ thể của người
phạm tội. Trong vụ án đồng phạm, để quyết định hình phạt cần phải căn cứ
vào tính chất của đồng phạm, vai trị, tính chất và mức độ tham gia của người
phạm tội của từng người đồng phạm. Bên cạnh đó, thực tiễn xét xử các vụ án

hình sự đồng phạm cịn vướng mắc, bất cập về việc phân biệt giữa đồng phạm
với vai trò là người thực hành với đồng phạm với vai trò là người giúp sức.
Rất nhiều trường hợp vụ án có đồng phạm, Tịa án đã xác định chưa chính xác
vai trị đồng phạm từ người thực hành trở thành người giúp sức, dẫn đến đánh
giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội khơng chính xác, từ đó quyết
định hình phạt khi xét xử chưa tương xứng với hành vi phạm tội.
Việc xác định chính xác các giai đoạn phạm tội, từng loại người (bao
gồm cả người thực hành) trong đồng phạm có ý nghĩa quan trọng đối với việc
phân hóa vai trị, xác định trách nhiệm hình sự, cá thể hóa hình phạt đối với
mỗi bị can, bị cáo. Hành vi của người thực hành đóng vị trí trung tâm trong
vụ án, hành vi của người thực hành là căn cứ để xác định tội danh, xác định
giai đoạn phạm tội, đánh giá mức độ nghiêm trọng của vụ án đồng phạm.

1


Huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh là một huyện ngoại thành
thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, là huyện có dân số đơng nhất cả nước. Dân số
năm 2019 là 705.000 người, mật độ trung bình là 2.700 người/km2. Huyện
Bình Chánh được biết đến là khu vực có tốc độ đơ thị hóa cao, dân cư đơng
đúc, song song với đó tình hình tội phạm hình sự xảy ra trên địa bàn huyện
Bình Chánh diễn biến ngày càng phức tạp. Thực tiễn áp dụng pháp luật cho
thấy số lượng các vụ án hình sự xảy ra trên địa bàn huyện Bình Chánh ngày
càng gia tăng về số vụ việc và số lượng người tham gia gây ra nhiều nguy
hiểm cho xã hội.
Chính vì vậy học viên lựa chọn nghiên cứu đề tài “Người thực hành
trong đồng phạm từ thực tiễn huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh”,
tìm hiểu những nguyên nhân, phát sinh những tồn tại, vướng mắc qua đó đề
xuất định hướng để đảm bảo việc áp dụng pháp luật quyết định hình phạt đối
với người thực hành trong đồng phạm một cách chính xác, thống nhất, đảm

bảo ngun tắc cơng bằng trong xét xử.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian vừa qua việc nghiên cứu đồng phạm và quyết định hình
phạt trong đồng phạm được nhiều nhà nghiên cứu, luật gia và cán bộ thực tiễn
nghiên cứu được công bố ở một số luận văn, luận án, sách chuyên khảo, tham
khảo, bình luận và giáo trình đại học như:
Dưới góc độ Giáo trình dùng trong các trường đại học, có một số tài liệu
như: GS.TSKH Lê Văn Cảm, chủ biên, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam
(Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội 2001, tái bản năm 2003, 2007.
GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần
chung), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2005. TS Cao Thị Oanh chủ biên,
Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb Giáo dục, Hà Nội,
2010. TS Phạm Văn Beo, Luật Hình sự Việt Nam – phần chung, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2010. GS.TS Nguyễn Ngọc Hịa chủ biên, Giáo trình

2


Luật hình sự Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
tái bản lần thứ 22 năm 2016. Trong một phần, mục của các giáo trình nêu trên
trình bày khái niệm, quy định về đồng phạm và quyết định hình phạt trong
trường hợp đồng phạm.
Dưới góc độ sách chuyên khảo, tham khảo, có một số tài liệu sau: Bình
luận BLHS năm 2015 – phần thứ nhất của ThS. Đinh Văn Quế, Nxb Thông
tin và Truyền thơng, 2017. Đồng phạm trong luật Hình sự Việt Nam, TS Trần
Quang Tiệp, Nxb tư pháp Hà Nội, 2007. Phân hóa trách nhiệm hình sự của
đồng phạm trong Bộ luật hình sự 2015 – Phí Thành Chung – Nhà nước và
pháp luật – số 3 2016 – trang 34-38.
Dưới góc độ đề tài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ luật học:
Đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam, Trần Quang Tiệp, Luận án tiến

sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2000. Trách nhiệm hình sự trong đồng phạm
theo Luật hình sự Việt Nam, Phí Thành Chung, Luận án tiến sĩ, Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2015.Các hình thức đồng phạm theo luật hình sự Việt Nam,
Nguyễn Thị Trang Liên, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2007.Quyết định hình phạt trong đồng phạm, Luận văn Thạc sĩ ngành Luật
Hình sự của Lương Hải Yến, Học viện Khoa học xã hội, 2011. Người giúp
sức trong đồng phạm theo Luật Hình sự Việt Nam, Lê Thị Loan, Luận văn
thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội 2015. Người thực hành trong đồng
phạm theo Luật hình sự Việt Nam, Nguyễn Thị Thu Hịa, Luận văn thạc sĩ
luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011. Các loại người đồng phạm theo
Luật hình sự Việt Nam, Nguyễn Khắc Toàn, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh, 2013.
Trong các cơng trình, bài viết nói trên, các tác giả đã tập trung nghiên
cứu, phân tích các quy định của pháp luật về quyết định hình phạt nói chung
về đồng phạm hoặc đối với từng trường hợp đặc biệt như phạm tội có tổ chức,
phạm tội chưa đạt, phạm tội nhiều lần. Tác giả luận văn sẽ kế thừa nghiên cứu

3


lý luận về đồng phạm, phân loại vai trò của từng loại người đồng phạm, xác
định trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt trong đồng phạm. Tuy nhiên
nghiên cứu về góc độ xác định vai trị của người thực hành và quyết định hình
phạt đối với người thực hành gắn liền với thực tiễn xét xử, các công trình
nghiên cứu chưa đề cập đến vướng mắc, bất cập quy định của BLHS trong
việc xác định vai trò và quyết định hình phạt đối với người thực hành trong vụ
án đồng phạm, đặc biệt là vướng mắc trong quy định của BLHS năm 2015
mới có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018. Chính vì vậy, học viên tiếp
tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của BLHS năm 2015 về xác định
vai trò và quyết định hình phạt đối với người thực hành trong đồng phạm, từ

đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này là
hoàn toàn cần thiết, phục vụ trực tiếp cho quá trình xét xử, giải quyết các vụ
án hình sự của Tịa án.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện
pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ
Luật Hình sự về người thực hành trong đồng phạm. Trên cơ sở nghiên cứu
đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của luật hình sự đối với
người thực hành trong đồng phạm tại địa bàn huyện Bình Chánh, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích như trên, đề tài luận văn tập trung giải quyết
những vấn đề sau:
Thứ nhất, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về chế định đồng phạm liên
quan đến người thực hành và quyết định hình phạt đối với người thực hành
trong đồng phạm.
Thứ hai, Áp dụng pháp luật hình sự về người thực hành trong đồng
phạm.

4


Thứ ba, phân tích thực tiễn áp dụng, dẫn chứng vụ án cụ thể trên địa bàn
huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, qua đó phát hiện những vướng
mắc trong việc áp dụng các quy định này trong hoạt động xét xử các vụ án
hình sự có đồng phạm.
Thứ tư, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định về người thực hành trong đồng phạm và quyết định hình
phạt đối với người thực hành từ thực tiễn huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ
Chí Minh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm về người thực hành
trong đồng phạm, quy định của pháp luật và thực tiễn xét xử về đồng phạm và
quyết định hình phạt đối với người thực hành trong đồng phạm từ thực tiễn
huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các vấn đề lý luận và
pháp luật về đồng phạm và quyết định hình phạt đối với người thực hành
trong đồng phạm theo quy định của pháp luật hình sự Việt nam đặc biệt là
BLHS năm 2015 và thực tiễn xét xử đối với người thực hành trong đồng
phạm của đề tài giới hạn trên địa bàn huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí
Minh trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của đề tài là phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác – Lê nin.
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn, tác giả đã sử dụng tổng
hợp và đồng bộ các phương pháp nghiên cứu phổ biến như: Phương pháp
phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, nghiên cứu bản án điển hình: tác giả lựa
chọn những vụ án đồng phạm có vai trị của người thực hành liên quan đến
phạm vi, nội dung nghiên cứu của đề tài, qua đó phân tích làm rõ vai trị của
người thực hành, căn cứ quyết định hình phạt đối với người thực hành trong

5


thực tiễn áp dụng pháp luật. Qua đó làm cơ sở để đánh giá và đề xuất giải
pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về quyết định hình phạt đói với người
thực hành trong đồng phạm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ở bình diện lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn đưa ra một số luận
cứ góp phần hồn thiện lý luận về chế định đồng phạm, người thực hành trong

đồng phạm trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Cụ thể, làm rõ các vấn đề
chung về người thực hành trong vụ án có đồng phạm theo quy định của luật
hình sự Việt Nam; phân biệt hình thức đồng phạm này với một số hình thức
đồng phạm khác mà hiện nay thường có sự nhầm lẫn trong thực tiễn; làm
sáng tỏ chế định đồng phạm quy định của Bộ luật hình sự 2015; phân tích
thơng qua nghiên cứu thực tiễn xét xử tại địa bàn huyện Bình Chánh, Thành
phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây để so sánh, đưa ra một số vấn đề
kiến nghị hướng dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
2015 về người thực hành trong đồng phạm và một số giải pháp nâng cao hiệu
quả các quy định này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn được kết cấu thành hai chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về người thực hành trong
đồng phạm.
Chương 2: Áp dụng pháp luật về người thực hành trong đồng phạm từ
thực tiễn huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI THỰC
HÀNH TRONG ĐỒNG PHẠM
1.1 Khái niệm và đặc điểm của đồng phạm và người thực hành trong
đồng phạm.
Khái niệm và đặc điểm của đồng phạm.
Tội phạm trên thực tế diễn ra hết sức đa dạng, một tội phạm có thể do
một người thực hiện hoặc do nhiều người thực hiện. Khi tội phạm do nhiều
người thực hiện thì có thể có đồng phạm hoặc là trường hợp những người

thực hiện tội phạm hành động độc lập với nhau. Trong đó trường hợp có đồng
phạm nguy hiểm cho xã hội hơn cả. Chính vì vậy mà cơ sở, phạm vi, các
nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự trong đồng phạm có những yếu tố
khác biệt so với trường hợp phạm tội độc lập do một người thực hiện.
Khái niệm đồng phạm là khái niệm cơ bản, khái niệm xuất phát để từ đó
xác định các quy phạm khác của chế định đồng phạm về những loại người
đồng phạm; các giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm, tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm, các hình thức đồng phạm và
trách nhiệm hình sự trong đồng phạm.
Khái niệm đồng phạm còn là cơ sở pháp lý để phân biệt hành vi đồng
phạm và những hành vi liên quan đến tội phạm nhưng không phải là đồng
phạm, đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực
hình sự nhằm xử lý đúng người, đúng tội, không kết tội oan và không bỏ lọt
tội phạm.
Khoản 1 Điều 17 BLHS 2015 quy định: “Đồng phạm là trường hợp có
hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”
Trước hết, với tư cách là một hình thức của tội phạm, đồng phạm có
những dấu hiệu chung giống như tội phạm đơn lẻ. Tuy nhiên, đồng phạm là

7


hình thức phạm tội đặc biệt nên những dấu hiệu của nó cũng có những đặc
điểm riêng biệt [23, tr.199]
Dấu hiệu khách quan: Số lượng người tham gia thực hiện tội phạm,
hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
và hậu quả.
Thứ nhất, về số lượng người tham gia thực hiện tội phạm: một vụ án
đồng phạm địi hỏi có ít nhất hai người trở lên cùng tham gia thực hiện một
tội phạm. Đây là điều kiện tất yếu vì chỉ khi có ít nhất hai người thì mới gọi là

“cùng phạm tội”. Đồng thời những người này cũng phải thỏa mãn đầy đủ các
điều kiện về yếu tố chủ thể của tội phạm nói chung là đủ tuổi chịu TNHS theo
quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 và không thuộc trường hợp khơng có
năng lực TNHS quy định tại Điều 21 BLHS 2015 (không xét trường hợp chủ
thể đặc biệt). Nếu có hai người trở lên cùng tham gia thực hiện một tội phạm
nhưng chỉ có một người đủ điều kiện về chủ thể thì khơng được xem là đồng
phạm mà chỉ là phạm tội đơn lẻ. Nếu nhiều người cùng tham gia thực hiện tội
phạm nhưng trong đó có một vài người đủ điều kiện chủ thể và các dấu hiệu
khác của đồng phạm còn những người còn lại khơng thỏa mãn dấu hiệu về
chủ thể thì vẫn là vụ án có đồng phạm nhưng người nào khơng thỏa mãn dấu
hiệu chủ thể thì khơng phải là người đồng phạm. Đối với trường hợp tội phạm
có chủ thể đặc biệt thì chỉ cần người thực hành thỏa mãn các dấu hiệu đặc biệt
đó cịn những đồng phạm khác khơng địi hỏi phải có các dấu hiệu đặc biệt.
Thứ hai, hành vi nguy hiểm cho xã hội: Những người đồng phạm cùng
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong mặt khách quan của
CTTP cụ thể. Trong quá trình tham gia thực hiện tội phạm, giữa những người
đồng phạm có sự liên kết với nhau, thống nhất và tác động qua lại lẫn nhau
nhằm đạt được ý định phạm tội chung. Nếu nhiều người thực hiện tội phạm
tại cùng một địa điểm, trong cùng một thời điểm nhưng giữa họ khơng có sự

8


liên kết với nhau, hỗ trợ, bổ sung cho nhau để cùng thực hiện một tội phạm
thì khơng phải là đồng phạm mà chỉ là phạm tội riêng lẻ.
Mỗi người đồng phạm có thể thực hiện các hành vi sau: Hành vi thực
hiện tội phạm (thực hiện hành vi được mơ tả trong cấu thành tội phạm), người
có hành vi này được gọi là người thực hành; hành vi tổ chức thực hiện tội
phạm, người có hành vi này được gọi là người tổ chức; hành vi xúi giục người
khác thực hiện tội phạm, người có hành vi này được gọi là người xúi giục;

hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm, người có hành vi này được
gọi là người giúp sức.
Mỗi người đồng phạm có thể tham gia với một hoặc nhiều loại hành vi
nêu trên. Có thể tất cả cùng trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội hoặc mỗi
người thực hiện một loại hành vi khác nhau. Họ có thể tham gia ngay từ đầu
hoặc ở bất cứ giai đoạn nào khi tội phạm chưa kết thúc.
Thứ ba, hậu quả nguy hiểm cho xã hội: việc cùng thực hiện một tội phạm
dẫn tới hậu quả gây ra bởi đồng phạm là hậu quả chung, là kết quả của quá
trình tham gia thực hiện tội phạm chung tạo nên.
Thứ tư, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chung: bằng việc
tham gia vào tội phạm chung với một trong các hành vi đã nêu trên, mỗi đồng
phạm đều có hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội
là kết quả của sự phối hợp hoạt động giữa những người đồng phạm mang lại.
Do đó hành vi của mỗi người đồng phạm đều có mối quan hệ nhân quả với
hậu quả phạm tội chung.
Khi các đồng phạm đều là người trực tiếp thực hiện một phần hoặc toàn
bộ hành vi khách quan được mô tả trong CTTP (đồng phạm giản đơn) thì
hành vi của mỗi người là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả chung của tội
phạm. Khi có sự phân chia vai trị giữa các đồng phạm thì hành vi của người
thực hành là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã

9


hội, còn hành vi của những người đồng phạm khác sẽ gián tiếp thông qua
hành vi của người thực hành mà gây ra hậu quả đó.
Trong các dấu hiệu khác quan nêu trên, dấu hiệu về số lượng người tham
gia và dấu hiệu cùng thực hiện tội phạm là bắt buộc đối với mọi vụ án đồng
phạm. Hai dấu hiệu còn lại là hậu quả và mối quan hệ nhân quả chỉ bắt buộc
đối với các tội phạm có cấu thành vật chất.

Dấu hiệu chủ quan: mặt bên trong của tội phạm bao gồm lỗi, mục đích
và động cơ phạm tội.
Dấu hiệu lỗi cố ý: cố ý cùng thực hiện tội phạm là dấu hiệu đặc trưng
thuộc mặt chủ quan của đồng phạm, thể hiện sự liên kết thống nhất về mặt ý
chí giữa những người đồng phạm. Lỗi trong đồng phạm phải là lỗi cố ý, nếu
trường hợp hai người trở lên cùng thực hiện tội phạm nhưng với lỗi vơ ý thì
chỉ là trường hợp phạm tội riêng lẻ.
Mỗi người đồng phạm đều biết hành vi của mình có tính nguy hiểm cho
xã hội và đều biết hành vi của người khác cũng nguy hiểm cho xã hội cùng
với mình. Nếu chỉ biết mình có hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà không biết
người khác cũng có hành vi nguy hiểm thì chưa thỏa mãn dấu hiệu lỗi cố ý
trong đồng phạm và do vậy cũng khơng có đồng phạm.
Bên cạnh đó, các đồng phạm cịn phải thấy trước hậu quả nguy hiểm cho
xã hội do hành vi của mình gây ra và hậu quả chung của tội phạm mà họ tham
gia thực hiện.
Nếu mỗi người đồng phạm chỉ biết mình có hành vi nguy hiểm cho xã
hội mà khơng biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với
mình thì chưa thỏa mãn lỗi cố ý trong đồng phạm. Do đó hành vi giúp sức bí
mật hay xúi giục ngụy trang không thỏa mãn dấu hiệu chủ quan của đồng
phạm.
Về ý chí: Đồng phạm là việc người phạm tội có sự bàn bạc, thống nhất
trước khi thực hiện tội phạm hoặc có sự tiếp nhận về nhận ý chí tức là sự ăn ý,

10


hiểu ý giữa những người phạm tội mặc dù không có sự bàn bạc, thống nhất
trước khi thực hiện hành vi phạm tội.
Mỗi người trong đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động chung và
cùng mong muốn hoặc cùng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Những

trường hợp khơng mong muốn có sự liên kết hành vi để cùng gây ra hậu quả
thiệt hại cũng chỉ là trường hợp phạm tội riêng lẻ.
Ngoài hai dấu hiệu nêu trên, đồng phạm cịn địi hỏi dấu hiệu cùng mục
đích phạm tội trong trường hợp đồng phạm những tội có mục đích phạm tội là
dấu hiệu được mơ tả trong cấu thành tội phạm. Nếu khơng có đồng phạm,
trong trường hợp này những người tham gia sẽ chịu TNHS độc lập với nhau.
Dấu hiệu động cơ phạm tội: cũng tương tự như dấu hiệu mục đích phạm
tội, đối với những tội phạm có động cơ phạm tội là dấu hiệu bắt buộc được
quy định trong mặt chủ quan của CTTP thì những người đồng phạm về tội đó
bắt buộc phải có cùng động cơ phạm tội. Nếu khơng cùng động cơ phạm tội
thì cũng khơng phải là đồng phạm.
Khái niệm và đặc điểm của người thực hành trong đồng phạm.
Từ khái niệm khoa học về đồng phạm nêu trên, có thể hiểu “Người đồng
phạm là người cố ý tham gia vào việc thực hiện tội phạm cùng với người
khác.” [15, tr.67].
Theo quy định tại khoản 3 Điều 17 BLHS 2015: “Người đồng phạm bao
gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức”
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Tức là bằng
hành vi của mình, người thực hành thực hiện những hành vi được mô tả trong
cấu thành tội phạm [1, tr.255].
Người thực hành trực tiếp thực hiện tội phạm bao gồm hai trường hợp là:
Trường hợp người thực hành tự mình thực hiện hành vi phạm tội được mô tả
trong CTTP. Trường hợp người thực hành khơng tự mình thực hiện hành vi

11


CTTP mà tác động người khác để người này thực hiện hành vi được mô tả
trong CTTP nhưng họ lại không chịu TNHS cùng với người đã tác động.
Ở dạng thứ nhất, người thực hành là người tự mình thực hiện hành vi

khách quan được mô tả trong CTTP. Đối với trường hợp này, hành vi phạm
tội của người thực hành cũng giống như trường hợp phạm tội đơn lẻ. Nếu mỗi
người thực hành thực hiện một phần hành vi được mơ tả trong CTTP (đồng
thực hành) thì hành vi tổng hợp của họ chứa đủ các dấu hiệu của CTTP. Khi
tự mình thực hiện hành vi phạm tội, người thực hành có thể sử dụng hoặc
khơng sử dụng đến các công cụ, phương tiện phạm tội.
Ở dạng thứ hai, người thực hành là người khơng tự mình trực tiếp thực
hiện hành vi được mô tả trong CTTP mà thông qua một người khác, cụ thể
như là cố ý tác động, sử dụng hoặc lợi dụng người đó như “cơng cụ, phương
tiện phạm tội” để người này thay mình thực hiện hành vi khách quan được
mô tả trong CTTP. Hành vi đó có thể xảy ra các trường hợp sau:
Một là, sử dụng người khơng có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc chưa
đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự để người này trực tiếp thực hiện các hành vi
khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm, gây ra hậu quả nguy hiểm
cho xã hội. Người khơng có năng lực TNHS ở đây là người mắc bệnh tâm
thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình. Người bị sử dụng thực hiện một hành vi phạm tội
không phải chịu TNHS.
Hai là, lợi dụng sai lầm của người khác để gây ra hậu quả của tội phạm
mà người gây ra hậu quả khơng có lỗi hoặc lỗi vơ ý. Trong trường hợp này,
người bị lợi dụng vẫn có thể phải chịu TNHS.
Ba là, sử dụng người khác bằng cách cưỡng bức, uy hiếp về tính mạng,
sức khỏe hoặc tinh thần ở mức độ cao để người đó gây ra hậu quả nguy hiểm
cho xã hội. Trong trường hợp này tùy theo mức độ mà người bị cưỡng bức, uy

12


hiếp có thể bị truy cứu TNHS. Trường hợp người đó bị cưỡng bức tinh thần ở
mức độ tê liệt ý chí hay cưỡng bức thân thể thì họ được miễn TNHS.

Bốn là, sử dụng người dưới quyền mình bằng cách ra mệnh lệnh trái
pháp luật mà người thi hành khơng biết được tính trái pháp luật của mệnh
lệnh, dẫn đến người thi hành mệnh lệnh gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Khi đó người ra mệnh lệnh bị coi là người trực tiếp thực hiện tội phạm, người
thi hành mệnh lệnh khơng phải chịu TNHS.
Xét về hình thức, người bị tác động là người đã trực tiếp thực hiện tội
phạm và gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Nhưng về bản chất, họ đã bị lợi
dụng như một “công cụ, phương tiện phạm tội”. Đồng thời, khi xét đến yếu tố
lỗi thì trong những trường hợp kể trên, người bị tác động khơng có lỗi hoặc có
lỗi vơ ý. Do đó, họ hoặc khơng phạm tội hoặc phạm tội với lỗi vô ý. Tuy
nhiên, họ chắc chắn không phải là đồng phạm với người đã tác động mình vì
khơng thỏa mãn dấu hiệu “cố ý cùng thực hiện tội phạm”.
Bên cạnh đó, có những tội phạm mà tính chất của hành vi khách quan
được mơ tả trong CTTP địi hỏi chủ thể phải tự mình thực hiện hành vi như
Tội hiếp dâm (Điều 144), Tội loạn luân (Điều 184), Tội đào ngũ (Điều 402)
thì hành vi của người thực hành chỉ có thể biểu hiện ở dạng thứ nhất.
Nhìn chung, dù là biểu hiện ở dạng nào thì hành vi của người thực hành
cũng là hành vi thực hiện tội phạm chung của đồng phạm. Bên cạnh đó, cần
phân biệt hai thuật ngữ “người thực hành” và “người thực hiện tội phạm”.
Trong đó “người thực hiện tội phạm” là một khái niệm khoa học thuộc lĩnh
vực Luật hình sự có ngoại diện rộng bao gồm cả ba trường hợp: tội phạm do
một người thực hiện; tội phạm do nhiều người thực hiện nhưng khơng có
đồng phạm và trường hợp đồng phạm. “Người thực hành” là một khái niệm
pháp lý, thể hiện một vai trò – một loại người trong đồng phạm. Có thể hiểu,
người thực hành chỉ là người thực hiện tội phạm trong trường hợp đồng
phạm.

13



Những đồng phạm khác có thể chỉ tham gia ở một số hành vi nhất định
góp phần vào việc thực hiện tội phạm hoặc không tham gia trực tiếp vào việc
thực hiện tội phạm (như người xúi giục…)
Điểm khác biệt là trong khi hành vi thực hành có thể được thực hiện
dưới hình thức hành động hoặc khơng hành động phạm tội thì hành vi xúi
giục nhất thiết phải là hành vi hành động phạm tội. Hành vi đó được thể hiện
dưới các dạng: kích động, khêu gợi, lơi kéo, lừa phỉnh, dụ dỗ. Hành vi xúi
giục để người này dụ dỗ người khác nữa thực hiện tội phạm cần được xác
định là hành vi xúi giục, hành vi xúi giục người khác giúp sức cho việc thực
hiện tội phạm cần xác định là hành vi giúp sức.
Hành vi của người thực hành cũng khác với hành vi của người giúp sức
bởi lẽ hành vi của người giúp sức chỉ tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực hiện
tội phạm chứ không trực tiếp thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, trong thực tế
việc phân biệt hành vi giúp sức và hành vi thực hành nhiều khi cịn gặp nhiều
khó khăn vì nhiều hành vi vừa mang tính chất tạo điều kiện lại vừa mang tính
chất thực hiện tội phạm.
Điểm khác biệt nữa giữa người thực hành với người tổ chức, người xúi
giục, người giúp sức đó là đối với những tội quy định chủ thể đặc biệt là dấu
hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm thì người thực hành phải đáp ứng được
dấu diệu này.Trường hợp đồng phạm có nhiều người thực hành thì tất cả
những người thực hành đó cũng phải đáp ứng được dấu hiệu chủ thể đặc biệt.
Trong khi đó những đồng phạm khác như người tổ chức, người xúi giục,
người giúp sức thì khơng nhất thiết phải có dấu hiệu này.
Mặc dù có những điểm khác nhau như đã nêu trên nhưng giữa người
thực hành và người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức vẫn có mối quan
hệ qua lại, tác động lẫn nhau thể hiện trước hết và chủ yếu ở mặt chủ quan
của người thực hành với những người đồng phạm khác. Người thực hành và

14



những người đồng phạm khác thống nhất về ý chí và có ý định thống nhất về
việc thực hiện tội phạm chung.
Tóm lại, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về đồng phạm và người
thực hành trong đồng phạm giúp chúng ta có nhận thức chung nhất về khái
niệm, đặc điểm của người thực hành trong đồng phạm và các loại người thực
hành trong đồng phạm trên cơ sở đó có những đánh giá sát thực để xây dựng
nên những quy phạm pháp luật hình sự phù hợp với vị trí, vai trị, tính chất
mức độ nguy hiểm của người thực hành trong đồng phạm và trong tội phạm
nói chung.
1.2 Quy định của Bộ luật hình sự về người thực hành trong đồng
phạm
1.2.1 Quy định của Bộ luật hình sự về các dấu hiệu của người thực hành
trong đồng phạm
Theo khái niệm về người thực hành được quy định tại Khoản 3 Điều 17
BLHS năm 2015 thì người thực hành trong đồng phạm trước hết phải thỏa
mãn các dấu hiệu về đồng phạm đã phân tích ở phần trên, bên cạnh đó họ
cũng phải thỏa mãn dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của người thực hành
trong đồng phạm cụ thể như sau:
a) Hoạt động của người thực hành là trung tâm của hoạt động phạm tội:
Người thực hành có thể trực tiếp thực hiện tồn bộ hành vi được mô tả
trong cấu thành tội phạm hoặc thực hiện một trong những hành vi được mô tả
trong cấu thành tội phạm, nhưng nói chung hành vi của những người thực
hành thỏa mãn dấu hiệu khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm.
Trường hợp người thực hành thực hiện tồn bộ hành vi được mơ tả trong
cấu thành tội phạm thì hành vi của họ có nhiều điểm giống như hành vi phạm
tội riêng lẻ nhưng khác biệt với hành vi phạm tội đơn lẻ vì hành vi của người
thực hành trong động phạm có sự tác động, liên hệ qua lại với các hành vi của
những người đồng phạm khác cũng như hậu quả phạm tội chung của đồng


15


phạm được đánh giá dựa trên những hậu quả cụ thể thuộc mặt khách quan của
tội phạm do người thực hành gây ra. Hoạt động của những loại người đồng
phạm khác đều nhắm đến mục đích để người thực hành thực hiện hành vi mô
tả trong CTTP.
Hành vi của người thực hành có vị trí trung tâm trong vụ án đồng phạm
vì nó là biểu hiện bên ngồi của ý định phạm tội chung và là nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến hậu quả của tội phạm. Chúng ta có thể dựa vào hành vi trực
tiếp gây ra tội phạm của họ để xác định các giai đoạn thực hiện tội phạm, xác
định trách nhiệm hình sự của các loại người trong đồng phạm. Một vụ án
đồng phạm có thể có một người thực hành hoặc nhiều người thực hành. Trong
trường hợp có nhiều người thực hành, mỗi người thực hành có thể thực hiện
một phần hoặc tất cả các hành vi khách quan được mô tả trong CTTP. Nếu
mỗi người thực hành chỉ thực hiện một phần hành vi nhưng tổng hợp những
hành vi đó thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của CTTP thì tội phạm được thực
hiện vẫn được coi là hoàn thành. Đây là điểm khác biệt đáng chú ý so với các
trường hợp phạm tội riêng lẻ, bởi nếu cá nhân người phạm tội chỉ thực hiện
một phần các hành vi khách quan thì khơng được coi là tội phạm hoàn thành.
Như vậy, hoạt động của người thực hành là bắt buộc và nhất thiết phải
có trong hoạt động phạm tội, đó chính là hoạt động trung tâm của tội phạm có
đồng phạm.
b) Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người thực hành là người giữ vai trò quan trọng trong bốn loại người
đồng phạm. Bởi hành vi trực tiếp thực hiện của họ có thể là hành vi chính
được mơ tả trong CTTP.
Hiểu như thế nào là “trực tiếp thực hiện tội phạm” Vấn đề này trong lý
luận hình sự và thực tiễn áp dụng, người trực tiếp thực hiện tội phạm được
hiểu ở dạng sau:


16


Là trường hợp người phạm tội tự mình thực hiện hành vi chính được mơ
tả trong cấu thành tội phạm.
Trường hợp người thực hành trực tiếp thực hiện tội phạm thì chính họ sử
dụng hoặc khơng sử dụng phương tiện, công cụ nhất định để thực hiện việc
tác động hoặc không tác động đến những sự vật đối tượng cụ thể gây nên
những thiệt hại thuộc mặt khách quan của tội phạm. Đây là trường hợp trực
tiếp thực hiện tội phạm thơng thường trong thực tế. Tự mình thực hiện có thể
là sử dụng cơng cụ, phương tiện kể cả sử dụng cơ thể người khác và động vật
như là cơng cụ, phương tiện hoặc có thể khơng sử dụng công cụ hoặc phương
tiện. Trong vụ phạm tội cố ý có thể có nhiều người cùng tự thực hiện hành vi
được mô tả trong cấu thành tội phạm. Trong trường hợp này mỗi người không
bắt buộc phải thực hiện hành vi được mơ tả trong cấu thành tội phạm, nhưng
có thể mỗi người chỉ thực hiện một phần hành vi đó, nhưng địi hỏi hành vi
tổng hợp của họ phải là hành vi có đủ dấu hiệu của cấu thành tội phạm.
Đối với những tội đòi hỏi chủ thể đặc biệt thì những đồng phạm thực
hiện chỉ có thể là những người có đủ dấu hiệu của chủ thể đặc biệt. Nếu
khơng họ chỉ có thể là người giúp sức hoặc cá biệt có thể phạm tội khác.
Trong lý luận khoa học hiện nay cịn có ý kiến khơng nhất quán về hành
vi không hành động trong đồng phạm của người thực hành. Theo quan điểm
này người thực hành không thực hiện những việc nhất định sẽ rất yếu dẫn đến
một hậu quả chung mà những người đồng phạm khác đều mong muốn.
Như vậy, BLHS 2015 chỉ có một khoản quy định về người thực hành
(người trực tiếp thực hiện tội phạm) so với lý luận, BLHS 2015 chưa có quy
định hay giải thích như thế nào là trực tiếp thực hiện tội phạm vì vậy việc hiểu
rằng người thực hành có thể sử dụng người khác như một cơng cụ, phương
tiện thực hiện tội phạm và chưa được nêu trong pháp luật thực tại.

c) Người thực hành thực hiện tội phạm với sự cố ý

17


Lỗi của những người đồng phạm nói chung và của người thực hành nói
riêng thường là lỗi cố ý trực tiếp, chỉ rất ít trường hợp là lỗi cố ý gián tiếp. Họ
ý thức được hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như hậu quả do
hành vi đó gây ra, nhận thức được sự tác động hỗ trợ của người đồng phạm
khác trong việc thực hiện tội phạm để đạt được hậu quả phạm tội chung.
Người thực hành mong muốn hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả phạm tội
xảy ra. Đối với những tội mà dấu hiệu động cơ và mục đích là dấu hiệu bắt
buộc trong cấu thành tội phạm thì người thực hành và những người đồng
phạm phải thỏa mãn dấu hiệu đó, nếu khơng sẽ khơng có đồng phạm. Ví dụ:
Đối với người thực hiện hoạt động nhằm lật đổ chính quyền thì khi đó người
thực hành và những người tham gia khác buộc phải có mục đích nhằm lật đổ
chính quyền nhân dân thì mới có đồng phạm.
1.2.2 Quy định của Bộ luật hình sự về trách nhiệm hình sự của người
thực hành trong đồng phạm
“Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp
lý bất lợi mà người phạm tội phải chịu trước Nhà nước do việc người đó thực
hiện tội phạm và là kết quả của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự,
được thể hiện ở bản án kết tội của Tịa án có hiệu lực pháp luật, hình phạt và
một số biện pháp cưỡng chế hình sự khác do luật hình sự quy định.” [16, tr.
206]
Theo Luật hình sự Việt Nam, việc xác định TNHS của người thực hành
trong đồng phạm và những người đồng phạm khác phải tuân thủ các ngun
tắc có tính riêng biệt sau:
Ngun tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm.
Tất cả những người đồng phạm không kể tham gia thực hiện tội phạm

với vai trị gì đều bị truy tố, xét xử về cùng một tội danh tương ứng của BLHS
và trong phạm vi chế tài điều luật ấy quy định. Vì vậy, tất cả họ phải chịu
chung những tình tiết của vụ án mà họ ý thức được trong đó có thể là tình tiết

18


định khung tăng nặng, tình tiết tăng nặng TNHS theo Điều 52 BLHS 2015.
Các quy định chung về truy cứu TNHS, thời hiệu truy cứu TNHS, quyết định
hình phạt cũng áp dụng cho tất cả những người tham gia đồng phạm và họ
đều phải chịu trách nhiệm hình sự về những tình tiết tăng nặng định khung
hình phạt hoặc tình tiết tăng nặng TNHS liên quan đến hành vi phạm tội
chung nếu họ ý thức được những tình tiết đó.
Ngun tắc chịu trách nhiệm độc lập về hành vi tham gia thực hiện tội
phạm.
Tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm là kết quả hoạt động
của tất cả những người đồng phạm gây ra. Bản thân mỗi người đồng phạm
trong đó có người thực hành đều đủ khả năng nhận thức và khả năng điều
khiển hành vi khi họ có hành động phạm tội. Mặt khác TNHS là trách nhiệm
cá nhân nên việc xác định trách nhiệm hình sự cho từng đồng phạm, người
thực hành là cần thiết. Do vậy Luật hình sự Việt Nam đã xác định nguyên tắc
thứ hai trong việc xác định TNHS của những người đồng phạm là: Mỗi người
đồng phạm phải chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ đồng
phạm. Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ: Những người đồng phạm không phải
chịu TNHS về hành vi vượt quá của người đồng phạm khác. Hành vi vượt quá
của một người đồng phạm là hành vi vượt ra ngoài ý định của những người
đồng phạm khác, những người đồng phạm khác không nhận thức cũng như
không mong muốn hậu quả xảy ra và hành vi vượt quá này đã cấu thành tội
phạm khác hoặc cấu thành tình tiết định khung tăng nặng tội phạm.
Trên thực tế không phải bao giờ người thực hành cũng thực hiện đúng

hành vi được định ra từ trước. Có những trường hợp người thực hành đã tự ý
không thực hiện tội phạm hoặc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nhưng
có trường hợp người thực hành vượt quá yêu cầu mà những người đồng phạm
khác đặt ra. Hành vi vượt quá của người thực hành là việc người thực hành tự

19


ý thực hiện hành vi phạm tội mà những đồng phạm khác không biết và không
mong muốn.
Khoản 4 Điều 17 BLHS 2015 quy định: “Người đồng phạm không phải
chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.” Đây
cũng là một điểm mới tích cực trong quy định về đồng phạm của BLHS năm
2015 khắc phục được phần nào vướng mắc, bất cập trong thực tiễn mà BLHS
năm 1999 còn hạn chế. Tuy hiện nay chưa có văn bản chính thức nào ghi
nhận “thế nào là hành vi vượt quá của người thực hành”, nhưng trong Khoa
học Luật hình sự, vấn đề này được các nhà nghiên cứu rất quan tâm và đều có
cách hiểu chung thống nhất rằng: “Hành vi vượt quá của người thực hành là
việc người thực hành tự ý thực hiện hành vi phạm tội mà những người đồng
phạm khác không mong muốn, khơng có ý định thực hiện” [10, tr 25-27]
Để xác định đâu là hành vi vượt quá của người thực hành là vấn đền hết
sức khó khăn, phức tạp, đặc biệt là với những vụ án xâm hại tính mạng sức
khỏe. Trong quá trình thực hiện ý định phạm tội chung thì khơng chỉ có người
thực hành mà cả những đồng phạm khác cũng có thể có hành vi vượt quá, làm
sai với sự thỏa thuận của cả bọn. Người thực hành có vai trị quan trọng trong
vụ án có đồng phạm. Tội phạm có được thực hiện hay không, thực hiện đến
mức nào đều phụ thuộc vào kết quả hành vi của người thực hành. Nhưng
trong số những hành vi mà người thực hành thực hiện để đạt kết quả mà bản
thân người thực hành và những đồng phạm khác mong muốn, có thể có những
hành vi vượt quá ý định ban đầu của người đồng phạm khác.

“Hành vi vượt quá” có thể tồn tại ở hai dạng sau:
Thứ nhất, vượt quá về tính chất của hành vi (hay còn gọi là hành vi vượt
quá về chất): Người đồng phạm đã thực hiện hành vi vượt ra ngoài dự kiến
của họ với những đồng phạm khác. Hành vi vượt q này khơng cùng tính
chất với hành vi phạm tội chung và có thể cấu thành một tội danh độc lập
khác. Ví dụ: A và B thỏa thuận sẽ dùng dao để đe dọa cướp tài sản chứ không

20


×