Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

ĐÁNH GIÁ kết QUẢ PHẪU THUẬT sửa BIẾN DẠNG môi SAU PHẪU THUẬT tạo HÌNH KHE hở môi một bên bẩm SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.77 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y H NI

DNG H LIấN

ĐáNH GIá KếT QUả PHẫU THUậT SửA
BIếN DạNG MÔI SAU PHẫU THUậT TạO HìNH
KHE Hở MÔI MéT B£N BÈM SINH

LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC

HÀ NỘI – 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y H NI

DNG H LIấN

ĐáNH GIá KếT QUả PHẫU THUậT SửA
BIếN DạNG MÔI SAU PHẫU THUậT TạO HìNH
KHE Hở MÔI MéT B£N BÈM SINH
Chuyên ngành: Phẫu thuật tạo hình
Mã số: 60720123


LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHẠM THỊ VIỆT DUNG

HÀ NỘI – 2019


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành luận văn này tơi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các
phịng, ban, bộ môn, các thầy cô, các bạn đồng nghiệp và gia đình.
Tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới:
- GS.TS. Trần Thiết Sơn, người thầy luôn hết lịng chỉ bảo, truyền đạt
kiến thức cho tơi từ những ngày đầu tôi bước vào chuyên ngành. Thầy
đã quan tâm giúp đỡ tôi ngay từ khi định hướng nghiên cứu, tận tình
hướng dẫn kỹ thuật, truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm cho tôi.
- TS. Phạm Thị Việt Dung, người đã bỏ rất nhiều thời gian và công sức,
luôn thúc giục, hướng dẫn, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tơi trong
suốt q trình học tập và nghiên cứu.
Tơi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng khoa học đã đóng
góp những ý kiến quý báu để tơi hồn thành tốt luận văn này.
Tơi xin chân thành cảm ơn:
- GS. TS Lê Gia Vinh, PGS.TS Nguyễn Bắc Hùng, ThS Nguyễn Vũ
Hồng và các thầy cơ trong Bộ mơn Phẫu thuật tạo hình trường Đại học Y Hà
Nội đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo tơi mỗi khi tơi gặp khó khăn trong q trình
học tập và thực hiện luận văn.
- Ban giám hiệu, Phòng quản lý đào tạo sau đại học trường Đại học Y Hà
Nội đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.
- Tập thể bác sĩ và nhân viên Khoa Phẫu thuật tạo hình bệnh viện Xanh
Pơn đã quan tâm, giúp đỡ và đồng hành cùng tôi trong học tập và hoàn thành

luận văn.
- Toàn thể cán bộ nhân viên Khoa Phẫu thuật tạo hình - Hàm mặt bệnh


viện TWQĐ 108, Khoa Ngoại Đầu cổ bệnh viện K Tân Triều, đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong học tập và hồn thành luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn tập thể các bác sĩ nội trú và cao học PTTH,
các bạn bè, đồng nghiệp những người đã ln động viên, giúp đỡ tơi trong
mọi hồn cảnh.
Con xin bày tỏ lịng biết ơn vơ bờ bến tới cha mẹ, những người đã sinh
thành, nuôi dưỡng và dạy dỗ để con có ngày hơm nay.
Cảm ơn chồng u đã ln ở bên cạnh động viên, chăm sóc và làm hậu
phương vững chắc của em trong suốt thời gian học bác sĩ nội trú.

BS. DƯƠNG HÀ LIÊN


LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Dương Hà Liên, Bác sĩ Cao học khóa 26 chun ngành Phẫu
thuật tạo hình - Trường Đại học Y Hà Nội, xin cam đoan:


Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn
của TS. Phạm Thị Việt Dũng.


Cơng trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
được cơng bố tại Việt Nam.




Các số liệu và thơng tin trong nghiên cứu là hồn tồn chính xác,
trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở
nơi nghiên cứu.

Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về những cam kết này.
Tác giả luận văn

Dương Hà Liên


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BN

: bệnh nhân

KHM

: khe hở mơi

KHVM

: khe hở vịm miệng

PP

: phương pháp


PT

: phẫu thuật

PTTH

: phẫu thuật tạo hình


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC HÌNH


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


10

ĐẶT VẤN ĐỀ
Khe hở mơi (KHM) và khe hở vịm miệng (KHVM) là những loại dị tật
bẩm sinh phổ biến vùng hàm mặt. Những dị tật này thường xảy ra nhiều hơn
so với các dị tật khác trên cơ thể do vùng hàm mặt là một trong những vùng
có nhiều biến đổi phức tạp về bào thai. Theo các tài liệu thống kê trên thế giới
cũng như của Việt Nam tỉ lệ này thay đổi trong khoảng 1/500- 1/2500, tùy
theo vùng địa lý và dân tộc [1]. Theo thống kê của Bộ Y tế, tình hình trẻ em bị
KHM và KHVM chiếm tỉ lệ 0,1- 0,2 % trẻ sơ sinh ở Việt Nam. Như vậy ước

tính ở Việt Nam với tỉ lệ sinh những năm 1997-2002 là 2% dân số thì mỗi
năm có từ 1500-3000 trẻ bị dị tật mơi vòm ra đời [2]. Theo điều tra của Viện
Răng Hàm Mặt Trung Ương và Viện Răng Hàm Mặt thành phố Hồ chí Minh,
năm 1997 Việt Nam có khoảng 24.000 trẻ bị dị tật mơi- vịm miệng cần phải
phẫu thuật. Theo số liệu bệnh viện Việt Nam Cu Ba, trong tổng số 4695 trẻ
được phẫu thuật KHM và KHV tại bệnh viện từ 1997-2002 có 2007 trẻ bị
KHV, 2411 trẻ KHM và 277 trẻ thuộc các loại khác [2]. Trong đó KHM một
bên có tỉ lệ chiếm khá cao (1/1000 đến 1/600 trẻ). KHM đơn thuần chiếm
khoảng 30%, trong đó 90% là KHM một bên [3]
Các loại KHM gây nên những thay đổi về cấu trúc giải phẫu, ảnh
hưởng rất lớn tới chức năng, thẩm mỹ của khuôn mặt, và tác động mạnh mẽ
đến tâm lý của trẻ từ tuổi thơ đến tuổi trưởng thành. Phương pháp điều trị duy
nhất với bệnh nhân khe hở mơi vịm miệng là phẫu thuật [4]. Theo y văn có
rất nhiều phương pháp, nhiều kỹ thuật phẫu thuật khác nhau đã được sử dụng
điều trị khe hở môi. Ở nước ta hiện nay các phẫu thuật viên thường áp dụng
hai phương pháp của Tennision và Millard có cải tiến để tạo hình KHM. Trên
nền tảng cơ bản của hai kỹ thuật này một số tác giả đã có những cải tiến bằng
các đường rạch phụ hay sử dụng những vạt da, niêm mạc bổ sung để khắc


11

phục những nhược điểm của hai phương pháp. Tuy nhiên do hình thái của
KHM rất đa dạng, mức độ tổn thương đi kèm nặng nhẹ khác nhau và do trình
độ hiểu biết về kỹ thuật cũng như khả năng tay nghề của PTV ở các tuyến là
không đồng đều nên sau tạo hình KHM thì đầu vẫn để lại di chứng biến dạng
mũi mơi rất lớn.
Trước đây cũng đã có vài cơng trình nghiên cứu về những biến dạng
mũi mơi ở các khía cạnh tìm hiểu ngun nhân biến dạng, thống kê kỹ thuật
sửa chữa đã áp dụng trên lâm sàng và đánh giá kết quả. Tuy nhiên hiện nay

nhu cầu thẩm mỹ của con người ngày càng cao nên vấn đề phẫu thuật sửa
chữa biến dạng mũi mơi địi hỏi cần được nghiên cứu tỉ mỉ và chính xác hơn,
để đưa ra những phương pháp phẫu thuật phù hợp, trả lại vẻ đẹp tự nhiên nhất
của môi để giúp những trẻ có dị tật tự tin hơn trong cuộc sống. Đây cũng là
vấn đề có ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài: “Đánh giá kết quả phẫu thuật sửa biến dạng môi sau phẫu thuật tạo
hình khe hở mơi một bên bẩm sinh” với 2 mục tiêu sau:
1

Mô tả đặc điểm lâm sàng của biến dạng môi sau phẫu thuật KHM
một bên bẩm sinh.

2

Đánh giá kết quả sau phẫu thuật sửa chữa các biến dạng môi.


12

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm giải phẫu của mơi bình thường [5], [6], [7], [8].
1.1.1. Hình thể ngồi của môi.
- Vùng môi nằm ở giữa tầng mặt dưới gồm có mơi trên và mơi dưới tách rời
nhau bởi khe mơi. Giới hạn các phía của mơi: trên là nền mũi, hai bên là rãnh
mũi má, giới hạn phía dưới là rãnh cằm.
- Nhìn bề ngồi mơi trên được chia làm 2 phần: gồm da môi (môi trắng) và
niêm mạc môi (môi đỏ). Ranh giới giữa môi đỏ và mơi trắng là đường viền
mơi.


Hình 1.1: Giải phẫu mơi bình thường


Da mơi (mơi trắng): Che phủ mặt trước tạo nên chiều cao mơi. Ở giữa có
lõm nhân trung, hai bên là tứ giác da trắng, ngăn cách với nhân trung bởi
gờ nhân trung. Nhân trung là mốc rất quan trọng trong phẫu thuật tạo hình

mơi [7].
• Niêm mạc mơi đỏ: Bờ tự do củ niêm mạc môi đỏ phân chia môi đỏ thành hai
phần rõ rệt là niêm mạc môi khô và niêm mạc môi ướt.
+ Niêm mạc môi khô: là niêm mạc nhìn thấy được khi hai mơi ngậm
khít vào nhau. Môi đỏ khô được chia làm 3 phần tương xứng với ba phần của
da môi. Ở giữa là củ mơi hay cịn gọi là mấu lồi mơi, hai bên là môi đỏ, to ở
giữa và thon dần về phía mép.


13

+ Môi ướt: là phần niêm mạc liên tiếp với niêm mạc miệng. Chỗ tiếp
giáp giữa niêm mạc môi và niêm mạc bờ lợi tạo thành ngách tiền đình mơi
lợi. Niêm mạc mơi ướt hồn tồn được láng bởi tuyến nước bọt.
• Đường viền mơi: cong mảnh và sắc nét, là ranh giới phân chia giữa da môi
trắng và niêm mạc môi đỏ. Môi trên đường viền môi cong lõm ở giữa tạo nên
cung Cupidon tương ứng bờ dưới của nhân trung và bờ trên của mấu lồi môi.
Sự liên tục của đường viền môi là đặc điểm thẩm mỹ rất quan trọng, cần phải
được phục hồi khi tạo hình KHM.
• Mép: là vùng mơi trên và mơi dưới dính vào nhau, vị trí của mép nằm trên
đường thẳng đứng đi qua đồng tử khi mắt nhìn thẳng hướng ra trước. Khoảng
cách của 2 mép khi môi ở tư thế tĩnh bằng khoảng cách giữa hai đồng tử khi
mắt nhìn thẳng hướng ra trước.

• Tương quan giữa mơi trên và mơi dưới: Giữa mơi trên và mơi dưới có một
mối tương quan mang tính thẩm mỹ và cũng nằm trong mối tương quan của
hàm trên và hàm dưới. Ở người bình thường khi nhìn nghiêng, mơi trên hơi
nhơ ra trước so với môi dưới, nhất là mấu lồi môi.
1.1.2. Cấu tạo bên trong của mơi
Vùng mơi gồm 2 nhóm cơ hoạt động đối ngược nhau, là nhóm cơ đóng
miệng và nhóm cơ mở miệng.
Trong đó hệ thống cơ của mơi trên gồm ba cơ chính:
+ Cơ vịng mơi (orbicularis oris),
+ Cơ nâng môi trên (levator labii superioris),
+ Cơ hạ vách mũi (depressor septi).


14

Hình 1.2: Giải phẫu cơ mơi trên.
Trong đó cơ vịng mơi là cơ chủ yếu, cơ khu trú khoanh trịn tồn bộ
khe miệng và tiếp xúc riêng biệt phía trước với da và phía sau với niêm
mạc miệng. Cơ gồm hai phần là lớp nông và lớp sâu: Lớp cơ nông đưa hai
môi chạm nhau và khi các cơ co độc lập thì biểu hiện nét mặt. Lớp cơ sâu
bao vòng quanh miệng và chỉ thực hiện chức năng co miệng. Các sợi cơ
sắp xếp bắt chéo ở đường giữa để cài vào gờ nhân trung bên đối diện và
hình thành nên phần gờ nhân trung. Hõm nhân trung có phần da khơng bám
ở giữa.
Theo Fasra M (1990) thì phần dưới của cơ vịng mơi cài vào gần tới
viền mơi đỏ và lộn xuống phía dưới tới nhân trung tạo ra mấu lồi môi.
Cơ ngang mũi: vắt qua nửa dưới tháp mũi và bám tận vào gai mũi
trước.
Cơ nâng môi trên: đi trên bề mặt của cơ vịng mơi và cùng vơi nó tạo
thành phần dưới của nhân trung, các cơ này bắt chéo và bám vào da ở phần

dưới của nhân trung cũng như đường viền môi và đỉnh cung cupidon.


15

Hình 1.3: Giải phẫu cơ vùng mơi bình thường
1.2. Khe hở môi một bên bẩm sinh và các phương pháp tạo hình
1.2.1. Những thay đổi giải phẫu khe hở mơi một bên [5], [9], [10],[11], [12],
[13], [14], [15].
Các biến dạng trong KHM trên có liên quan đến tổ chức phần mềm che
phủ ở phía ngồi và hệ thống xương là khung nâng đỡ ở phía dưới, [5].
* Thay đổi hình thể ngồi:

Hình 1.4: Khe hở mơi một bên khơng tồn bộ
- Da và niêm mạc của môi mất liên tục một phần hay toàn bộ.
- Co kéo phần da của mơi: các bó cơ vịng mơi khơng liên tục dẫn đến sự
co kéo da môi ở 2 bên bờ khe hở. Da mơi ở bờ trong và bờ ngồi khe hở đều
giảm về kích thước và chiều cao.
- Ở bờ trong khe hở chiều cao của nhân trung ngắn.
- Cung Cupidon bị gián đoạn sau khi vượt qua điểm giữa nhân trung ở


16

bờ trong khe hở.
- Niêm mạc ở 2 bên khe hở: Độ rộng làn môi đỏ ở bờ trong khe hở bị
thiếu, ở bờ ngồi khe hở bình thường hoặc tăng nhẹ so với bên lành.
* Thay đổi về cơ của môi trong KHM môt bên:
Những thay đổi của cơ xung quanh môi là hậu quả của sự bám tận khơng
bình thường của các bó cơ:

- Cơ vịng mơi tại khe hở bị gián đoạn:
+ Trong khe hở môi không tồn bộ: phần trên cơ vịng mơi vẫn tiếp xúc
được với nhau, phần dưới cơ tách thành 2 phần bám vào bờ trong và bờ ngồi
khe hở mơi.
+ Trong khe hở mơi tồn bộ: cơ vịng mơi bị gián đoạn hoàn toàn, các
đầu cơ bám vào 2 bờ của khe hở. Ở bờ trong các bó cơ vịng mơi bám ngược
lên vào chân trụ mũi và gai mũi trước. Ở bờ ngồi các bó cơ vịng lên bám
vào chân cánh mũi.
- Cơ ngang mũi: chạy từ lưng mũi xuống, vắt qua chân cánh mũi bên khe
hở bám lạc chỗ vào chân cánh mũi.

Hình 1.5: Hình ảnh thay đổi giải phẫu cơ trong KHM một bên
Như vậy khe hở dẫn đến sự bám tận khơng bình thường của cơ vịng mơi
lần lượt vào gai mũi trước và chân cánh mũi. Sự bám lạc chỗ của cơ vịng mơi
và cơ ngang mũi, dần dần theo thời gian phát triển kéo các bờ khe hở vồng lên
như mặt kính đồng hồ.


17

1.2.2. Phân loại khe hở môi một bên [5], [11], [12], [15].
KHM một bên thường thấy ở vị trí mơi tương ứng với khe giữa răng
cửa và răng nanh. Tổn thương chạy theo hướng thẳng đứng, vng góc với
làn mơi đỏ và cung răng. Có nhiều cách phân loại khe hở môi một bên, nhưng
trên lâm sàng, theo mức độ, thường chia làm 3 loại:
- Khe hở môi màng: thể hiện bằng một rãnh hay một đường sẹo nằm trên
môi và chạy song song với gờ nhân trung tới môi đỏ. Đôi khi chỉ là một rãnh
khuyết nằm ở vùng mơi đỏ. Tồn bộ mơi hai bên vẫn dính với nhau qua một
cầu mơ (dải Simonat) có kèm theo nền lỗ mũi giãn rộng nhẹ


Hình 1.6: KHM màng
- Khe hở mơi khơng tồn bộ: có nhiều mức độ khác nhau từ bé đến lớn,
nhưng khe hở không lan đến nền lỗ mũi. Một số trường hợp khe hở khơng
tồn bộ rất nhẹ, tổn thương môi chỉ biểu hiện là một khía chữ V ở viền mơi
đỏ. Dải Simonat >1/3 chiều dài mơi trên.
- Khe hở mơi tồn bộ: Khe hở tách tơi tồn bộ mơi trên, khe hở lan
đến nền lỗ mũi, tiền đình và cung răng hàm trên. Dải Simonat < 1/3 chiều
dài môi trên.


18

Hình 1.7: Hình ảnh KHM một bên khơng tồn bộ và KHM một bên toàn bộ
1.3. Các phương pháp tạo hình KHM
1.3.1. Lịch sử các phương pháp tạo hình mơi [5], [14], [16], [17], [18], [19].
* Ở nước ngoài
Trải qua nhiều thế kỷ lịch sử phẫu thuật tạo hình KHM- VM bẩm sinh
đã phát triển và không ngừng cải tiến với nhiều phương pháp khác nhau [17].

Hình 1.8: Các phương pháp tạo hình KHM theo tiến trình lịch sử [17].
Những tài liệu cổ nhất trong y văn tìm thấy được về tạo hình KHM là ở
thời kỳ 25 năm TCN, ở La Mã Trung Quốc. Lúc đầu người ta dùng kim ba
cạnh để rạch mép khe hở hoặc dùng que sắt nung nóng hay hóa chất để đốt
cháy 2 bờ mép, sau đó dùng kim loại hoặc băng dính, để dính 2 mép lại với


19

nhau. Dần dần về sau người ta dùng dao để rạch, biết tách rời niêm mạc môi
khỏi xương để dễ di chuyển và khâu bằng chỉ có bơi sáp…

- Thế kỷ XVI Embroise Paré (1584) (là phẫu thuật viên người Pháp) tạo
hình KHM bằng phương pháp dùng kim xuyên qua 2 bờ khe hở môi rồi dùng
chỉ cuốn quanh sợi kim để cố định KHM [17].

Hình 1.9: Phương pháp tạo hình KHM của Embroiser Pare (1584)
- Thế kỷ XIX và XX Rose (1891) và Thompson (1912): Phẫu thuật tạo
hình KHM bằng các đường rạch thẳng và bắt đầu có những cải tiến là tăng
chiều cao môi bằng các đường rạch gấp khúc.

Hình 1.10: Tạo hình KHM bằng đường rạch thẳng hay gấp khúc
- Cũng thế kỷ XIX Giraldes (1866): PT KHM bằng sử dụng tạo hình


20

chữ Z. Với kỹ thuật tạo hình chữ Z vừa tăng được chiều cao môi, vừa chỉnh
được trục của trụ mũi

Hình 1.11: Tạo hình KHM bằng tạo hình chữ Z
- Đến Thế kỷ XX Blair (1930), Brown (1945): các tác giả bắt đầu muốn
tạo ra đường sẹo tự nhiên hơn. Sử dụng các đường rạch cong hay vạt tam giác
phía dưới để tăng chiều cao môi. Như vậy tăng chiều cao không chỉ ở phần da
mà cả phần môi đỏ. Nhưng sẹo vẫn là đường thẳng

Hình 1.12: Tạo hình KHM bằng tạo hình chữ Z cả mơi đỏ
- 1949 Le Mesurier đã sử dụng phương pháp tạo hình KHM bằng
vạt tứ giác


21


Hình 1.13: Tạo hình KHM bằng vạt tứ giác
Phương pháp này giúp tăng chiều cao nhiều nhất, nhưng có nhược điểm
là sẹo nằm ở giữa nhân trung, đường sẹo không tự nhiên.
- (1952) Tennisson đưa ra phương pháp tạo hình mơi bằng vạt tam giác

Hình 1.14: Tạo hình KHM bằng vạt tam giác
- 1959 Randall đã đưa ra phương pháp về cơ bản giống phương pháp vạt
tam giác của Tennision nhưng ơng đã dùng cơng thức hình học giúp tính tốn
đo đạc một cách chính xác hơn.
- Năm 1957 Millard đã giới thiệu phương pháp dùng vạt xoay đẩy
của mình.


22

Hình 1.15: Tạo hình KHM bằng vạt xoay- đẩy (Phương pháp Millard)[10].
- Năm 1964 Millard đã đề nghị cải tiến bổ sung cho phương pháp của
mình bằng việc thêm đường rạch “back- cut” ở chân vách mũi với mục đích
hạ thấp thêm đỉnh cung cupidon bên môi bệnh và khâu kéo dài vách mũi.
- Năm 1968 cũng chính tác giả đề nghị cải tiến lần 3 với việc tạo vạt
tam giác nhỏ ở viền da làn môi đỏ nhằm mục đích tăng chiều dài và cắt ngang
hướng co của sẹo.
Ngày nay đa số các phẫu thuật viên sử dụng kỹ thuật Millard cải tiến để
phẫu thuật cho bệnh nhân KHM.
* Tại Việt Nam [14], [16],[18], [20], [21]:
Phẫu thuật KHM đã được thực hiện tại Việt Nam bắt đầu từ năm 1956
ở khoa RHM bệnh viện Việt Đức và Viện Quân Y 108. Cho tới nay rất nhiều
phương pháp đã được áp dụng, nhiều bệnh viện đã tiến hành phẫu thuật.
- Võ thế Quang- Nguyễn Văn Thụ đã phẫu thuật theo phương pháp của

Veau- Rosenthal vào những năm 1956- 1958. Năm 1959 mổ ca đầu tiên theo
phương pháp của Tenison, năm 1960 mổ bệnh nhân đầu tiên theo phương
pháp Le Mesurier. Đến 1961 Võ Thế Quang là người đầu tiên dùng phương
pháp Millard để phẫu thuật cho bệnh nhân KHM.
- Năm 1962 Nguyễn Khác Giảng và Nguyễn Văn Thụ đã cải tiến đường
rạch và tạo khe chêm cho phương pháp Le Mesurier
- Năm 1981, Mai Đình Hưng áp dụng các phương pháp Trauner,
Asenssion có cải biên để mổ cho những trường hợp KHM một bên rộng.


23

- Năm 1994 tác gải Nguyễn Viết Sơn áp dụng phương pháp Millard
trong phẫu thuật KHM một bên toàn bộ.
- Năm 1995 tác giả Phạm Như Hoa ứng dụng phương pháp Millard cải
tiến trong phẫu thuật KHM một bên.
- Năm 2009 tác giả Nguyễn Văn Minh ứng dụng tạo hình chữ Z ở trên
đường viền da- môi đỏ trong phương pháp Millard mổ KHM 1 bên toàn bộ
- Năm 2013, tác giả Trần Phương Bình ứng dụng phương pháp Millard
cải tiến trong KHM một bên toàn bộ.
- Năm 2015, Khoa Tạo hình sọ mặt bệnh viện Nhi trung ương Sử dụng
các kỹ thuật Millard, Onizuka và Tenisson và kỹ thuật Zplasty, ghép sụn trong
phẫu thuật tạo hình khe hở mơi và biến dạng mũi.
Cho đến nay phương pháp thông dụng nhất là Millard và Tennision.
1.3.2. Các phương pháp tạo hình KHM một bên hay sử dụng hiện nay [5],
[10], [11], [12], [15].
+ Mục tiêu của phẫu thuật tạo hình KHM, Theo Millard [5], [11], [22]:
- Kết nối hai bên khe hở mà không mất các mốc tự nhiên bao gồm phần
còn lại của cung Cupid hoặc hõm nhân trung. Loại bỏ ít tổ chức nhất có thể.
- Tạo sự liên tục và cân đối của cung Cupid.

- Sẹo nằm ở đường tự nhiên.
- Các cơ được nối với nhau toàn bộ chiều dày
- Tạo hình mơi đỏ với chiều dầy đồng đều.
- Cánh mũi cân đối và trụ mũi cân bằng hai bên.
+ Kỹ thuật tạo hình KHM.
KHM phải được tạo hình theo 3 lớp: Da, cơ, niêm mạc. Có nhiều
phương pháp để đóng KHM, các phương pháp này về cơ bản là khác nhau về
cách đóng da và mức độ can thiệp vào cơ.


24

* Phương pháp tạo hình cho da:
Tạo hình da KHM về cơ bản có thể phân thành 2 nhóm phẫu thuật là đường
thẳng và chữ Z;
+ Kỹ thuật đường thẳng: Rose- Thompson, Mirault-Blair-BrownMcDowell
+ Tạo hình chữ Z ở nửa trên mơi: Millard, Wynn
+ Tạo hình chữ Z ở nửa dưới mơi: Tennison- Randall, Le Mesurier
+ Tạo hình chữ Z ở tồn bộ mơi: Skoog, Trauner
 Tạo hình KHM một bên bằng phương pháp đường rạch thẳng (kỹ
thuật Rose Thompson).
Đây là kỹ thuật rạch da dọc hai bên bờ khe hở và khâu trực tiếp hai bờ
khe hở vào với nhau. Phương pháp này dễ thực hiện và tạo ra một đường sẹo
thẳng chạy theo nếp gờ nhân trung

Hình 1.16: Kỹ thuật đường thẳng Rose- Thompson
+ Kỹ thuật Rose Thompson được sử dụng cho các trường hợp có khe hở
nhỏ, (khơng điển hình).
+ Uu điểm: kỹ thuật dễ thực hiện với hình học đơn giản. Kỹ thuật này
bao gồm cắt góc mép khe hở với đóng thì một khơng sử dụng bất cứ vạt nào.

+ Nhược điểm: sẹo thẳng co rút, dễ kéo hếch làn môi đỏ và ngắn chiều
cao da môi, mất đường viền trên của môi, độ nhô của mơi đỏ khơng cân đối
và khơng có sự phục hồi của cơ vịng mơi nằm phía dưới.


25

 Tạo hình KHM một bên bằng phương pháp vạt hình tứ giác (pp Le
Mesurier)

Hình 1.17: Kỹ thuật tạo hình KHM bằng vạt tứ giác.
Le Mesurie năm 1949 đã sử dụng vạt da và niêm mạc hình tứ giác ở bên
khe hở chèn vào bên lành.
- Phương pháp này hiện nay khơng cịn sử dụng do có hai nhược điểm là
đường sẹo không tự nhiên ngay giữa nhân trung và cắt đi nhiều tổ chức phần
ngồi mơi dễ gây lệch và thiếu chiều dài mơi.
 Tạo hình KHM một bên bằng phương pháp vạt chèn tam giác (Kỹ
thuật Tennision- Randall)

Hình 1.18: Kỹ thuật Tennision- Randall
Tennision sử dụng một vạt tam giác nhỏ ở bờ ngoài khe hở sát viền
cung cupidon dịch chuyển và chèn vào khuyết tam giác ở bờ trong khe hở
cũng sát cung cupidon. Năm 1959 Randall trên cơ sở của phương pháp này
đã đưa toán học vào để tính tốn các vạt khi phẫu thuật nên người ta gọi
phương pháp này là Tennision- Randall.


×