Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Hủy bản án sơ thẩm hình sự từ thực tiễn tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (806.97 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM ANH QUÂN

PHẠM ANH QUÂN

NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HỦY BẢN ÁN SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỊA
ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

KHĨA IX

Hà Nội, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM ANH QUÂN

HỦY BẢN ÁN SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỊA ÁN
NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN TẤT VIỄN



Hà Nội, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa được cơng bố trong
bất cứ cơng trình nào.
Người cam đoan

Phạm Anh Quân


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………...

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỦY
BẢN ÁN SƠ THẨM HÌNH SỰ……………………...………………………

7

Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của hủy bản án sơ thẩm hình sự……..…

7

1.1.


1.2. Các căn cứ hủy bản án sơ thẩm hình sự………….…………………....

11

1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hủy bản án sơ thẩm trong tố

tụng hình sự…………………………………………………………………..

18

Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH VỀ HỦY BẢN
ÁN SƠ THẨM HÌNH SỰ CỦA TỊA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.............................................................. .........
2.1.

32

Tình hình hủy bản án sơ thẩm hình sự tại Tịa án nhân dân cấp cao

Thành phố Hồ Chí Minh………………………………………………………

32

2.2. Thực tiễn thi hành các quy định về căn cứ hủy bản án sơ thẩm tại Tòa
án nhân dân cấp cao Thành phố Hồ Chí Minh..............................................

35

Chương 3: NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG SAI SÓT, VI PHẠM
TRONG HỦY BẢN ÁN SƠ THẨM VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC


53

3.1. Nguyên nhân của những sai sót, vi phạm trong hủy bản án sơ thẩm
hình sự……………………………………………………………………….

53

3.2. Một số kiến nghị.........................................................................................

59

KẾT LUẬN.......................................................................................................

76

TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT


Cơ quan điều tra

ĐTV

Điều tra viên

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên

TAND

Tịa án nhân dân

TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TTHS

Tố tụng hình sự


VAHS

Vụ án hình sự

VKS

Viện kiểm sát


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đấu tranh phịng, chống tội phạm không chỉ dừng lại ở việc ban hành Bộ
luật Hình sự (BLHS) quy định hành vi nào là hành vi phạm tội, hình phạt và
trách nhiệm hình sự (TNHS) kèm theo mà còn thể hiện ở việc đưa tội phạm ra
xét xử theo các thủ tục do pháp luật quy định. Với tinh thần đó, các cơ quan tố
tụng nói chung và Tịa án các cấp nói riêng đã không ngừng nỗ lực, phấn đấu
trong công tác xét xử, qua đó đạt được những kết quả đáng ghi nhận, thể hiện
qua chất lượng của lĩnh vực điều tra, truy tố, xét xử với nhiều chuyển biến
tích cực; tình trạng bắt giữ người trái pháp luật, truy tố oan, sai được hạn chế
đến mức thấp nhất, công tác xét xử được thận trọng, hoạt động tranh tụng
được đề cao, tính dân chủ, cơng khai, khách quan của phiên tòa ngày càng
được phát huy.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được hoạt động xét xử các vụ án
hình sự vẫn chưa đạt được yêu cầu, mục tiêu đề ra vì trong thực tế nhiều bản
án của tịa án cấp dưới bị Tòa án cấp trên tuyên hủy, sửa theo thủ tục phúc
thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vẫn còn xảy ra. Khi Tòa án cấp trên quyết
định hủy bản án hay sửa bản án hình sự của Tịa án cấp dưới ít nhiều có ảnh
hưởng đến q trình giải quyết vụ án, tính chất mức độ hành vi vi phạm, cũng
như việc xác định lỗi của người bị kết tội. Chính vì vậy, hủy bản án có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Nếu như việc hủy bản án của Tịa án cấp dưới chính

là việc Tịa án cấp trên không thể khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong
q trình áp dụng pháp luật của Tịa án cấp dưới hoặc do có những tình tiết
mới phát sinh liên quan đến việc giải quyết vụ án mà ở giai đoạn xét xử sơ
thẩm khơng có tình tiết đó thì việc hủy bản án (trừ trường hợp hủy và đình chỉ
vụ án) chủ yếu là nhằm tạo điều kiện để các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp

1


dưới khắc phục những vi phạm pháp luật nghiêm trọng để tiến hành điều tra,
xét xử lại hoặc chỉ để xét xử lại vụ án một cách khách quan và đúng đắn.
Nếu đánh giá sửa bản án hay hủy bản án hình sự ở góc độ liên hệ cùng
với hiệu lực thi hành của bản án thì bản án bị sửa có hiệu lực ngay cho dù
quyết định sửa đúng hay sai nhưng đối với bản án bị hủy thì phải quay trở lại
giai đoạn tố tụng trước đó, có thể phải điều tra lại hoặc xét xử lại. Do đó, việc
để nhiều vụ án phải xử lý lại, làm kéo dài thời hạn tố tụng không chỉ gây thiệt
hại lớn cho ngân sách của nhà nước, xã hội, mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi
của người tham gia tố tụng và nhất là làm mất lòng tin của nhân dân vào cơng
lý. Ngồi ra, mặc dù vấn đề hủy bản án hình sự là rất quan trọng nhưng quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 và một số văn bản
hướng dẫn thi hành Bộ luật đối với vấn đề này vẫn chưa thật sự chặt chẽ, chưa
đồng bộ, nhất là quy định hủy bản án trong một số trường hợp cụ thể nên đã
tạo ra khơng ít khó khăn, lúng túng cho Tịa án cấp trên khi áp dụng và trong
một số ít trường hợp là kẽ hở gây ra nhũng nhiễu, tiêu cực.
Chính vì vậy, việc tìm ra giải pháp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất có
thể các bản án hình sự bị hủy là yêu cầu đặt ra cấp thiết, có ý nghĩa rất quan
trọng, không chỉ giúp làm sáng tỏ về mặt khoa học mà còn là cơ sở để đánh
giá tính thực tiễn của pháp luật tố tụng hình sự (TTHS), hiệu quả về mặt xã
hội trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm. Tất cả những vấn đề nêu
trên là lý do mà học viên chọn đề tài “Hủy bản án sơ thẩm hình sự từ thực

tiễn Tịa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thực tế hiện nay, hủy bản án là một vấn đề được các cấp các
ngành hết sức quan tâm, cũng như những cán bộ làm cơng tác khoa học, trong
đó cũng có một số cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này như sau:

2


- Về luận văn: Huỳnh Lập Thành (2001) Giai đoạn xét xử phúc thẩm
trong tố tụng hình sự Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn
thạc sỹ, Đại học Luật, Hà Nội; Nguyễn Đức Mai (2004), Luận án tiến sỹ Luật
học, Phúc thẩm trong tố tụng hình sự, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn
Quốc gia (nay là Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam); Nguyễn Văn
Huyên (2002) Thẩm quyền của Tòa án các cấp theo luật Tố tụng hình sự Việt
Nam, Luận án tiến sỹ, Đại học Luật, Hà Nội; Phan Thị Thanh Mai (2003)
Giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
- Về bài báo khoa học: Đinh Văn Quế (2004) “Những trường hợp Hội
đồng giám đốc thẩm hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật
theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2003”, Tạp chí Tịa án, số 20; Đinh Văn Quế
(2004) “Những trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm”, Tạp
chí Tòa án số 17; Đỗ Đại Hữu (2006) “Xác định Tòa án xét xử lại, khi Tòa án
tối cao hủy bản án, quyết định của Tịa cấp dưới”, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 72; Phạm Thanh Hải (2007) “Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy bản án
sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án”, Tạp chí Tịa án, số 4; Vũ Gia Lâm (2012)
“Về quyền hủy bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại của Tịa
án cấp phúc thẩm”, Tạp chí Luật học, số 11; Đinh Văn Quế (2013) “Tòa án
cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại theo hướng có tội – những

vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Tịa án, số 8; Hồng Thị Liên (2005)
“Xử lý thế nào trong trường hợp tòa án cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm để
điều tra lại theo hướng nặng hơn đối với bị cáo”, Tạp chí dân chủ và Pháp
luật, số 5.
Tuy nhiên các tài liệu, bài báo khoa học, luận văn trên do phạm vi
nghiên cứu nên chỉ phân tích, bình luận, giải thích một số vấn đề về hủy bản
án mà chưa đi sâu phân tích làm rõ q trình thực hiện hủy bản án sơ thẩm

3


như thế nào, cũng chưa có tài liệu nào đề cập đến hủy bản án sơ thẩm hình sự
từ thực tiễn Tòa án nhân dân (TAND) cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
(TPHCM). Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài là cần thiết và phù hợp với yêu cầu
nâng cao chất lượng xét xử án hình sự trong cải cách tư pháp hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hủy bản
án sơ thẩm, đánh giá việc hủy bản án sơ thẩm từ thực tiễn xét xử của Tòa án
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó đưa ra một số
kiến nghị nhằm hạn chế những sai sót của tịa án nhân dân cấp dưới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về hủy bản án, mục đích, ý nghĩa của hủy
bản án; các nguyên tắc áp dụng đối với hủy bản án sơ thẩm hình sự.
- Phân tích đánh giá từng trường hợp cụ thể về thẩm quyền hủy bản án sơ
thẩm hình sự. Nêu kết quả và những hạn chế trong hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử của tòa án nhân dân cấp dưới thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nêu một số kiến nghị nhằm hạn chế những sai sót của TAND cấp dưới

dẫn đến việc TAND cấp cao hủy bản án, bảo đảm tốt hơn chất lượng xét xử
của các tòa án cấp tỉnh và cấp huyện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định của
pháp luật hình sự, tố tụng hình sự hiện hành về hủy bản án và thực tiễn áp
dụng ở Tòa án nhân dân cấp cao tại TPHCM.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

4


Về thời gian: Từ năm 2017 đến năm 2019.
Về không gian: Vấn đề hủy bản án sơ thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân
cấp cao tại TPHCM trên địa bàn 23 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp cao tại TPHCM.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp quyền. Các kiến nghị luận văn
đưa ra được nghiên cứu dựa trên các quan điểm định hướng chỉ đạo của Đảng
và nhà nước ta về cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai
đoạn hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình
sự như: phân tích, đối chiếu, tổng hợp. Luận văn tiến hành thu thập số liệu
thống kê về thực tiễn xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của TAND
cấp cao TPHCM trong các năm 2017, 2018, 2019.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận

Luận văn góp phần làm sáng tỏ khái niệm, mục đích, ý nghĩa, các
nguyên tắc áp dụng đối với hủy bản án sơ thẩm hình sự. Từ đó làm rõ các căn
cứ, trình tự, thẩm quyền và thủ tục hủy bản án sơ thẩm hình sự của TAND
cấp cao TPHCM.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Qua việc phân tích các quy định của pháp luật TTHS, chỉ ra những bất
cập, tồn tại góp phần giải quyết những khó khăn vướng mắc phát sinh trong
thực tiễn công tác. Từ đó giúp các cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra nguyên

5


nhân để xảy ra tình trạng hủy bản án sơ thẩm hình sự và đưa ra kiến nghị
nhằm khắc phục tình trạng này trong thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Nội dung chính của luận văn được sắp xếp gồm các chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về hủy bản án sơ thẩm
hình sự.
Chương 2. Thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về hủy bản án sơ
thẩm hình sự của Tịa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3. Nguyên nhân của những sai sót, vi phạm trong hủy bản án sơ
thẩm và các giải pháp khắc phục.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỦY BẢN ÁN SƠ
THẨM HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của hủy bản án sơ thẩm hình sự

1.1.1. Khái niệm hủy bản án sơ thẩm hình sự
Trong từ điển Tiếng Việt có nêu khái niệm về “hủy” đó là làm cho
khơng cịn tồn tại hoặc khơng cịn có giá trị nữa. Tuy nhiên, với cách tiếp cận
này còn rất chung chung, chưa xác định được các căn cứ để thực hiện việc
hủy bản án, chưa quy định rõ phạm vi áp dụng cũng như chủ thể nào sẽ trực
tiếp được giao quyền hủy bản án?
Vì vậy, theo pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành “Hủy bản án” là việc
Tồ án cấp trên có thẩm quyển ra quyết định bằng văn bản nhằm chấm dứt
hiệu lực thi hành đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án cấp
dưới khi phát hiện bản án, quyết định đó có sai sót. Qua đó, có thể đưa ra khái
niệm hủy bản án trong TTHS như sau: “Hủy bản án là một trong những
quyền của Tòa án cấp trên đối với bản án quyết định của Tòa án cấp dưới khi
có kháng cáo, kháng nghị. Tịa án cấp trên xét thấy có căn cứ theo quy định
của pháp luật nhằm hủy bỏ một phần hay toàn bộ nội dung trong quyết định
của Tòa án cấp dưới để tiến hành điều tra, xét xử lại những nội dung trong vụ
án đó hoặc quyết định đình chỉ vụ án”.
Từ khái niệm trên, có thể đưa ra một số đặc điểm của hủy bản án trong
TTHS như sau:
Thứ nhất, Tòa án cấp trên có quyền hủy bản án của Tịa án cấp dưới để
xét xử lại khi bản án đó bị kháng cáo, kháng nghị.
Thủ tục phúc thẩm được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc hai cấp xét xử,
nội dung của nguyên tắc này là bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị phải

7


được xét xử lại ở cấp phúc thẩm, còn nếu không bị kháng cáo, kháng nghị
trong thời hạn pháp luật quy định thì có hiệu lực thi hành.
Thứ hai, quyền hủy bản án được thực hiện khi có các căn cứ theo luật
định, tức là phải tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc pháp chế trong tố tụng.

Như vậy, trong trường hợp vụ án đó có đầy đủ các căn cứ theo luật quy
định thì cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện quyền hủy bản án, tức phải
tuân thủ các quy định mà pháp luật tố tụng hình sự đã đặt ra, khơng được làm
sai hoặc cố tình vi phạm những quy định đó khi áp dụng.
1.1.2. Mục đích
Thứ nhất, việc hủy bản án trong TTHS nhằm mục đích giúp cho các cơ
quan tiến hành tố tụng cấp dưới trong quá trình giải quyết vụ án phát hiện ra
những sai phạm, thiếu sót của mình qua đó có cách thức khắc phục, tạo điều
kiện để đưa vụ án ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật. Đây được xem
là yếu tố quan trọng giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xác định được những
bản án có vi phạm, tính chất mức độ như thế nào, làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến các quyền lợi cơ bản của công dân ra sao để quyết định có tiếp tục
thi hành bản án hay hoãn thi hành bản án.
Thứ hai, Đối với trường hợp bị cáo, bị hại, đại diện pháp luật hay Viện
Kiểm sát (VKS) có kháng cáo, kháng nghị yêu cầu hủy bản án, sửa bản án
hay giữ nguyên bản án. Trong trường hợp này thì tịa án mới quyết định thủ
tục xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm để đảm bảo các quyền, lợi
ích hợp pháp của bị cáo, bị hại, đại diện pháp luật … cũng như nhằm xác định
các tình tiết cịn chưa đầy đủ trong vụ án, đảm bảo quá trình giải quyết vụ án
được đầy đủ, đúng đắn, khách quan và cơng bằng.
Thứ ba, Tịa án là cơ quan nhân danh Nhà nước để thực thi pháp luật, vì
vậy đây được xem là chủ thể quan trọng góp phần làm sáng tỏ vụ án, chứng
minh được các tình tiết trong vụ án đó, ai là người có hành vi vi phạm, tính

8


chất, mức độ thiệt hại cũng như hậu quả xảy ra từ những hành vi đó như thế
nào và tất nhiên hình phạt đưa ra phải tương xứng với hành vi vi phạm đó mà
pháp luật quy định. Như vậy rõ ràng Tòa án phải xác định được những kháng

cáo, kháng nghị đó có căn cứ và hợp pháp hay khơng để đưa ra quyết định có
hủy bản án theo đúng thẩm quyền nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ án,
đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội danh, đúng quy định của pháp luật.
Đồng thời, qua đó đảm bảo tính răn đe, giáo dục phịng ngừa chung trong xã
hội; tạo uy tín lịng tin của người dân vào các cơ quan thi hành pháp luật, nhất
là tòa án.
Như vậy, mục đích của hủy bản án chính là để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân, tổ chức; đồng thời phát hiện, xử lý kịp thời các vi
phạm không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, để bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, các lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân, của tổ chức.
1.1.3. Ý nghĩa
Hủy bản án, quyết định của Tòa án là một biện pháp quan trọng góp
phần hạn chế tình trạng oan, sai đối với các bản án, quyết định của Tịa án;
nhằm đảm bảo tính đúng đắn trong thực tiễn áp dụng pháp luật, phù hợp với
định hướng cải cách tư pháp ở nước ta và xu thế phát triển chung của thời đại
trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, hủy bản án có ý nghĩa hết sức quan trọng
trên các mặt sau:
- Về mặt xã hội: Nếu như trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử của vụ
án có những sai sót thì việc hủy bản án sẽ góp phần khẳng định tính khách
quan, dân chủ của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như quyền lợi của
người tham gia tố tụng, trong việc chứng minh tính cơng bằng được xã hội
thừa nhận. Đồng thời qua đó góp phần làm sáng tỏ những vấn đề cịn bất cập,
những tình tiết chưa rõ ràng của vụ án, đảm bảo sự tin tưởng của người dân

9


nói chung và những người đang trong q trình áp dụng các biện pháp nhằm
phục vụ quá trình điều tra xử lý án nói riêng an tâm vào chính sách đúng đắn

của Đảng, Nhà nước và đảm bảo tính cơng bằng về mặt xã hội được nêu cao.
Việc hủy bản án cũng góp phần khẳng định vai trị và đảm bảo uy tín của các
cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tịa án nói riêng, tránh để xảy ra tình
trạng oan sai hay bỏ lọt tội phạm.
- Về mặt pháp lý: Việc hủy bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là căn cứ, cơ
sở pháp lý quan trọng để ghi nhận cũng như đảm bảo thực hiện một số nguyên
tắc cơ bản của luật TTHS, là cơ sở để hình thành nguyên tắc “Thực hiện chế
độ hai cấp xét xử”.
- Về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức: Việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức luôn luôn được Đảng và Nhà
nước ta quan tâm. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay đây được xem là một
trong những mục tiêu quan trọng của Nhà nước ta nhằm xây dựng một xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, việc tơn trọng và bảo đảm quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức là một trong những
nhiệm vụ của pháp luật nói chung cũng như pháp luật TTHS nói riêng. Tại
Điều 8 BLTTHS năm 2015 [15, tr.4] quy định cụ thể và chi tiết trách nhiệm
của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc tôn trọng và bảo
vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Như
vậy, hủy bản án sẽ là căn cứ, điều kiện để các cơ quan thực thi pháp luật xem
xét, đánh giá lại TTLT-VKSNDTCTANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 của VKS tối cao, TAND tối cao, Bộ
Công an, Bộ Quốc phòng quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng trong thực hiện một số quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra
bổ sung [24]. Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu phát sinh khó khăn, vướng

64


mắc, không thống nhất về đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, đường lối xử
lý hoặc nhận thức khác nhau về áp dụng văn bản quy phạm pháp luật giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng thì VKS cấp dưới cần chủ động trao đổi, thỉnh thị

VKS cấp trên, đồng thời phối hợp, trao đổi trực tiếp với CQĐT, Tòa án cùng
cấp họp liên ngành để thống nhất đường lối giải quyết, hạn chế các trường
hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng nhiều lần.
Trường hợp khơng thống nhất được thì xin ý kiến chỉ đạo liên ngành tố tụng
cấp trên để có sự thống nhất trong đường lối giải quyết.
Thứ năm, nâng cao trình độ chun mơn, kỹ năng nghiệp vụ, tinh thần
trách nhiệm của đội ngũ Kiểm sát viên
Đây là một trong những yếu tố quan trọng góp phần quyết định chất
lượng truy tố của VKS. Để nâng cao chất lượng đội ngũ KSV, việc quán triệt
thực hiện tốt các Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội, Chỉ thị của Ngành về
công tác tư pháp, đặc biệt là nhiệm vụ nâng cao chất lượng công tác thực
hành quyền công tố, phòng chống oan, sai, bỏ lọt tội phạm là rất cần thiết.
Trên cơ sở đó, định hướng cho KSV đề cao tinh thần trách nhiệm; tự học tập,
tự rèn luyện, đúc kết kinh nghiệm để nâng cao bản lĩnh chính trị, kỹ năng
nghiệp vụ; đẩy mạnh nghiên cứu, nắm vững các quy định của pháp luật, đặc
biệt là những quy định mới của BLHS, BLTTHS và các văn bản hướng dẫn
thi hành để phục vụ tốt cho công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp. Đồng thời, thông qua công tác thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử từng vụ án, lãnh đạo từng đơn vị phải có
những đánh giá thực chất về kết quả thực thi nhiệm vụ của từng KSV, kịp thời
khen thưởng, biểu dương những thành tích tốt trong cơng tác; nhắc nhở, kiểm
điểm, tổ chức rút kinh nghiệm chung những trường hợp để xảy ra vi phạm,
thiếu sót trong q trình giải quyết án. KSV phải thường xuyên tự mình đánh
giá lại kết quả hoạt động sau mỗi giai đoạn tố tụng, nghiêm túc rút kinh

65


nghiệm những thiếu sót, tiếp thu ý kiến góp ý của đồng nghiệp với thái độ cầu
thị để không ngừng hoàn thiện kỹ năng nghiệp vụ, hoàn thành tốt chức trách,

nhiệm vụ được giao.
3.2.1.3. Đối với Tòa án
Để đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng xét xử các loại án, cần tiếp
tục tập trung thực hiện tốt 14 giải pháp đột phá để nâng cao chất lượng công
tác xét xử mà TAND tối cao đã chỉ đạo.
Tăng cường đào tạo, bổ sung nguồn nhân lực, trong đó nhiệm vụ trước
mắt cần có sự phân cơng, sắp xếp, ln chuyển công tác đối với một số cán
bộ, công chức đảm bảo bổ sung nguồn nhân lực cho một số vị trí như thư ký,
thẩm phán, thẩm tra viên. Bên cạnh đó, đối với cơng tác quy hoạch lãnh đạo
cần tập trung bồi dưỡng, rèn luyện và sắp xếp phù hợp, đảm bảo nguồn cán bộ
thuộc diện quy hoạch đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và chất lượng.
Không ngừng phát huy vai trò thanh tra, kiểm tra, giám sát việc xét xử
và hoạt động công vụ đối với Thẩm phán và các Phòng giám định kỹ thuật.
Tăng cường công tác quản lý cán bộ, Thẩm phán; nâng cao kỷ cương, kỷ luật
công vụ, kịp thời khen thưởng, vinh danh những tập thể, cá nhân có thành tích
xuất sắc trong công tác; đồng thời xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm.
Kiến nghị với TAND tối cao đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách, đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp, trong đó tập trung đổi mới về định mức chi, chế độ
chi, định mức trang bị cung cấp phương tiện làm việc, nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho TAND các cấp.
Tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng, đề cao vai trò quản lý, chỉ
đạo, điều hành của Ban lãnh đạo cơ quan và lãnh đạo các bộ phận, Tịa Phịng
chun mơn. Cải tiến phương thức chỉ đạo, điều hành theo hướng phân công,
phân cấp hợp lý; phát huy tính sáng tạo và đề cao trách nhiệm người đứng
đầu; có các giải pháp đột phá để nâng cao hiệu quả công tác; đảm bảo gắn

66


việc thực hiện các nhiệm vụ công tác của đơn vị với việc thực hiện các yêu

cầu cải cách tư pháp.
Kịp thời xây dựng các thiết chế hoạt động, sửa đổi bổ sung nội quy, quy
chế nhằm phân định rõ quyền hạn với trách nhiệm công tác đối với từng bộ
phận, cá nhân trong cơ quan, đơn vị. Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số
96/2015/QH13 của Quốc hội ngày 26/06/2015 về tăng cường các biện pháp
phòng, chống oan, sai và bảo đảm bồi thường cho người bị thiệt hại trong hoạt
động tố tụng hình sự [19]. Tiếp tục đổi mới thủ tục hành chính tư pháp, xây
dựng nề nếp làm việc khoa học nhằm đảm bảo công khai, minh bạch, tạo điều
kiện thuận lợi cho người dân khi giải quyết cơng việc tại Tịa án. Khơng
ngừng giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn để cán bộ công chức nâng cao
trình độ chun mơn, chất lượng nghiệp vụ. Thực hiện tốt các giải pháp để
đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án.
Thực hiện nghiêm chế độ trách nhiệm đối với cán bộ, công chức trong
thực thi nhiệm vụ, công vụ; tự giác, nghiêm túc chấp hành “Quy tắc ứng xử
của cán bộ, công chức Tịa án nhân dân”.
Tăng cường cơng tác thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ, tập trung vào việc
khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong cơng tác, rút kinh nghiệm đối với
các bản án bị Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hủy theo trình tự giám đốc
thẩm và thực hiện tốt việc rút kinh nghiệm xét xử đối với TAND các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương khu vực phía Nam.
Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tố tụng trong quá
trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án, cũng như trong tổng kết thực tiễn đối
với những vụ án đã qua xét xử nhưng vẫn cịn những sai sót, vi phạm. Từ đó
kịp thời khắc phục và tiến tới xóa bỏ hồn tồn tình trạng vi phạm, oan sai
trong hoạt động tố tụng hình sự.
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật Tố tụng hình sự

67



- Kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
về thủ tục sơ thẩm
Hồn thiện cơ sở pháp lý cho việc huỷ án sơ thẩm có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc bảo đảm cho hoạt động xét xử sơ thẩm cũng như phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm đảm bảo chất lượng, đạt hiệu quả cao. Trên cơ sở
nghiên cứu các vấn đề lý luận và pháp luật tại Chương 1, đánh giá thực tiễn
huỷ bản án sơ thẩm và nguyên nhân ở Chương 2, tác giả thấy cần tiếp tục
hoàn thiện một số quy định của BLTTHS liên quan đến huỷ bản án sơ thẩm
sau đây:
+ Hoàn thiện các Điều 292, Điều 293 BLTTHS theo hướng quy định hạn
chế xét xử sơ thẩm vắng mặt người tham gia tố tụng, nhất là bị hại, người làm
chứng làm hạn chế việc xác định chính xác, khách quan các tình tiết vụ án; bỏ
thủ tục công bố lời khai của những người tham gia tố tụng tại phiên tồ;
khơng cho phép bị cáo vắng mặt tại phiên toà trừ khi người tham gia tố tụng
khơng đến phiên tồ được vì các lý do đặc biệt như đã chết, ốm đau nặng...
Điều này đảm bảo cho việc xác định sự thật về vụ án khách quan, toàn diện
trong một phiên toà tranh tụng đầy đủ; khơng để xảy ra trường hợp huỷ án vì
“thiếu những chứng cứ quan trọng không thể khắc phục tại phiên toà phúc
thẩm”.
+ Cần sửa đổi Điều 298 BLTTHS về giới hạn xét xử: Thứ nhất, về tên
gọi của điều luật. Điều 298 với tên gọi là “giới hạn xét xử” theo tác giả là
chưa phù hợp với nội dung điều chỉnh của điều luật vì: Hiện nay, pháp luật
Việt Nam ghi nhận hai cấp xét xử là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Đây
là hai giai đoạn riêng biệt trong các giai đoạn của TTHS và được quy định ở
hai chương khác nhau của BLTTHS. Tuy nhiên, Điều 298 lại nằm ở chương
XXI của BLTTHS quy định về xét xử sơ thẩm nên nếu nhà làm luật muốn
dùng một điều luật để điều chỉnh giới hạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm thì đặt

68



ở vị trí này là khơng hợp lý. Mặt khác, nội dung của Điều 298 BLTTHS 2015
đang điều chỉnh về giới hạn xét xử sơ thẩm. Bởi vì, theo Điều 345 BLTTHS
thì Tịa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử trong phạm vi kháng cáo, kháng nghị và
chỉ trong một số trường hợp mới xem xét phần khác của bản án. Hơn nữa, tại
khoản 3 Điều 298 quy định: “Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội
danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện
kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của
bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì
Tịa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó”. Quy định việc cho
phép Tịa án trả hồ sơ cho VKS để truy tố lại chỉ có ở cấp xét xử sơ thẩm. Vì
tại Điều 355 BLTTHS 2015 về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm
thì khơng quy định quyền này. Như vậy, có thể thấy, nội dung của Điều 298
chỉ điều chỉnh về giới hạn xét xử sơ thẩm mà nhà làm luật lại đặt tên điều luật
là giới hạn xét xử là chưa phù hợp với nội dung điều chỉnh và vị trí của điều
luật. Theo tác giả, nên đổi tên của Điều 298 là “giới hạn xét xử sơ thẩm”.
Thứ hai, khoản 1 Điều 298 quy định: “Tòa án xét xử những bị cáo và
những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định
đưa vụ án ra xét xử.” Và khoản 2 Điều 298 quy định: “Tịa án có thể xét xử
bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một
điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã
truy tố.” Qua hai quy định có thể thấy sự chưa thống nhất trong quy định giữa
hai khoản trong cùng một điều luật. Khoản 1 của điều luật quy định Tòa án
xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS đã truy tố. Còn
khoản 2 lại cho phép Tòa án xét xử về tội danh nhẹ hơn VKS truy tố là chưa
thống nhất. Theo tác giả, trong trường hợp này Tịa án đóng vai trò là trọng tài
chỉ xem xét những hành vi mà VKS đã truy tố. Trên cơ sở hồ sơ, chứng cứ,
quá trình xét hỏi và tranh luận thì mới định tội danh cho hành vi đó. Như vậy

69



mới đảm bảo được sự độc lập của Tòa án trong xét xử. Chính vì những lý do
đó, tác giả kiến nghị sửa khoản 1 Điều 298 BLTTHS năm 2015 như
sau: “Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố
và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử”.
+ Tại khoản 2 Điều 298 BLTTHS 2015 quy định: “Trường hợp xét thấy
cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tịa
án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc
người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội
danh đã truy tố thì Tịa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.”
Việc Tịa án cấp sơ thẩm được phép xét xử bị cáo nặng hơn về tội danh
mà VKS đã truy tố có thể dẫn đến vượt quá thẩm quyền xét xử của Tịa án cấp
sơ thẩm. Đó là trường hợp TAND cấp huyện hoặc Tòa án quân sự cấp quân
khu đang là Tòa án xét xử sơ thẩm đối với bị cáo bị VKS truy tố về tội ít
nghiêm trọng; nghiêm trọng; rất nghiêm trọng. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm
xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo thuộc vào khoản nặng hơn hoặc tội nặng
hơn mà VKS đã truy tố và tội nặng đó lại thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng
thì sẽ khơng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện và Tòa án quân
sự cấp khu vực theo quy định tại Điều 268 BLTTHS năm 2015.
Hơn nữa việc xét xử loại tội đặc biệt nghiêm trọng cũng dẫn đến sự thay
đổi rất nhiều về thủ tục tố tụng như sự thay đổi về thành phần Hội đồng xét
xử (Điều 254 BLTTHS 2015) và việc chỉ định người bào chữa. Trong trường
hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm phải chuyển vụ án theo quy định tại Điều 274
BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên Điều 298 quy định về giới hạn xét xử lại chưa
quy định cách giải quyết cụ thể đối với vấn đề này. Theo tác giả, nên bổ sung
khoản 3 Điều 298 theo hướng như sau: “Trường hợp xét thấy cần xét xử bị
cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tịa án trả hồ sơ
để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại


70


diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã
truy tố thì Tịa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó; trường hợp
Tịa án cấp sơ thẩm xét thấy tội danh cần xét xử vượt quá thẩm quyền xét xử
thì chuyển vụ án”.
+ Cần bổ sung vào Điều 358 BLTTHS một khoản quy định “Những
trường hợp mặc dù q trình tố tụng trước đó có vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng, nhưng việc Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để điều tra
lại hoặc xét xử lại không thể khắc phục được vi phạm đó thì Tồ án cấp phúc
thẩm giải quyết theo thủ tục chung”. Ví dụ, trong giai đoạn điều tra, truy tố
hoặc xét xử sơ thẩm, bị can, bị cáo dưới 18 tuổi khơng được cử người bào
chữa (tức có căn cứ để huỷ bản án theo điểm c khoản 1 hoặc điểm b khoản 2
Điều 358 BLTTHS); nhưng đến khi xét xử phúc thẩm bị cáo đã trên 18 tuổi,
không bắt buộc có người bào chữa nữa. Trong trường hợp này, Tồ án cần
căn cứ vào các tình tiết của vụ án đã được xác định để ra phán quyết mà
không cần huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại.
- Kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
về thủ tục phúc thẩm
+ Điều 230 BLTTHS quy định về phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực
tiếp xét xử lại vụ án, điều này sẽ không phù hợp khi thành lập Tòa án sơ thẩm
khu vực, Tòa phúc thẩm, Tòa thượng thẩm và Tòa án nhân dân tối cao như
Nghị quyết 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề
cập vì lúc đó khơng cịn tổ chức Tịa án theo đơn vị hành chính như hiện nay.
Do đó, khái niệm phúc thẩm cần có sự điều chỉnh lại theo bản chất của các
quan hệ tố tụng, thay vì các quan hệ hành chính bên cạnh các quan hệ tố tụng
như hiện nay.
+ Quy định về thủ tục tố tụng phúc thẩm hiện nay còn chung chung, nhất
là cách thức tiến hành phiên tòa. Điều 247 quy định “phiên tòa phúc thẩm


71


cũng tiến hành như phiên tòa sơ thẩm” và chỉ quy định thêm là trước khi xét
hỏi, một thành viên của Hội đồng xét xử phải trình bày tóm tắt nội dung vụ
án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung của kháng cáo hoặc kháng nghị.
Khi tranh luận, KSV phát biểu quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ án.
Việc quy định như thế rất khó thực hiện, vì phải xác định rõ các quy định cụ
thể nào về thủ tục phiên tòa bắt buộc phải áp dụng khi xét xử phúc thẩm, bởi
có những hoạt động tố tụng chỉ có ở phiên tịa sơ thẩm mà khơng có ở phiên
tịa phúc thẩm. Cho nên, việc tn thủ trình tự thủ tục xét xử phúc thẩm, về cơ
bản cũng chỉ là vận dụng trên cơ sở các quy trình đã có về thủ tục xét xử sơ
thẩm, đó là điều bất hợp lý khi tổ chức phiên tịa phúc thẩm, dễ dẫn đến các
thiếu sót về thủ tục. Do vậy, cần sửa đổi, bổ sung Điều 247 BLTTHS hiện
hành theo hướng quy định chi tiết hơn về thủ tục và trình tự phiên tịa phúc
thẩm hình sự.
+ Tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật của TAND tối
cao về thủ tục tố tụng nói chung, trong đó có thủ tục phúc thẩm hình sự.
+ Bổ sung điều luật riêng quy định về các vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng hình sự làm căn cứ để Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm.
+ Nghiên cứu bổ sung thủ tục xét xử phúc thẩm theo thủ tục bút lục
trong một số trường hợp đặc biệt.
- Kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
về thủ tục giám đốc thẩm
+ Sửa đổi BLTTHS năm 2015 theo hướng bổ sung quy định về đối
tượng của thủ tục giám đốc thẩm:
Thứ nhất, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, trong
đó bao gồm: Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm; Những bản án phúc thẩm.


72


Thứ hai, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, trong đó bao gồm: Quyết
định đình chỉ xét xử phúc thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm; Quyết định giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm của TAND cấp cao; Quyết định giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao trong trường hợp vì lợi ích
pháp luật hoặc minh oan người bị kết án.
+ Sửa đổi Điều 371 BLTTHS năm 2015 về căn cứ kháng nghị giám đốc
thẩm theo hướng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án bị
kháng nghị khi có một trong các căn cứ sau:
Một là, kết luận trong bản án, quyết định của Tịa án khơng phù hợp với
những chứng cứ của vụ án, cụ thể là: Kết luận của Tịa án khơng được khẳng
định bằng các chứng cứ được xem xét tại phiên tòa; Hội đồng xét xử đã
khơng cân nhắc đến những chứng cứ có ảnh hưởng cơ bản đến kết luận trong
bản án, quyết định; Cịn tồn tại những chứng cứ đối lập nhau có ý nghĩa quan
trọng trong việc ra phán quyết nhưng Tòa án đã chấp nhận một trong các
chứng cứ đối lập mà không nêu ra những căn cứ của việc chấp nhận những
chứng cứ này và bác bỏ chứng cứ khác; Kết luận đã được nêu trong bản án có
những mâu thuẫn cơ bản và đã ảnh hưởng hoặc có thể ảnh hưởng đến việc
giải quyết vấn đề có tội hoặc khơng có tội của người bị kết án hoặc người
được tuyên vô tội, đến việc áp dụng đúng pháp luật hình sự hoặc quyết định
mức hình phạt.
Hai là, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố,
xét xử.
Ba là, có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng các quy định của
BLHS và Bộ luật Dân sự.
+ Để đảm bảo nguyên tắc xét xử hai cấp, đồng thời thể hiện tính chất đặc
biệt của thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS, nên bỏ quy định tại khoản 5 Điều


73


388 và Điều 393 Bộ luật TTHS năm 2015 về thẩm quyền sửa bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Hội đồng giám đốc thẩm.
Đối với căn cứ để Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật để điều tra hoặc xét xử lại, quy định tại Điều 391 Bộ luật
TTHS năm 2015 cần được bổ sung theo hướng: hủy bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật để điều tra lại, truy tố lại hoặc xét xử lại.
Như vậy, trong cải cách tư pháp, cần phân định lại thẩm quyền xét xử
giữa Tòa án các cấp và tổ chức hệ thống Tòa án theo nguyên tắc hai cấp xét
xử. Việc phân định lại thẩm quyền xét xử giữa Tòa án các cấp hiện nay phải
tiếp tục theo hướng đảm bảo Tòa án mỗi cấp chủ yếu thực hiện một thẩm
quyền xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, hạn chế tiến tới chấm dứt tình trạng
một Tịa án thực hiện cả thẩm quyền xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc
thẩm, biến giám đốc thẩm từ một thủ tục đặc biệt trở thành cấp xét xử thứ ba
và thuộc thẩm quyền của nhiều cấp Tòa án dẫn đến tố tụng lịng vịng, khơng
có điểm dừng. Cần tổ chức Tịa án theo thẩm quyền xét xử khơng phụ thuộc
hồn tồn vào địa hạt hành chính, theo đó, hệ thống Tịa án sẽ bao gồm các
toà sơ thẩm khu vực, các Tịa án phúc thẩm, các Tồ thượng thẩm và Tịa án
nhân dân tối cao. Kết hợp với tinh thần phân cấp mạnh mẽ trong cải cách
hành chính, thẩm quyền xét xử sơ thẩm cần được giao chủ yếu cho Tòa án cấp
thấp nhất trong hệ thống Tòa án; thẩm quyền xét xử phúc thẩm chủ yếu thuộc
về Tòa án cấp thứ hai.
Tiểu kết chương 3
Trong những năm qua với nhiều nổ lực và cố gắng không ngừng nghĩ,
các cơ quan tiến hành pháp luật nói chung và các cơ quan tố tụng nói riêng đã
có nhiều đổi mới. Thường xuyên xây dựng, chỉnh sửa và ban hành các văn
bản mới nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác. CBCS luôn nêu cao tinh


74


×