Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bình luận quy định của pháp luật việt nam hiện hành về thỏa thuận trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.97 KB, 14 trang )

KHOA PHÁP LUẬT KINH TẾ
BỘ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
.………***………..

BÀI TẬP HỌC KỲ
MƠN: LUẬT THƯƠNG MẠI 2
ĐỀ BÀI:

Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về thỏa thuận trọng tài thương mại.
HỌ VÀ TÊN :

Hà Nội, 2020


MỤC LỤC

MỞ BÀI
Một trong những vấn đề đang gây tranh luận hiện nay chính là những quy
định hiện hành của pháp luật về thỏa thuận trọng tài và các vấn đề có liên quan.
Trong quy định về thỏa thuận trọng tài cịn nhiều điểm chưa được giải thích rõ
ràng trong Luật Trọng tài Thương mại 2010, gây khó khăn cho việc hiểu và áp
dụng pháp luật đối với những tổ chức, cơ quan trực tiếp áp dụng đó là các tổ
chức Trọng tài Thương mại, Tòa án và đặc biệt là các doanh nghiệp có tranh
chấp yêu cầu trọng tài giải quyết. Vì vậy tơi chọn đề bài: “Bình luận quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành về thoả thuận trọng tài thương mại.” để đi
sâu và tìm hiểu rõ hơn vấn đề.
NỘI DUNG
I.
Khái quát chung
1. Trọng tài thương mại


a. Khái niệm

Khoản 1, điều 3, Luật trọng tài thương mại có quy định:
“Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do
các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật
này.”
b. Bản chất

Bản chất của trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam
thể hiện đầy đủ những thuộc tính nêu trên và phù hợp với
thông lệ quốc tế. Bản chất của trọng tài thương mại có sự kết
hợp giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán. Thỏa thuận làm tiền
đề cho phán quyết và phán quyết phải được đưa ra trên cơ sở
những vấn đề đã được thỏa thuận. Thẩm quyền của trọng tài
không bị giới hạn bởi yếu tố địa lý, hệ thống pháp luật hay chế


độ chính trị. Tuy vậy, Nhà nước vẫn giành cho mình quyền năng
xét xử trong những lĩnh vực nhất định nhằm bảo vệ không chỉ
quyền lợi của các bên trong tranh chấp mà cịn bảo vệ trật tự
cơng cộng, quyền lợi của những người liên quan, đa số các quốc
gia trên thế giới chỉ qui định thẩm quyền giải quyết tranh chấp
của trọng tài trong lĩnh vực luật tư.
c. Đặc điểm
-

Trọng tài Thương mại là một loại hình tổ chức phi Chính phủ,
trọng tài có quyền phán quyết như Tịa án và quyết định của

trọng tài được cưỡng chế thi hành.

- Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là sự kết hợp
giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán. Thỏa thuận làm tiền
đề cho phán quyết và khơng thể có phán quyết thốt ly được
những yếu tố đã được thỏa thuận.
- Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài bảo đảm
quyền tự định đoạt của các đương sự rất cao. Các bên có
quyền lựa chọn trọng tài viên, quy tắc tố tụng trọng tài, luật
áp dụng
- Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm, khơng bị
kháng cáo, kháng nghị và có hiệu lực thi hành với các bên.
Nếu một bên khơng thi hành thì bên kia có quyền u cầu
Tịa án cơng nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài.
- Phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài Thương
mại cần sự hỗ trợ của Tòa án. Sở dĩ cần sự hỗ trợ của Tịa án
vì phán quyết của trọng tài khơng mang tính quyền lực Nhà
nước, do đó cần phải có một cơ quan Nhà nước hỗ trợ, đó là
Tịa á .
- Trọng tài tồn tại dưới hai hình thức cơ bản là: trọng tài vụ
việc và trọng tài thường trực. Trọng tài vụ việc là hình thức
trọng tài được lập ra để giải quyết các tranh chấp cụ thể và


tự giải thể khi giải quyết xong tranh chấp đó. Trọng tài
thường trực là những tổ chức trọng tài có hình thức tổ chức,
trụ sở ổn định, danh sách trọng tài viên và hoạt động theo
điều lệ riêng.
2. Thoả thuận trọng tài
a. Khái niệm
Theo khoản 2 Điều 3 Luật Trọng tài Thương mại 2010 thì:
“Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải

quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát
sinh”.
b. Thời điểm xác lập thoả thuận trọng tài

Theo quy định của Luật Trọng tài Thương mại 2010 thì tranh
chấp được giải quyết bằng trọng tài thương mại là “tranh chấp
có thể phát sinh” hoặc “đã phát sinh”. Như vậy, thời điểm hai
bên thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có thể là
trước khi tranh chấp giữa hai bên xảy ra hoặc vào thời điểm sau
khi tranh chấp đã xảy ra.
c. Ý nghĩa
-

Thỏa thuận trọng tài có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
thẩm quyền của hội đồng trọng tài. Khi có tranh chấp rảy ra thì
vấn đề đầu tiên cần xác định là phương thức giải quyết tranh
chấp nào sẽ được áp dụng và việc áp dụng giải quyết bằng
phương thức nào do các bên thỏa thuận.

-

Thỏa thuận trọng tài ràng buộc trách nhiệm của các bên. Qua
đó giúp các bên nâng cao ý thức trong việc thực hiện những
nghĩa vụ đã cam kết, là một biện pháp tích cực để phịng ngừa
các tranh chấp.


-

Thỏa thuận trọng tài là cơ sở pháp lý để thực hiện phán

quyết của trọng tài, phán quyết của trọng tài là kết luận

cuối cùng của hội đồng trọng tài về giải quyết tranh chấp.
- Thỏa thuận trọng tài được xem là vấn đề then chốt và có
vai trị quyết định đối với việc áp dụng trọng tài như một
phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, Có
thể nói, khơng có thỏa thuận trọng tài thì khơng có việc
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
d. Đặc điểm
• Đặc điểm hình thức
Trong hầu hết các trường hợp, thỏa thuận trọng tài phải được
thể hiện dưới hình thức văn bản. Điều này đảm bảo cho thỏa
thuận trọng tài có giá trị như một chứng cứ xác định ý chí của
các bên muốn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Thơng
thường có hai cách để thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài: Một là, các bên dự đoán trước và tha thuận ngay
từ khi bắt đầu quan hệ thương mại việc sẽ đưa ra trọng tài giải
quyết tranh chấp phát sinh trong tương lai. Hai là, sau khi tranh
chấp phát sinh, các bên mới thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải
quyết bằng trọng tài. Tuy nhiên trên thực tế, trường hợp thứ hai
ít xảy ra vì sau khi đã xảy ra tranh chấp thì việc các bên ngồi lại
với nhau để thỏa thuận cách thức giải quyết tranh chấp là
khơng dễ dàng, trong trường hợp đó, vụ việc thường được giải
quyết theo con đường Tịa án .


Đặc điểm nội dung

Nội dung của thỏa thuận trọng tài chính là việc xác định cách
thức, trình tự, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của các bên

liên quan khi cần giải quyết những tranh chấp bất đồng phát
sinh hay liên quan đến hợp đồng chính. Việc xác lập nội dung


các điều khoản trong thỏa thuận trọng tài đều phụ thuộc vào sự
tự nguyện thỏa thuận của các bên mà không chịu sự can thiệp
của pháp luật. Pháp luật quy định một số điều khoản mang tính
cơ bản trong một thỏa thuận trọng tài như: phương thức trọng
tài, tổ chức trọng tài, ngôn ngữ trọng tài, luật áp dụng, địa điểm
trọng tài, chi phí trọng tài, cam kết thi hành quyết định trọng
tài. Ngồi ra, các bên có thể lựa chọn thỏa thuận thêm các điều
khoản khác nhằm tạo điều kiện cho việc giải quyết tranh chấp
hiệu quả nhất. Một thoả thuận chỉ có giá trị pháp lý khi đáp ứng
được những yêu cầu của pháp luật về nội dung.


Đặc điểm mối quan hệ

Dù thỏa thuận trọng tài được thể hiện dưới hình thức một
điều khoản nằm trong hợp đồng chính hay dưới hình thức văn
bản riêng đi kèm hợp đồng chính thì thồn thuận trọng tài thực
chất chính là một hợp đồng nhỏ có nội dung khác biệt và độc
lập với hợp đồng chín. Như vậy, ngay cả khi hợp đồng bị thay
đổi, hủy bỏ, bị hết hiệu lực thì thỏa thuận trọng tài vẫn có giá
trị. Tuy nhiên, đối với trường hợp hợp đồng chính bị vơ hiệu thì
tính độc lập về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài chỉ là tương
đối . Việc xác định thỏa thuận trọng tài có vơ hiệu hay khơng
cịn phụ thuộc vào ngun nhân hợp đồng chính bị vơ hiệu. Nếu
ngun nhân dẫn đến hợp đồng chính và thỏa thuận trọng tài
vơ hiệu là trùng nhau thì khi đó , đương nhiên cả hai cùng vơ

hiệu.


Đặc điểm điều kiện

Điều kiện về năng lực chủ thể: Chủ thể ở đây gồm ba dạng là
cá nhân, pháp nhân và quốc gia (hoặc các cơ quan nhà nước),


đối với mỗi loại chủ thể pháp luật các nước đều có những quy
định về cách xác định luật áp dụng riêng.
Điều kiện về thẩm quyền của trọng tài: Không phải mọi tranh
chấp đều có thể giải quyết được bằng trọng tài, ngay cả khi
giữa các bên tranh chấp thỏa mãn điều kiện về sự tự nguyện
thỏa thuận. Đó là khi pháp luật nơi diễn ra trọng tài không cho
phép giải quyết loại tranh chấp đó thơng qua hình thức trọng
tài.
Điều kiện về ý chí tự nguyện của chủ thể: Thỏa thuận trọng
tài sẽ khơng có giá trị pháp lý nếu nó khơng phải là kết quả của
sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể hay là sự áp đặt ý chí của
bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào. Dựa trên cơ sở thống
nhất ý chí, các bên thỏa thuận về các yếu tố liên quan đến quá
trình giải quyết tranh chấp như tổ chức trọng tài, hình thức
trọng tài, ngơn ngữ, địa điểm...và các nội dung khác phù hợp
với lợi ích của các bên.
Điều kiện về hình thức của thỏa thuận trọng tài: Hình thức của
thỏa thuận trọng tài là sự thể hiện ra bên ngoài sự thống nhất ý
chí của các bên tham gia quan hệ thương mại. Nhìn chung,
pháp luật trọng tài của hầu hết các nước trên thế giới đều quy
định thỏa thuận trọng tài phải được thể hiện dưới dạng văn bản.

Quy định này đã trở thành một tập quán quốc tế chung bởi chỉ
có thể xác lập bằng văn bản mới tạo ra sự tin tưởng cho các
bên, đồng thời là cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên khi
phát sinh tranh chấp.
II.

Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về thoả thuận trọng tài thương mại


1. Quy định về vấn đề thẩm quyền giải quyết tranh

chấp phát sinh từ quan hệ ngoài hợp đồng.
Khoản 2 Điều 3 Luật Trọng tài Thương mại 2010 đã quy
định: “Thỏa thuận trọng tài thương mại là việc thỏa thuận giữa
các bên về gải quyết bằng Trọng tài thương mại các tranh chấp
có thể phát sinh hoặc đã phát sinh.”
Định nghĩa này vẫn chưa làm rõ tranh chấp phát sinh ngồi hợp
đồng có được giải quyết bằng trọng tài thương mại hay không.
Vấn đề này liên quan đến việc xác định thẩm quyền và phán
quyết của trọng tài thương mại. Bởi vì quan hệ thương mại rất
đa dạng và phong phú, có quan hệ được viết bằng hợp đồng cụ
thể giữa các bên nhưng cũng phát sinh nhiều vấn đề ngoài ý
muốn nhất là bồi tường thiệt hại ngoài hợp đồng.
2. Quy định về hình thức thoả thuận của trọng tài

Điều 16 Luật Trọng tài Thương mại 2010 đã quy định:
“1. Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức
điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa
thuận riêng.

2. Thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản.
Các hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới
dạng văn bản:
a) Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng
telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy
định của pháp luật;


b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng
văn bản giữa các bên;
c) Thỏa thuận được luật sư, cơng chứng viên hoặc tổ chức có
thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các
bên;
d) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có
thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ
công ty và những tài liệu tương tự khác;
đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể
hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia
khơng phủ nhận.”
Thỏa thuận trọng tài có thể được các bên thỏa thuận và ghi
nhận trong một văn bản riêng biệt. Thỏa thuận này thường dưới
hình thức một văn bản thỏa thuận riêng và được coi như gắn
liền với hợp đồng chính. Văn bản thỏa thuận trọng tài riêng biệt
có thể được các bên xác lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh
chấp. Trong trường hợp được xác lập sau khi tranh chấp xảy ra
nên có thỏa thuận trọng tài riêng biệt có điều kiện để quy định
chi tiết, cụ thể về nhiều nội dung liên quan đến việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài, phù hợp với tính chất của tranh chấp
và yêu cầu của các bên.Thỏa thuận trọng tài dù là một điều
khoản của hợp đồng hay một văn bản riêng biệt đều giống

nhau về bản chất và đều có giá trị pháp lý như nhau.
Luật Trọng tài Thương mại 2010 đã khắc phục được sự không rõ
ràng về các dạng tồn tại của thoả thuận trọng tài được quy định
trong Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003.


Pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận hình thức của thỏa thuận
trọng tài được lập thành văn bản và không phụ thuộc vào yếu
tố nó là một điều khoản hay là một văn bản riêng biệt. Việc quy
định như vậy nhằm hạn chế những tranh chấp xảy ra sau này
về thỏa thuận trọng tài cũng như để làm căn cứ khởi kiện ra
trọng tài thương mại hay tịa án có thẩm quyền.
3. Quy định về quyền lựa chọn phương thức giải quyết

tranh chấp của người tiêu dùng
Điều 17 Luật Trọng Thương mại 2010 đã quy định: “Đối với
các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người
tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong
các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà
cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn
được quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh
chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện
tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận.”
Với quy định trên thì lần đầu tiên pháp luật về trọng tài có
quy định tranh chấp liên quan đến một bên là người tiêu dùng,
hướng đến quan tâm và bảo vệ người tiêu dùng.
Quy định này xuất phát từ thực tế là thông thường người tiêu
dùng luôn bị đặt ở một vị thế có nhiều nguy cơ bị lạm dụng bởi
các điều khoản in ấn sẵn của nhà cung cấp dịch vụ nên cần
phải có những quy định trên. Tuy nhiên trong trường hợp người

tiêu dùng khởi kiện, họ không cần sự chấp thuận từ nhà cung
cấp hàng hóa, dịch vụ.
4. Quy định về thoả thuận trọng tài vô hiệu

Điều 18 Luật Trọng tài Thương mại 2010 đã quy định:


“1. Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm
quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này.
2. Người xác lập thoả thuận trọng tài khơng có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật.
3. Người xác lập thoả thuận trọng tài khơng có năng lực hành vi
dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự.
4. Hình thức của thoả thuận trọng tài khơng phù hợp với quy
định tại Điều 16 của Luật này.
5. Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong q
trình xác lập thoả thuận trọng tài và có u cầu tun bố thoả
thuận trọng tài đó là vơ hiệu.
6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.”
Thỏa thuận trọng tài không thực hiện được lại không được
quy định rõ ràng trong Luật trọng tài thương mại 2010. Tuy
nhiên, chúng ta có thể nhận định rằng, thỏa thuận trọng tài
không thực hiện được khi một bên tham gia thỏa thuận trọng
tài là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi, mà khơng có
người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó
và các bên khơng có thoả thuận khác. Trường hợp một bên
tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm dứt hoạt
động, bị phá sản, giải thể và không có tổ chức tiếp nhận quyền
và nghĩa vụ của tổ chức đó và các bên khồn có thoả thuận
khác.

Luật Trọng tài Thương mại 2010 nêu trên, nếu một người nước
ngoài là một bên chủ thể trong tranh chấp thì năng lực hành vi
dân sự của họ được xác định theo quy định của Bộ luật dân sự
2005 của Việt Nam. Tuy nhiên, quy định như vậy sẽ làm hạn
chế thẩm quyền của trọng tài trong việc đánh giá năng lực


hành vi dân sự của các bên bởi vì năng lực hành vi dân sự của
một người thường được xác định theo luật của nước mà người
đó mang quốc tịch. Việc quy định năng lực chủ thể của người
xác lập thỏa thuận trọng tài được xác định theo quy định của
Bộ luật dân sự 2005 chỉ phù hợp với trọng tài trong nước, không
phù hợp với trọng tài quốc tế.
Trong quy định này, Luật Trọng tài Thương mại chỉ đề cập đến
ba khuyết tật trong sự ưng thuận của các chủ thể khi xác lập
giao dịch dân sự là: lừa dối, đe dọa, cưỡng ép mà không đề cập
đến nhầm lẫn. Trên thực tế thường xuyên xảy ra tình trạng một
trong hai bên chủ thể bị nhầm lẫn trong quá trình xác lập thỏa
thuận trọng tài.
Các trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu chỉ quy định thoả
thuận trọng tài vô hiệu trong trường hợp “thoả thuận trọng tài
vi phạm điều cấm của pháp luật” mà khơng có quy định về
trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu do trái đạo đức xã hội.
Luật Trọng tài Thương mại 2010 mới đã khắc phục được sự
không rõ ràng của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 về
các trường hợp vô hiệu thoả thuận trọng tài. Điều 18 Luật Trọng
tài Thương mại 2010 giới hạn sáu trường hợp theo đó thoả
thuận trọng tài vô hiệu với những quy định cụ thể và rõ ràng
hơn so với những quy định tại Điều 10 của Pháp lệnh Trọng tài
thương mại năm 2003. Luật Trọng tài Thương mại 2010 còn quy

định trường hợp thỏa thuận trọng tài khơng rõ ràng thì bên khởi
kiện (ngun đơn) có quyền được tự do lựa chọn tổ chức trọng
tài thích hợp để khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
5. Quy định về tính độc lập của thoả thuận trọng tài


Điều 19 Luật Trọng tài Thương mại 2010 đã quy định: “Thoả
thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi,
gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể
thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng
tài.”
Trên thực tế thoả thuận về trọng tài thông thường được thể
hiện đơn giản dưới hình thức một điều khoản trọng tài và đưa
vào hợp đồng thương mại (như hợp đồng mua bán hàng hoá,
mua bán bản quyền, vận chuyển,...). Thực tế, điều khoản trọng
tài có thể được hiểu là “một hợp đồng trong một hợp đồng”.
Quan điểm chung của pháp luật trọng tài các nước đều thừa
nhận tính độc lập của điều khoản trọng tài đối với hợp đồng
chính. Hợp đồng có thể bị vơ hiệu từng phần hoặc vơ hiệu tồn
phần nhưng đều không ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của điều
khoản trọng tài, sự vô hiệu của hợp đồng không tự động kéo
theo sự vô hiệu của điều khoản trọng tài.
Việc quy định chung chung như vậy sẽ gây khó khăn trong quá
trình giải quyết một số trường hợp hợp đồng vô hiệu và thoả
thuận trọng tài là một điều khoản của hợp đồng. Điều này
khơng có nghĩa là hợp đồng chính khơng có ảnh hưởng gì tới
điều khoản trọng tài. Có những lý do vơ hiệu có tác động tới cả
hai thoả thuận trên như vi phạm nguyên tắc tự nguyện khi ký
kết hoặc sự khơng có năng lực trong ký kết hợp đồng của các

bên.
KẾT BÀI
Trọng tài thương mại là sản phẩm tất yếu của kinh tế thị trường và sự
phát triển của phương thức giải quyết tranh chấp này chịu sự tác động lớn từ
trình độ phát triển của nền kinh tế. Khác với toà án, trọng tài thương mại là tổ


chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân. Quyền lực của trọng tài thương mại
được tạo dựng bởi ý chí của các bên tranh chấp - đây là quyền lực mang tính đại
diện do các bên thỏa thuận trao cho. Phán quyết của trọng tài khơng mang tính
quyền lực của Nhà nước mà mang tính quyền lực hợp đồng. Bản chất của trọng
tài đã thể hiện sự độc lập của nó trong hệ thống các phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Thương mại năm 2005
2. Bộ Luật dân sự năm 2005
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại

(tập 2), Nguyễn Viết Tý (chủ biên), Nxb. CAND, Hà Nội,
2006



×