Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

nghien cuu tac dong cua bien doi khi hau va xay dung mo hinh thich ung o vung trung thap tinh thua thien hue

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.36 MB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU </b>



<b>VÀ XÂY DỰNG MƠ HÌNH THÍCH ỨNG Ở VÙNG TRŨNG THẤP </b>


<b>TỈNH THỪA THIÊN HUẾ</b>



LÊ VĂN THĂNG *
NGUYỄN ĐÌNH HUY**
HỒ NGỌC ANH TUẤN**


<b>TÓM TẮT</b>


<b> Từ những kết quả nghiên cứu đạt được về các biểu hiện và tác động của biến đổi </b>
khí hậu tại tỉnh Thừa Thiên Huế, nghiên cứu này đã tiếp tục xây dựng được một số mơ
hình thích ứng với biến đổi khí hậu cho vùng trũng thấp, gồm: Mơ hình trồng rau; Mơ
hình ni thủy sản và Mơ hình nhà cộng đồng.


<b>ABSTRACT</b>


From the results of research into the expression and impacts of climate changes
in Thua Thien Hue province, some climate change adaptation models have been
developed for low-lying area, including vegetable model, aquaculture model and
community house.


<i><b>Key words: climate change; adaption models; vegetable model; aquaculture </b></i>


<i>model; community house; Thua Thien Hue province.</i>


<b>1. Mở đầu</b>


Biến đổi khí hậu khơng cịn là vấn đề của một quốc gia riêng lẻ mà là vấn đề
chung của tồn cầu. Biến đổi khí hậu tác động đến những yếu tố cơ bản của đời sống


con người trên phạm vi toàn cầu như nước, lương thực, năng lượng, sức khỏe và môi
trường. Hàng trăm triệu người trên thế giới có thể lâm vào nạn đói, thiếu nước, lụt lội
và bệnh tật do Trái đất nóng lên và nước biển dâng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

khoảng 12% hệ thống tỉnh lộ sẽ bị ảnh hưởng [3].


Ở tỉnh Thừa Thiên Huế, biến đổi khí hậu khơng còn là nguy cơ mà đã trở thành
hiện thực rõ ràng. Người dân địa phương thường xuyên phải chịu tác động của các thiên
tai nghiêm trọng như bão, lũ lụt, hạn hán, rét đậm, rét hại, lốc, tố,... Thiên tai và các hiện
tượng thời tiết cực đoan đang ngày càng trở nên thường xuyên hơn với cường độ mạnh
hơn do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.


Chính vì thế, việc nghiên cứu, đánh giá ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và xây
dựng các mơ hình thích ứng là một việc làm cần thiết và cấp bách.


<b>2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu</b>
2.1. Phạm vi nghiên cứu


Thừa Thiên Huế với địa hình khá đa dạng và phức tạp, với 3/4 diện tích là vùng
núi và gò đồi. Phần còn lại là đồng bằng ven biển và đầm phá, trong đó có nhiều vùng
thấp trũng.Hiện nay, vấn đề biến đổi khí hậu với những biểu hiện rõ về sự gia tăng nhiệt
độ và mực nước biển dâng đã gây ra những ảnh hưởng ngày càng lớn đến các đồng
bằng ven biển và đầm phá, đặc biệt là những vùng thấp trũng. Xã Hương Phong (huyện
Hương Trà) và xã Quảng Thành (huyện Quảng Điền) là những địa phương thuộc vùng
đồng bằng thấp trũng ven phá Tam Giang và hạ lưu của hệ thống sông lớn nhất tỉnh Thừa
Thiên Huế - hệ thống sông Hương (Tả Tạch, Hữu Trạch, sông Hương và sông Bồ). Do
vậy, đây là vùng chịu tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu đã và đang diễn ra hiện
nay. Chính vì thế, nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào hai xã Hương Phong và Quảng
Thành, được xem là các địa phương tiêu biểu của vùng thấp trũng ở Thừa Thiên Huế.



<b>Hình 1. Bản đồ vị trí khu vực nghiên cứu</b>
2.2. Phương pháp nghiên cứu


Trong quá trình nghiên cứu, đã sử dụng các phương pháp sau đây:


<i>- Phương pháp thu thập, thống kê, tổng hợp tài liệu: Thông qua các buổi tiếp </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

những tác động của biến đổi khí hậu lên khu vực.


<i>- Phương pháp điều tra khảo sát thực địa: Đã tổ chức nhiều đợt điều tra, khảo sát </i>


thực địa tại địa bàn nghiên cứu để nắm bắt các vấn đề về kinh tế-xã hội và môi trường
tại đây.


<i>- Phương pháp đánh giá nhanh nơng thơn có sự tham gia (PRA): Nghiên cứu đã </i>


sử dụng phương pháp PRA như là một công cụ để tiến hành làm việc với chính quyền
và người dân địa phương nhằm tìm hiểu, phân tích, đánh giá tình hình kinh tế-xã hội,
những tác động của biến đổi khí hậu và khả năng thích ứng của người dân địa phương.


<i>- Phương pháp bản đồ và GIS: Việc ứng dụng các phần mềm bản đồ cùng các </i>


phép phân tích khơng gian trong mơi trường GIS để thể hiện các kết quả trên bản đồ
là rất hữu ích trong việc phân vùng hiện trạng phát triển kinh tế-xã hội, phân vùng tổn
thương do biến đổi khí hậu.


<i>- Phương pháp phân tích chuỗi: Cách tiếp cận cơ bản nhất trong xây dựng mơ </i>


hình sinh kế thích ứng với biến đổi khí hậu, thiên tai bão lũ ở khu vực nghiên cứu là
phân tích chuỗi tác động theo nguyên lý nguyên nhân – hệ quả: Biến đổi khí hậu à


Thiên tai bão lũ à Tổn thất người và của cải, tổn thương môi trường à Biện pháp chống
chịu, thích ứng à Mơ hình sinh kế quy mơ hộ gia đình và quy mơ cộng đồng.


<b>3. Kết quả và thảo luận</b>


3.1. Những biểu hiện của biến đổi khí hậu ở tỉnh Thừa Thiên Huế


<i>- Nhiệt độ. Qua đánh giá nhiệt độ không khí trung bình tại Huế từ gần 100 năm </i>


nay có xu hướng giảm một ít, mỗi thập kỷ giảm khoảng 0,1o<sub>C, ngược lại với xu thế </sub>


chung của cả nước. Tuy nhiên, nếu đánh giá theo nhiệt độ tối cao trung bình thì vẫn có
xu hướng tăng. Mùa đông rét đậm xuất hiện tương đối nhiều trong 30 năm qua [2].


<i>- Mưa, lũ. Trong 100 năm qua lượng mưa trung bình năm có sự biến động mạnh </i>


mẽ, bên cạnh những thập kỷ mưa nhiều như thập kỷ 40 và 90 của thế kỷ XX, có những
thập kỷ mưa ít như 70 và 80. Nếu như những năm 1953, 1964, 1975, 1983, 1998, 1999
và 2007 là những năm lũ lụt lớn, thì những năm 1977, 1993-1994, 1997, 1998 bị hạn hán
nghiêm trọng. Những năm bị hạn thường là những năm có hiện tượng Elnino và những
năm lũ lụt nhiều có liên quan đến hiện tượng Lanina. Nhìn chung, tổng lượng mưa hàng
năm có xu thế tăng và tăng mạnh trong vài năm gần đây. Trong những năm xuất hiện
Lanina thì lượng mưa tăng mạnh [2].


<i>- Bão và áp thấp nhiệt đới. Trong thời kỳ 1891-2000 (110 năm), trung bình mỗi </i>


năm có 4,74 cơn bão và 4 áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến Việt Nam; 0,79 cơn ảnh
hưởng đến Thừa Thiên Huế. Nếu lấy trung bình từ 1954 đến 2002 thì số cơn bão ảnh
hưởng đến Việt Nam tăng lên 6,1 cơn và ảnh hưởng đến Thừa Thiên Huế là 0,87 cơn.



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

vào các năm này, thường xảy ra các đợt mưa lớn diện rộng kế tiếp nhau, kéo dài nhiều
ngày, gây ngập lụt nghiêm trọng, điển hình là các năm 1964, 1970, 1971, 1996, 1998 và
1999, 2006 và 2009 [2].


<i>- Hạn hán. Mặc dù Thừa Thiên Huế là địa phương có lượng mưa lớn của cả nước, </i>


nhưng chế độ mưa phân bổ không đều trong năm nên tạo cho khu vực này có 2 mùa:
mùa mưa và mùa ít mưa. Mùa ít mưa có thể tính từ tháng I đến tháng VIII với tổng lượng
mưa dao động 762-907mm, chiếm 25-28% lượng mưa năm. Trong mùa ít mưa, thời gian
khơng mưa kéo dài có thể lên đến 19-31 ngày, đồng thời khả năng bốc hơi cao, vì thế
gây nên tình trạng hạn hán khốc liệt. Hạn hán ở khu vực nghiên cứu xảy ra gây gắt nhất
là vào tháng V-VII, thời kỳ mà khả năng bốc hơi đạt 92-135mm/tháng, đồng thời là thời
gian hoạt động mạnh của gió mùa Tây Nam khơ nóng cộng với nền nhiệt độ cao (có thể
lên 40o<sub>C) [2].</sub>


<i>- Nước biển dâng. Phân tích số liệu mực nước biển tại Hịn Dấu và Vũng Tàu từ </i>


năm 1957 đến nay cho thấy rõ xu thế tăng lên của mực nước biển là có thực với mực
nước dâng cao 2,3mm/năm ở ven các đồng bằng lớn ở Việt Nam trong khoảng 40 năm
qua. Đối với ven biển miền Trung cũng thấy xu thế tăng lên của mực nước biển, tuy
nhiên mức độ nhỏ hơn.


3.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến tỉnh Thừa Thiên Huế


Biến đổi khí hậu đã tác động lên tất cả các ngành nghề và các lĩnh vực khác nhau
ở tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung, khu vực xã Hương Phong và xã Quảng Thành nói
riêng.


<i>- Tác động đến nơng nghiệp:</i>



Biến đối khí hậu tác động đến sản xuất nông nghiệp và an ninh lương thực rất lớn.
Biến đổi khí hậu gây biến động về năng suất sản lượng cây trồng và vật nuôi, thay đổi cơ
cấu, thời vụ cây trồng vật nuôi, biến đổi về nhu cầu nước. Nước biển dâng làm suy giảm
diện tích đất canh tác (vùng đầm phá). Tại tỉnh Thừa Thiên Huế, những tác động của thiên
tai, cụ thể là bão lụt, hạn hán và gần đây là rét đậm kéo dài thường gây thiệt hại không nhỏ
đến sản xuất nông nghiệp.


Năm 2006, bão Xangsane với sức gió cấp 10, 11 đã ảnh hưởng đến các huyện
phía nam của tỉnh Thừa Thiên Huế, gây ngập lụt trên toàn Tỉnh, đã làm gãy đổ hơn
15.500 ha rừng kinh tế và gần 500 ha cao su đang trong thời kỳ khai thác.


Năm 2007, lũ lụt liên tục trong tháng X, tháng XI đã làm cho 1.039 tấn lúa giống,
666 tấn lúa thịt và 300 tấn giống lạc bị ướt; 1.400 ha sắn công nghiệp, 1.235 ha khoai
lang và rau các loại bị ngập, hư hỏng. Hơn 1.200 gia súc và 15.000 gia cầm bị chết,
cuốn trôi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>- Tác động đến nuôi trồng thủy sản:</i>


Nuôi trồng thủy sản là ngành rất dễ bị tác động bởi các loại hình thiên tai, đặc biệt
là bão. Biến đổi khí hậu đã làm ảnh hưởng đến nhiều nghề khai thác truyền thống tại
các vùng ven biển. Các nghề khai thác chính ở đầm phá là đăng, đáy, lưới, chài, vó, rớ,
te, rê, soi, xẻo, xúc thủ cơng… chủ yếu khai thác nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên của đầm
phá. Có thể nói, các nghề khai thác thuỷ sản quy mơ nhỏ này chính là sinh kế chính của
cộng đồng địa phương vùng đầm phá. Khi nguồn lợi thuỷ sản ở các vùng đầm phá bị suy
giảm do cả nguyên nhân biến đổi khí hậu và tác động của con người, nhiều nghề khai
thác truyền thống đã bị mai một. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy số lượng cá Chình
bắt được trước năm 1972 khoảng 100 con/trộ sáo, vào đầu những năm 1990 còn 3-4 con/
trộ sáo, giảm 96-97%.


Đồng thời, sản lượng khai thác thuỷ sản vùng đầm phá cũng ngày càng suy giảm


do tác động của con người và biến đổi khí hậu. Các biểu hiện của biến đổi khí hậu như
nước biển dâng, lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn,… đều gây ảnh hưởng lên sinh vật thuỷ
sinh và nguồn lợi thuỷ sản vùng đầm phá. Trước năm 1975, sản lượng đánh bắt thuỷ
sản trên các đầm phá đạt khoảng 4500 tấn/năm, hiện sản lượng chỉ còn khoảng
2000-2500 tấn/năm, giảm đi khoảng 40%.


<i>- Tác động đến ngành du lịch - dịch vụ:</i>


Biến đổi khí hậu cịn tác động lên ngành dịch vụ-du lịch và làm thay đổi cơ sở
hạ tầng cũng như cơ cấu xã hội liên quan đến du lịch, đặc biệt ở vùng núi, đồng bằng
và ven biển. Cơ sở hạ tầng của các khu di tích bị hư hỏng do lũ lụt, bão. Khách du lịch
đến Huế giảm vào mùa lũ, mùa mưa làm giảm nguồn thu của ngân sách địa phương.
Hiệu quả tổ chức thành cơng các chương trình du lịch với các hoạt động tham quan, vui
chơi giải trí ngồi trời bị thấp đi do du lịch chủ yếu bao gồm các hoạt động nghỉ dưỡng,
vui chơi giải trí và lữ hành nên phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố thời tiết. Như vậy,
nếu thời tiết xấu, các hoạt động du lịch sẽ bị ảnh hưởng rất lớn, thậm chí, trong nhiều
trường hợp các chương trình du lịch cịn bị hủy bỏ.


<i>- Tác động đến con người và cơ sở hạ tầng:</i>


Lịch sử đã ghi nhận, trong thế kỷ XIX giai đoạn 1801-1888 ở kinh thành Huế
và vùng phụ cận phải hứng chịu 40 trận lũ lớn, trong đó một số trận điển hình với các
thiệt hại như sau:


- Trận lũ năm 1811 đã tràn ngập kinh thành Huế 3,36m, mở ra cửa Tư Hiền.
- Năm 1818 lũ làm kinh thành Huế ngập sâu 4,2m.


- Các trận lũ liên tiếp trong hai năm 1841-1842 làm hơn 700 ngôi nhà bị sập đổ, lăng
Minh Mạng bị hư hại nặng, số lượng người chết rất nhiều.



- Trận lũ tháng 10 năm 1844 đã làm thiệt mạng hơn 1.000 người, 2.000 ngơi nhà
bị phá hủy hồn tồn, cột cờ ở kỳ đài bị gãy, kinh thành Huế ngập sâu 4,2m.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Bước sang thế kỷ XX, Thừa Thiên Huế đã nhiều lần bị lũ tàn phá, đáng chú ý là
các trận lũ sau:


- Trận lũ từ ngày 20 đến 26 tháng 9 năm 1953 làm 500 người thiệt mạng, 1.290
ngôi nhà bị trôi, 300 con trâu, bị bị chết hoặc bị cuốn trơi, 80% diện tích hoa màu bị
mất trắng. Tại kinh thành Huế, lũ đã phá đổ cửa Quảng Đức.


- Từ ngày 28 tháng 10 đến ngày 1 tháng 11 năm 1983 một trận lũ lớn ở Thừa
Thiên Huế đã làm cho 252 người bị chết, 115 người bị thương, 2.100 ngôi nhà bị sập,
1.511 ngơi nhà, 2.566 con trâu bị và 20.000 con lợn bị trôi.


- Trong trận lũ lịch sử đầu tháng 11 năm 1999 có 352 người chết, 21 người mất
tích, 99 người bị thương. Số nhà bị đổ, bị cuốn trôi là 25.015 cái, 1.027 trường học bị
sụp đổi, 16.537 gia súc và lên đến 879.676 con gia cầm bị chết. Tổng thiệt hại lên đến
1.761,82 tỷ đồng.


Thống kê sơ bộ cho thấy ở Thừa Thiên Huế từ năm 1990 đến 2006 trung bình
hàng năm có 29 người chết và tổn thất tài sản 316,584 tỷ đồng do thiên tai gây ra. Lũ lụt
là thiên tai gây nhiều thiệt hại nhất. Đặc biệt đợt lũ năm 1999 là thiên tai gây hậu quả
nặng nề nhất kể từ 100 năm nay ở Thừa Thiên Huế.


3.3. Xây dựng một số mơ hình thích ứng với biến đổi khí hậu cho vùng trũng
thấp tỉnh Thừa Thiên Huế


Trên cơ sở những tác động của biến đổi khí hậu, đồng thời dựa vào đặc điểm về điều
kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của địa bàn nghiên cứu, đã xây dựng được một số mơ hình
giúp người dân thích ứng với biến đổi khí hậu được đánh giá rất có hiệu quả, gồm:



<i>3.3.1. Mơ hình trồng rau thích ứng với biến đổi khí hậu và thời tiết</i>


Vùng rau ở các địa phương trong khu vực nghiên cứu thường được trồng tập
trung chủ yếu vào mùa ít mưa và chia làm hai vụ (vụ đơng xn và vụ hè thu); cịn
về mùa mưa, hầu như đất trồng rau bị bỏ hoang (cho đất nghỉ). Phần lớn, bà con gieo
trồng và phân bố các loại rau tương đối phù hợp với đặc tính của khí hậu, tuy nhiên
phương thức canh tác vẫn mang tính tự phát và truyền thống, ít áp dụng các phương
pháp khoa học kỹ thuật vào gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch. Do đó năng suất không
cao, chất lượng chưa tốt, khi gặp các điều kiện ngoại cảnh bất lợi thì cách xử lý cịn rất
lúng túng và ảnh hưởng không tốt đến mùa vụ.


Nhiều năm trở lại đây, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, sự thay đổi thời tiết ở
đây khơng cịn mang tính quy luật, độ dao động nhiệt độ ngày càng lớn, các cơn bão
xuất hiện với tần suất và cường độ ngày càng tăng kéo theo hàng loạt các thiên tai như
khô hạn, lũ, lụt, ngập úng, đất và nước bị nhiễm mặn,... Các hiện tượng này đã ảnh
hưởng không nhỏ đến thời vụ gieo trồng, cơng tác chăm sóc và năng suất của các vườn
rau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>gieo trồng rau theo kiểu “mơ hình vườn treo” đã được triển khai xây dựng thí điểm tại </i>
04 hộ gia đình của hai xã vùng trũng thấp của tỉnh Thừa Thiên Huế: xã Quảng Thành
và xã Hương Phong.


Trong 05 tháng thực hiện mô hình, tại khu vực triển khai đã trải qua một trận
lụt (tháng 11/2010 Dương lịch) với mực nước từ 50-60 cm, mơ hình vẫn khơng bị ảnh
hưởng gì và vẫn có thể canh tác bình thường với chất lượng rau khá tốt và cho thu nhập
cao hơn gấp 3-4 lần so với những vụ khác trong năm (vụ khơng ngập) do tại thời điểm
đó, rau khan hiếm nên giá tăng cao. Ngoài mục tiêu chống ngập thì mơ hình cịn có tác
dụng điều tiết ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, ngăn mưa lớn trực tiếp, hạn chế sâu bệnh...
nên việc canh tác khơng cịn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khách quan như thời tiết


khí hậu và chất lượng rau được nâng lên, ít mất thời gian chăm sóc, giàn được sử dụng
quanh năm.


Trong những vụ không ngập, rau vẫn được trồng trên giàn bình thường. Ngồi
ra, phía dưới giàn có thể tận dụng để chăn ni, trồng trọt các loại cây ưa bóng,
chịu bóng...


<b>Hình 2. Mơ hình trồng rau trên giàn thích ứng với biến đổi khí hậu</b>
Ưu điểm của mơ hình trồng rau trên giàn:


- Giàn có tác dụng chống úng ngập, mái che để tránh gió và mưa;
- Cây trồng khơng có hiện tượng bị chết cây con hoặc thối gốc;
- Người trồng rau có thể kiểm soát được độ tơi xốp và độ phù của đất;


- Chế độ chăm sóc tốt hơn vì các điều kiện ngoại cảnh có thể được khống chế;
- Mặc dù chi phí đầu tư lớn hơn, tốn cơng nhiều hơn so với gieo trồng dưới mặt
đất, nhưng hiệu quả rất cao; cây rau phát triển rất nhanh, chất lượng tốt, hiệu suất gần
như tuyệt đối.


<i>3.3.2. Mô hình ni thủy sản quảng canh cải tiến ven phá Tam Giang </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Tam Giang nói chung và khu vực xã Hương Phong, Quảng Thành nói riêng. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây do ảnh hưởng của dịch bệnh và đặc biệt do ảnh hưởng của biến
đổi khí hậu đã gây khơng ít khó khăn cho hoạt động nuôi trồng thủy sản dân nơi đây.


Qua phân tích tình hình ni trồng thủy sản tại khu vực nghiên cứu, hai mơ hình
ni trồng thủy sản thích ứng với biến đổi khí hậu đã được triển khai thực hiện thí điểm:
<i>“ni tơm sú kết hợp với cá kình” tại xã Quảng Thành và mơ hình “ni tơm sú kết hợp </i>


<i>với cá dìa và cua” tại xã Hương Phong. Trong hai mơ hình này, đối tượng ni có khả </i>



năng cải tạo mơi trường, ao ni và đảm bảo hiệu quả kinh tế, khắc phục hậu quả do ơ
nhiễm mơi trường, đồng thời thích ứng với điều kiện khí hậu thay đổi.


Các mơ hình đã được xây hệ thống bờ ao cao, kết hợp với hệ thống lưới chắn
được trang bị ngay từ khi bắt đầu ni, áp dụng quy trình kỹ thuật chặt chẽ, thường
xuyên tiến hành kiểm tra chất lượng ao ni và thu hoạch sớm nên đã đối phó được với
các hiện tượng thời tiết bất thường (lũ tiểu mãn, nắng nóng, cơn bão số 3/2010) góp
phần đưa hiệu quả kinh tế của mơ hình lên cao. Lợi nhuận trung bình các hộ ni đạt
từ 13 đến 21 triệu đồng/ hộ, trong đó mơ hình ni xem tơm sú - cá dìa - cua mang lại
hiệu quả kinh tế cao nhất.


<b>Hình 3. Mơ hình ni trồng thủy sản quảng canh cải tiến </b>
thích ứng với biến đổi khí hậu


<i>3.3.3. Mơ hình nhà cộng đồng thích ứng với bão lũ và mực nước biển dâng </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Vì thế, mơ hình nhà sinh hoạt cộng đồng thích ứng với bão lũ và nước biển dâng
là rất phù hợp và có ý nghĩa thiết thực đối với người dân nơi đây. Từ thực tiễn đó, nhà
sinh hoạt cộng đồng đã được triển khai xây dựng tại thôn Kim Đôi, xã Quảng Thành.
Công trình với tổng diện tích xây dựng là 100m2<sub>, chiều cao tầng trệt 1,7-1,8m, được </sub>


đặt trên hệ cột bê tơng cốt thép kích thước 200 x 200mm, sàn nhà được đổ bằng bê
tông cốt thép, tường sử dụng gạch tuy nen 6 lỗ, xây và tô trát vữa ximăng mác 75, mái
nhà sử dụng tơn sóng vng, xà gồ thép sơn chống rỉ có gia cố giằng chống bão, cửa
sổ và cửa đi bằng gỗ.


<b>Hình 4. Nhà sinh hoạt cộng đồng thích ứng với biến đổi khí hậu tại xã Quảng Thành</b>
Nhà sinh hoạt cộng đồng này có ý nghĩa rất lớn đối với cư dân nghèo thấp trũng
ở nơi đây. Đây vừa là nơi trú ẩn an toàn cho người dân trong mùa mưa bão đồng thời


cũng là nhà văn hóa đa năng, phục vụ cho các hoạt động giao lưu văn hóa-văn nghệ,
sinh hoạt cộng đồng và tổ chức các sự kiện.


<b>4. Két luận</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>


<i>1. Lê Văn Thăng và nnk, Bản tóm tắt chính sách: “Thích ứng với biến đổi khí hậu và các chính </i>


<i>sách liên quan ở tỉnh Thừa Thiên Huế”, NXB Đại học Huế, 02/2011.</i>


<i>2. Lê Văn Thăng (Chủ biên), Báo cáo tổng kết dự án FLC.09.04 và 10.04, Thích ứng biến đổi </i>


<i>khí hậu cấp cộng đồng và các chính sách liên quan ở Thừa Thiên Huế. NXB. Đại học Huế, 7/2011.</i>


</div>

<!--links-->

×