Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (822.34 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC THỦY

CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI
NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC THỦY

CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI
NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS .TS. TRẦN ĐÌNH HẢO

Hà Nội, năm 2020


LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành luận văn này, tác giả đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tạo
điều kiện của các Thầy Cô khoa Luật và các Thầy cô giáo Học viện Khoa học xã hội
đã nhiệt tình chỉ dạy, hướng dẫn. Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành và
sâu sắc nhất đến người hướng dẫn khoa học là PGS.TS Trần Đình Hảo đã tận tình
hướng dẫn để tác giả hồn thành luận văn này.
Ngồi ra tác giả cũng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ts. Luật sư Nguyễn Thị Kim
Vinh, Ts. Dương Quỳnh Hoa và các anh, chị, em ở Tòa án nhân dân Cấp Cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh, Tịa kinh tế TP.Hồ Chí Minh, Tạp chí Kinh tế Châu Á- Thái
Bình Dương đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện để tác giả bổ sung hoàn thiện luận văn.
Luận văn là cơng trình nghiên cứu độc lập của tác giả nên khơng thể tránh được những
thiếu sót, rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, của các
thầy giáo, cô giáo và các bạn đồng nghiệp để luận văn được tốt hơn.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả

Nguyễn Thị Ngọc Thủy


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng những thông tin, số liệu và kết quả nghiên cứu trong
luận văn thạc sỹ Luật học “Công nhận và cho thi hành Phán quyết nước ngồi ở
Việt Nam hiện nay” của tơi là hồn tồn trung thực, các thơng tin, tài liệu trình bày
trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Tuy nhiên khơng tránh khỏi những thiếu
sót, luận văn này là cơng trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tác giả dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO - Học viện Khoa học xã hội.
Tơi xin hồn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

NGUYỄN THỊ NGỌC THỦY



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ VIỆC CÔNG NHẬN VÀ
CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI NƯỚC
NGOÀI .......................................................................................................................5
1.1. Khái niệm phán quyết trọng tài nước ngoài ........................................................5
1.2. Khái niệm công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng Tài nước ngoài ..10
1.3. Cơ sở pháp luật về việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của
Trọng tài nước ngồi .................................................................................................11
1.4. Ngun tắc cơng nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài
nước ngồi. ................................................................................................................14
1.5. Thẩm quyền, điều kiện, trình tự, thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
phán quyết của Trọng tài nước ngoài. .......................................................................16
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VIỆC
CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM PHÁN QUYẾT
CỦA TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI 22
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về việc công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam Phán quyết Trọng tài nước ngoài .................................................................22
2.1.1. Đối với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 .............................................26
2.1.2. Đối với Luật Trọng tài thương mại năm 2010 .......................................31
2.2. Thực tiễn giải quyết đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng
tài nước ngoài tại Việt Nam ..................................................................................42
2.3. Đánh giá chung ..............................................................................................55
Chương 3: HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƠNG NHẬN VÀ CHO THI
HÀNH TẠI VIỆT NAM PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI NƯỚC NGỒI .59
3.1. Quan điểm, định hướng hồn thiện pháp luật về công nhận và cho thi hành tại
Việt nam phán quyết của trọng tài nước ngoài .....................................................59
3.1.1. Quan điểm về góc nhìn thực tiễn ............................................................59
3.1.2. Về hướng dẫn xây dựng pháp luật .........................................................63



3.1.3. Về cơng tác cán bộ .................................................................................65
3.2. Giải pháp hồn thiện pháp luật về công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
phán quyết của trọng tài nước ngoài .....................................................................66
3.2.1. Phương hướng hoàn thiện các quy định ................................................66
3.2.2. Một số yêu cầu và giải pháp ...................................................................67
3.2.3. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về thủ tục công nhận
và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài ....................................68
3.2.4. Hoàn thiện các quy định Luật Trọng tài thương mại liên quan đến thủ tục
công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài thương mại nước ngoài 70
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi về công nhận và cho thi hành phán
quyết của trọng tài nước ngoài ở Việt Nam hiện nay
3.3.1. Nâng cao nhận thức, phổ biến về tư pháp quốc tế và các điều ước quốc
tế liên quan đến giải quyết tranh chấp kinh tế có yếu tố nước ngồi và đầu tư
nước ngoài mà Việt Nam đã ký kết và tham gia. ..............................................70
3.3.2. Giải pháp tăng cường vai trò của Tòa án trong việc hỗ trợ hoạt động của
trọng tài ............................................................................................................71
KẾT LUẬN ..............................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

LTTTM


: Luật Trọng tài Thương mại

TAND

: Tòa án nhân dân

CƯ 1958

: Công ước New York năm 1958

HĐTPTANDTC

:Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

HĐXX

: Hội đồng xét xử

PQTTNN

: Phán quyết trọng tài nước ngoài


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 20 năm qua Việt Nam đã tham gia Công ước New York năm 1958 (CƯ
1958) về Công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngồi (PQTTNN). Tuy
nhiên, PQTTNN được cơng nhận chưa nhiều bởi trong hệ thống pháp luật về giải quyết
tranh chấp PQTTNN phát sinh từ hoạt động thương mại tồn cầu cịn được phát luật
Việt Nam qui định ở Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.

Trên thực tế, Tòa án và trọng tài thương mại đều là những hình thức giải quyết
tranh chấp trong kinh doanh, thương mại. Thủ tục của hai cơ quan này đều dựa trên
những nguyên tắc chung như tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự, đảm bảo
sự độc lập của người tài phán.
Việc các giải quyết các tranh chấp thương mại bằng trọng tài là cách giải quyết
tranh chấp đã xuất hiện từ rất lâu và hiện nay cách giải quyết bằng trọng tài đang được
các thương nhân, doanh nghiệp trên thế giới ưa chuộng giải quyết tranh chấp thay vì
tịa án.
Chính vì vậy, Cơng nhận và cho thi hành phán quyết Trọng tài nước ngoài ở
Việt Nam hiện nay là một vấn đề mà các nhà đầu tư, doanh nghiệp nước ngoài đặc biệt
quan tâm. Tuy nhiên, đối với thủ tục công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước
ngoài theo quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam vẫn còn tồn tại những điểm
bất cập, chưa đồng bộ, chưa thống nhất, thể hiện rõ nét sự phân biệt đối xử đối với phán
quyết của Trọng tài nước ngồi, vì vậy nhiều quyết định dẫn đến kết quả chưa phù hợp
với nội dung CƯ 1958.
Hiện nay, việc Công nhận và thi hành PQTTNN ở Việt Nam hiện nay còn gặp
nhiều khó khăn cho việc thực thi, nhiều phán quyết chưa được thi hành tại Việt Nam
dẫn đến hình thành tâm lý phân vân có nên thực hiện tranh chấp theo thể thức trọng
tài bởi họ thiếu niềm tin đối với hiệu lực phán quyết trọng tài nhất là các PQTTNN
được thực thi ở Việt Nam. Điều đó, vơ hình dung làm cản trở những nỗ lực của Nhà
nước Việt Nam trong việc đưa tranh chấp bằng trọng tài thành cơng cụ pháp lý hữu
ích giải quyết các tranh chấp thương mại bên cạnh Tòa án. Đặc biệt, trong q trình
hội nhập kinh tế quốc tế ngồi việc Việt Nam phải thực hiện đúng những cam kết
trong các điều ước quốc tế chúng ta đã tham gia thì cịn đòi hỏi pháp luật cần tiếp tục
8


được bổ sung, hoàn thiện nhằm bảo đảm sự tương thích với các quy định của pháp

9



10


luật về kinh tế quốc tế, dần dần từng bước đáp ứng được yêu cầu giải quyết
các tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
Tuy nhiên với tình hình quan hệ văn hóa - xã hội và kinh tế của Việt Nam với
thế giới đang mở ra tầm cao mới, năm 1995 Việt Nam đã chính thức tham gia CƯ
1958, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho việc kết nối giao thương. Bên cạnh đó, nhiều
Hiệp định thương mại tự do giữa Việt nam và các nước trên thế giới đã được ký kết.
Có nghĩa là, giữa Việt Nam và các nước trên thế giới đã và đang có nhiều những giao
dịch thương mại đồng nghĩa với việc sẽ sảy ra các tranh chấp thương mại giữa các
thương nhân, doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp, thương nhân toàn cầu.
Từ sự phát triển và giao thoa văn hóa, kinh tế giữa Việt Nam và các nền kinh tế thế
giới, sẽ có nhiều hoạt động kinh doanh phải giải quyết tranh chấp thương mại bằng
hình thức trọng tài.
Ngày nay, các chủ thể của tranh chấp kinh doanh thường lựa chọn phương thức
giải quyết tranh chấp Trọng tài do các ưu điểm về bảo mật thông tin, tiết kiệm thời
gian, công sức cũng như tiền bạc. Nhưng cũng chính vì bảo mật thơng tin, ít cơng bố
nên tác giả cũng gặp khó khăn trong việc thực tế đi thu thập tài liệu.
Do đó, đề tài nghiên cứu: “Cơng nhận và cho thi hành Phán quyết của trọng
tài nước ngoài ở Việt Nam hiện nay” của tác giả mang tính cấp thiết, điều này hy
vọng được các ban ngành trong lĩnh vực pháp luật cũng như Đảng và Nhà nước quan
tâm. Nhận thức được sự cầp thiết đó cho nên tác giả đã chọn đề tài “Công nhận và
cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.” làm luận văn
thạc sĩ luật học.
Tình hình nghiên cứu đề tài.
Mặc dù công nhận và thi hành các phán quyết của Trọng tài nước ngoài ở Việt
Nam số vụ được cơng nhận rất ít, lý do mà việc Cơng nhận và thi hành các Phán

quyết của Trọng tài nước ngoài ở Việt Nam gặp khó khăn do nhiều yếu tố mang lại
trong đó có yếu tố con người. Chính vì vậy, cũng khơng ít các hội thảo và các cơng
trình nghiên cứu về vấn đề này nhưng chưa gỡ được nút thắt của hệ thống. Ngoài
các chế định về Pháp luật mà Việt Nam đã điều chỉnh cho phù hợp với thông lệ
1


quốc tế thì nhiều nhà nghiên cứu và cán bộ làm công tác thực tiễn trăn trở quan
tâm, được thể hiện qua một vài cơng trình khoa học sau:
- Nguyễn Văn Đức, Thi hành phán quyết trọng tài thương mại - Mối quan
hệ giữa Trọng tài và Tòa án, Luận văn Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2010.
- Nguyễn Tiến Lộc, Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Trọng tài - Thực
trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2000.
- Nguyễn Trung Tín, Cơng nhận và cho thi hành tại Việt Nam các quyết
định của Trọng tài kinh tế, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 2002.
- Trương Quốc Tuấn, Giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế bằng
con đường Trọng tài, Luận văn Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2003.
- Nguyễn Văn Bình, Thực trạng và hướng hoàn thiện Trọng tài thương mại
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, Luận văn Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2003.
- Phan Thơng Anh, Mối quan hệ giữa Tịa án và Trọng tài trong quá trình
giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận
văn Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2005.
- Trần Dự Yên, Hiệu lực của quyết định trọng tài đối với vấn đề thi hành
trong pháp luật và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2006.
- Đặng Quang Phương, Những vấn đề lý luận và thực tiễn của công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi,
quyết định của Trọng tài nước ngoài, Đề tài khoa học cấp cơ sở của Tòa án nhân
dân tối cao, Hà Nội, 2009.
Mặc dù vậy, nhưng vì nhiều lý do và nhiều quy định đã tạo ra sự sai biệt giữa
pháp luật Việt Nam với pháp luật của các nước khác cũng là thành viên của Công ước

News York 1958, dẫn đến khó khăn trong việc cơng nhận và cho thi hành phán quyết
trọng tài nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn của tác giả đưa ra giải pháp khoa học mong mỏi hồn thiện pháp luật
về Cơng nhận và cho thì hành Phán quyết của trọng tài nước ngoài ở Việt Nam hiện
2


nay, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực thi các phán quyết trọng tài nước ngoài
ở Việt Nam hiện nay, đẩy mạnh quan hệ tư pháp thúc đẩy phát triển nền kinh tế đất
nước. Qua đó, dần hồn thiện công tác xây dựng pháp luật, thể chế, tăng cường các
biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển nguồn nhân lực về đội ngũ Thẩm
phán, Trọng tài, phải đáp ứng đầy đủ bao gồm có cả việc thay đổi và xây dựng pháp
luật phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là việc cơng nhận và cho thì hành Phán
quyết trọng tài của nước ngoài ở Việt Nam hiện nay. Các quy định, hạn chế và bất
cập về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam.
3.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định theo CƯ 1958, Bộ Luật Tố tụng dân sự năm
2015, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 về Cơng nhận và cho thì hành Phán quyết
trọng tài của nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, luận văn này còn tham khảo một số ý kiến của chuyên gia, Thẩm
phán và các nhà nghiên cứu về Công nhận và cho thì hành Phán quyết trọng tài nước
ngồi ở Việt Nam làm cơ sở cho việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật và thi hành
pháp luật về Công nhận và cho thì hành Phán quyết trọng tài nước ngồi ở Việt Nam
hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành

của Pháp luật Việt Nam và CƯ 1958, Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Trọng
tài thương mại năm 2010, luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận tư tưởng
Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc phân tích, giải quyết các vấn đề.
Trên cơ sở phương pháp luận nêu trên, luận văn sử dụng một số phương pháp cụ thể
như phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích tổng hợp, so sánh đối chiếu, thống kê
và phỏng vấn một số chuyên gia…
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
3


Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trên cơ
sở đó nhằm mục đích hướng đến hồn thiện pháp luật về Cơng nhận và cho thì hành
Phán quyết trọng tài nước ngồi ở Việt Nam hiện nay. Qua đó, nâng cao hiệu quả,
điều chỉnh và rút kinh nghiệm để thực thi các phán quyết trọng tài nước ngồi ở Việt
Nam. Góp phần đưa thực tiễn vào giải quyết các vấn đề liên quan đến pháp lý trong
việc thực hiện nghiêm các qui định của pháp luật Việt Nam cũng như các qui định
khác mà Việt Nam đã ký kết với các quốc gia khác trên thế giới. Góp phần giảm tải
về giải quyết các tranh chấp thương mại bên cạnh Tòa án, trong bối cảnh thương mại
hóa tồn cầu đòi hỏi pháp luật hiện hành phải tuân thủ luật chơi quốc tế. Hy vọng
luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến đối tượng được nghiên
cứu sau này.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu thành ba chương và phần tài liệu tham khảo kèm theo
như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp luật về việc công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài.
Chương 2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về việc công nhận và cho thi hành
tại Việt Vam phán quyết của trọng tài nước ngồi.
Chương 3. Hồn thiện pháp luật về cơng nhận và cho thi hành tại Việt Nam
phán quyết của trọng tài nước ngoài.


4


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ VIỆC CÔNG NHẬN VÀ CHO THI
HÀNH TẠI VIỆT NAM PHÁN QUYẾT
CỦA TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm phán quyết trọng tài nước ngồi
Cơng nhận và cho thi hành PQTTNN có nghĩa là thừa nhận giá trị pháp lý và
áp dụng các biện pháp qui định của pháp luật để thực hiện Phán quyết Trọng tài nước
ngoài trên lãnh thổ của nước mà bên yêu cầu được thi hành.
Song song đó, khái niệm “phán quyết trọng tài nước ngoài” là khái niệm đóng
vai trị chủ đạo cho tồn bộ quy trình cơng nhận và cho thi hành. Một khi đã xác định
chính xác thế nào là PQTTNN thì quy trình cơng nhận và cho thi hành mới diễn ra
một cách đúng đắn.
Chính vì vậy, mà ngay từ những phần đầu tiên của CƯ 1958 đã khẳng định về
khái niệm phán quyết trọng tài nước ngồi. Cho nên, Điều I (1) CƯ có nêu ra các yếu
tố để xác nhận một phán quyết trọng tài có phải là phán quyết trọng tài nước ngồi
hay khơng, đó là vấn đề trọng tâm. Đồng thời, Công ước còn được áp dụng cho những
Phán quyết trọng tài không được coi là phán quyết trong nước tại quốc gia nơi việc
công nhận và thi hành chúng khi được yêu cầu.
Điều I (3) CƯ cho rằng: Thuật ngữ “các phán quyết trọng tài” bao gồm không
chỉ những phán quyết được ban hành bởi các Trọng tài viên được chỉ định cho từng
vụ mà còn bao gồm những phán quyết được ban hành bởi các tổ chức trọng tài thường
trực được các bên đưa vụ việc ra giải quyết.
Căn cứ vào Điều 1 CƯ nêu rõ: “Công ước này áp dụng đối với việc công nhận
và thi hành các phán quyết trọng tài được ban hành tại lãnh thổ của một Quốc gia
khác với Quốc gia nơi có yêu cầu công nhận và thi hành phán quyết trọng tài đó, xuất
phát từ các tranh chấp giữa các thể nhân hay pháp nhân. Công ước còn được áp dụng

cho những phán quyết trọng tài không được coi là phán quyết trong nước tại Quốc
gia nơi việc công nhận và thi hành chúng được yêu cầu.

5


PQTTNN được xem là yếu tố chủ yếu vì đây là yếu tố có tính căn bản, có tính
nền tảng để các quốc gia thành viên khi xây dựng những quy định pháp luật trong
nước của mình phải tuyệt đối tn thủ. Vì lẽ đó cho nên (Điều I) CƯ cũng khẳng
định: Khi ký kết, phê chuẩn, hoặc gia nhập Công ước này, hoặc thông báo phạm vi
áp dụng Công ước theo điều X, bất kỳ Quốc gia nào cũng có thể trên cơ sở có đi có
lại tuyên bố rằng Quốc gia đó sẽ áp dụng Cơng ước đối với việc công nhận và thi
hành các quyết định được đưa ra tại lãnh thổ một Quốc gia thành viên khác mà thơi.
Quốc gia đó còn có thể tun bố chỉ áp dụng Công ước cho các tranh chấp phát sinh
từ các quan hệ pháp lý dù là quan hệ hợp đồng hay khơng thì cũng được coi là quan
hệ thương mại theo pháp luật quốc gia của Quốc gia đó. Như vậy, có thể thấy rằng,
yếu tố chủ yếu để CƯ xem một phán quyết trọng tài nước ngoài có thể thuộc đối
tượng điều chỉnh của mình hay khơng chính là nguyên tắc lãnh thổ. Tức là ở đây yếu
tố lãnh thổ có vai trị quyết định về tính nước ngồi của một phán quyết Trọng tài.
Theo đó, bất kỳ phán quyết nào được tuyên tại một quốc gia khác với quốc gia
của Tịa án cơng nhận và cho thi hành đều có thể thuộc phạm vi của CƯ. Có nghĩa là
“Phán quyết Trọng tài nước ngồi” bất kể là nước nơi Phán quyết Trọng tài được
tuyên có phải là thành viên cơng ước hay khơng. Chính vì vậy, quốc tịch, nơi thường
trú hoặc nơi tạm trú, hoặc trụ sở của các bên không liên quan đến việc xác định liệu
một phán quyết có phải là Phán quyết trọng tài nước ngồi hay khơng. Một ví dụ sau
đây, trọng tài VACC tuyên phán quyết tại Việt Nam nhằm giải quyết tranh chấp giữa
hai doanh nghiệp của Singapore thì phán quyết này là PQTTNN. Ngoài ra, một Phán
quyết được tuyên trong lãnh thổ của quốc gia nơi tiến hành việc công nhận và cho thi
hành nhưng không được xem là Phán quyết Trọng tài trong nước thì cũng được xem
là PQTTNN.

Tóm lại, yếu tố về mặt lãnh thổ là vấn đề quan trọng, đã được áp dụng một
cách rộng rãi và chiếm đa số trên hầu hết các quốc gia thành viên của CƯ 1958. Song
song đó, CƯ 1958 còn cho phép các nước thành viên vận dụng thêm, một phán quyết
được tuyên ngay trên lãnh thổ của nước được u cầu cơng nhận và cho thi hành cũng
có thể xem là PQTTNN nếu phán quyết này không được xem là Phán quyết trong
6


nước. Nếu như với yếu tố quan trọng vốn được ưu tiên là “ngun tắc lãnh thổ”, thì
yếu tố ít quan trọng hơn lại tập trung vào tính “khơng phải trong nước”của một
PQTTNN.
Có thể hiểu rằng, khi yếu tố quan trọng được quy định một cách rõ ràng và cụ
thể thì thứ yếu lại hồn tồn được CƯ 1958 bỏ ngỏ, đây cũng là một đều kiện thuận
lợi cho các nước có tham giam gia CƯ 1958. Cho nên, việc xác định thế nào là một
“Phán quyết Trọng tài” không phải trong nước sẽ được điều chỉnh do pháp luật của
quốc gia nơi tiến hành công nhận và cho thi hành. Như vậy, giải pháp này nhiều
chuyên gia cho rằng tính bỏ ngỏ của CƯ là vơ cùng hợp lý và thuyết phục, bởi các lý
do sau:
(i) mỗi quốc gia có truyền thống và nhận thức pháp luật nói chung, cũng như
truyền thống đối với việc công nhận và cho thi hành Phán quyết Trọng tài nước ngồi
nói riêng, vốn dĩ pháp luật mỗi nước thực tế là khác nhau, nên việc đặt ra một quy
trình “chuẩn” cho tất cả các quốc gia thành viên CƯ là điều không thể;
(ii) xuất phát từ cách thức và hành động mà một quốc gia thành viên quan niệm
về việc công nhận và cho thi hành Phán quyết Trọng tài nước ngoài tại quốc gia của
mình sẽ ảnh hưởng khơng nhỏ đến cách nhìn của Tòa án quốc gia đó về tính “khơng
phải trong nước” của một Phán quyết Trọng tài.
Ví dụ như, việc thừa nhận và cho phép thi hành tại Việt Nam PQTTNN có thể
được tun ở ngồi lãnh thổ Việt Nam và Phán quyết trọng tài nước ngoài được tuyên
tại lãnh thổ Việt Nam nhưng không do trọng tài Việt Nam tun, theo những ngun
tắc và trình tự pháp lí nhất định.

Tòa án Việt Nam xem xét việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
PQTTNN trong trường hợp Phán quyết được tuyên tại nước hoặc của trọng tài của
nước mà Việt Nam và nước đó đã kí kết hoặc tham gia điều ước quốc tế về vấn đề
này. Ngồi ra, trên cơ sở Việt Nam đã kí kết với nhiều quốc gia về các Hiệp định
thương mại, thì PQTTNN cũng có thể được Tòa án Việt Nam dựa trên các yếu tố đó
để xem xét cơng nhận và cho thi hành tại Việt Nam trên cơ sở “có đi có lại”.

7


PQTTNN được thi hành tại Việt Nam sau khi được tòa án Việt Nam có quyết
định cơng nhận và cho thi hành.
Khoản 1, Điều 425 Bộ luật TTDS năm 2015 qui định: “Tổ chức, cá nhân được
thi hành, người đại diện hợp pháp của họ có quyền gửi đơn yêu cầu Tòa án công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam Phán quyết của trọng tài nước ngoài nếu tổ chức phải
thi hành có trụ sở tại Việt Nam, cá nhân phải thi hành cư trú, làm việc tại Việt Nam
hoặc nếu tài sản liên quan đến việc thi hành có tại Việt Nam…”
Tòa án có thẩm quyền xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
quyết định của trọng tài nước ngoài là Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương nơi tổ chức phải thi hành đóng trụ sở chính, nơi cá nhân phải thi hành cư
trú, làm việc hoặc nơi có tài sản liên quan.
Tại Việt Nam từ khi gia nhập CƯ 1958 đến nay, trải qua nhiều văn bản pháp
luật từ Pháp lệnh Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài
nước ngoài năm 1995, Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, và Luật Trọng tài thương mại
2010 đến Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đều sử dụng thuật ngữ “phán quyết của
trọng tài nước ngồi” thay vì thuật ngữ “phán quyết trọng tài nước ngoài” là đúng
hơn. Trên thực tế diễn giải một cách dài dòng hơn là “phán quyết của trọng tài nước
ngoài”. Để được hiểu nghĩa rộng theo quan niệm của pháp luật Việt Nam hiện thời
thì “phán quyết của trọng tài nước ngồi” chính là phán quyết được tun ở trong
hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam bởi trọng tài nước ngoài (trọng tài được thành lập theo

quy định của pháp luật nước ngoài) nhằm giải quyết các tranh chấp tức là PQTTNN.
Có hai vấn đề cần làm rõ từ định nghĩa này: trọng tài được thành lập theo quy
định của pháp luật nước ngoài và nơi tuyên phán quyết.
Căn cứ Luật trọng tài thương mại 2010, được qui định tại khoản 11(Điều 3):
“trọng tài nước ngoài là trọng tài được thành lập theo quy định của pháp luật trọng
tài nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết tranh chấp ở
ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam”. Như vậy, trong qui định
pháp luật hiện hành của Việt Nam, một phán quyết có phải là “phán quyết của trọng
tài nước ngồi” hay khơng thì Điều 3 (12) Luật Trọng tài thương mại cũng khẳng
8


định: “phán quyết của trọng tài nước ngoài” là phán quyết do trọng tài nước ngoài
tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải quyết tranh
chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn.
Song song đó, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, với tư cách là đạo luật điều
chỉnh toàn bộ quy trình cơng nhận và cho thi hành “Phán quyết Trọng tài nước ngồi”
ở Việt Nam thì cũng dẫn chiếu ngược lại các quy định của Luật Trọng tài thương mại
(Điều 424 (3) Bộ luật tố tụng dân sự 2015).
Hiểu một cách đơn giản là cho dù Phán quyết Trọng tài được tuyên tại Việt
Nam hay ngoài lãnh thổ Việt Nam, chỉ cần do trọng tài nước ngồi tun thì đều được
xem là “Phán quyết Trọng tài nước ngồi”, điều đó được hiểu như sau:
a) Trọng tài nước ngoài ban hành phán quyết ngoài lãnh thổ Việt Nam (áp
dụng nguyên tắc lãnh thổ).
b) Trọng tài nước ngoài ban hành Phán quyết trong lãnh thổ Việt Nam thì
trường hợp này là (phán quyết được ban hành trên lãnh thổ của nước công
nhận và cho thi hành nhưng không phải là phán quyết trong nước).
Có thể hiểu thêm là: Một phán quyết do trọng tài được thành lập theo pháp
luật Việt Nam ban hành trong lãnh thổ của một nước khác là PQTTNN, như vậy sẽ
phù hợp và sát sao với nguyên tắc lãnh thổ của CƯ hơn. Trọng tài nước ngoài là

Trọng tài được thành lập theo quy định của pháp luật, trọng tài nước ngoài do các bên
thỏa thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết tranh chấp ở ngoài lãnh thổ Việt Nam
hoặc trong lãnh thổ Việt Nam.
Tóm lại, dù có cần giải nghĩa ra thì “Phán quyết trọng tài nước ngoài” cũng là
“Phán quyết của trọng tài nước ngoài” và được hiểu rằng: Phán quyết do Trọng tài
nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc được tuyên ở trong lãnh thổ Việt
Nam để giải quyết tranh chấp thương mại do các bên thỏa thuận lựa chọn.

9


1.2. Khái niệm công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng Tài nước
ngồi
Việc cơng nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài hiện nay
được hầu hết các nước áp dụng theo CƯ 1958, CƯ được thơng qua vào ngày
10/6/1958 và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 7/6/1959.
CƯ có tổng cộng 16 điều, trong đó 9 điều quy định về các thủ tục gia nhập, ký
kết, phê chuẩn của các quốc gia thành viên, về hiệu lực của công ước, các điều còn
lại quy định về thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài,
việc từ bỏ tham gia công ước, việc sử dụng công ước của các quốc gia và trách nhiệm
của Liên Hợp quốc trong việc triển khai thi hành công ước. Như vậy, mục tiêu của
CƯ 1958 là tạo ra những tiêu chuẩn pháp lý chung cho tất cả các nước tham gia về
việc công nhận các thỏa thuận trọng tài cũng như việc công nhận và thi hành các phán
quyết của trọng tài nước ngồi.
Theo đó, chính vì mục tiêu chuẩn về pháp lý cho nên các quốc gia thành viên
CƯ không được phân biệt đối xử đối với các PQTTNN và có nghĩa vụ phải đảm bảo
các PQTTNN được cơng nhận và có khả năng thi hành giống như các phán quyết
trọng tài trong nước.
Ngoài ra, CƯ 1958 còn yêu cầu Tòa án của các nước thành viên trao hiệu lực
đầy đủ cho thỏa thuận trọng tài bằng cách từ chối giải quyết các các tranh chấp có

dẫn chiếu đến một thoả thuận trọng tài. Như vậy, điều này cũng cho thấy tính chất
chuẩn mực về pháp lý của công ước cũng như những mục tiêu yêu cầu đề ra.
Ngày 28/7/1995, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Quyết
định số 453/QĐ-CTN về việc tham gia Công ước về cơng nhận và thi hành Phán
quyết trọng tài nước ngồi. Được biết cho đến nay đã có 157 quốc gia và vùng lãnh
thổ tham gia CƯ 1958.
Ngoài ra, Việt Nam đã ký kết với 18 nước Hiệp định song phương, trong đó
có 14 hiệp định về tương trợ tư pháp đề cập đến quy định về công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngồi, PQTTNN. Bao gồm: Liên
bang Nga, Séc, Xlơvakia, Ba Lan, Hungari, Bungari, CuBa, CHDCND Lào, Trung
10


Quốc, CHDCND Triều Tiên, Ucraina, Belarut, Pháp, Mông Cổ. Tất cả các Hiệp định
song phương này đều có quy định về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định
dân sự của toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngồi. Chế định cơng
nhận và thi hành bản án, quyết định của nước ngoài trong các Hiệp định tương trợ
tư pháp thường bao gồm các nội dung: phạm vi công nhận và thi hành; về điều kiện
công nhận và thi hành; về nội dung đơn yêu cầu công nhận và thi hành; thủ tục công
nhận và thi hành; việc chuyển tiền và tài sản để đảm bảo thi hành quyết định. a/ Phạm
vi công nhận và thi hành: các bản án, quyết định của nước ngoài được công nhận và
cho thi hành bao gồm: bản án, quyết định dân sự; phần dân sự trong bản án hình sự;
các quyết định của Trọng tài thương mại. Đặc biệt trong một số các Hiệp định tương
trợ tư pháp ký với các nước còn phân biệt các bản án, quyết định dân sự có tính chất
tài sản và bản án, quyết định khơng mang tính chất tài sản trong việc công nhận và
cho thi hành. Điều 51 Hiệp định với Nga quy định đối với các bản án, quyết định dân
sự khơng mang tính tài sản của Bên ký kết này được công nhận trên lãnh thổ của Bên
ký kết kia mà không phải qua một thủ tục đặc biệt nào. Như vậy, ở đây có thể hiểu
việc Tồ án xem xét công nhận và cho thi hành chủ yếu đặt ra đối với các bản án,
quyết định có tính chất tài sản và trong tương lai sẽ phải áp dụng các biện pháp

cưỡng chế thi hành nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành. b/ Điều
kiện công nhận và thi hành: các Hiệp định đều quy định rất cụ thể các điều kiện đặt
ra đối với một bản án, quyết định để có thể được cơng nhận và cho thi hành. Tóm lại:
Thứ nhất, bản án, quyết định phải có hiệu lực pháp luật trên lãnh thổ nước tuyên bản
án, quyết định đó; Thứ hai, bản án, quyết định được cơ quan có thẩm quyền tuyên;
Thứ ba, các thủ tục tố tụng phải được đảm bảo.
1.3. Cơ sở pháp luật về việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán
quyết của Trọng tài nước ngoài
Sau khi tham gia CƯ 1958 vào năm 1995, đến nay Việt Nam đã nội luật hóa
các quy định của Công ước thể hiện tại BLTTDS năm 2015, Luật trọng tài thương
mại năm 2010 làm cơ sở pháp lý cho việc công nhận PQTTNN. Vấn đề công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam PQTTNN hiện đã được quy định tại Phần thứ bảy
11


(Chương XXXV và Chương XXXVII): Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam Phán quyết Trọng tài nước ngoài của BLTTDS năm 2015.
Những phán quyết được xem xét và cho thi hành tại Việt Nam quy định tại
Điều 424. Phán quyết của Trọng tài nước ngồi được cơng nhận và cho thi hành tại
Việt Nam, và quy định đó được xác định tai Điều 67 của Luật Trọng tài Thương Mại
năm 2010: : Phán quyết Trọng tài được thi hành theo qui định của pháp luật thi hành
án dân sự.”
Theo Điều 424 BLTTDS năm 2015;
+ Phán quyết của Trọng tài nước ngồi sau đây được xem xét cơng nhận và
cho thi hành tại Việt Nam:
a) Phán quyết của Trọng tài nước ngồi mà nước đó và Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam cùng là thành viên của điều ước quốc tế về công nhận và cho thi hành
phán quyết của Trọng tài nước ngoài;
b) Phán quyết của Trọng tài nước ngồi khơng thuộc trường hợp quy định tại
điểm (a) khoản này trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại.

+ Phán quyết của Trọng tài nước ngồi quy định tại khoản 1 Điều này được
xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam là phán quyết cuối cùng của Hội
đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp, chấm dứt tố tụng trọng tài
và có hiệu lực thi hành.
+ Trọng tài nước ngoài, Phán quyết của Trọng tài nước ngoài quy định tại
khoản 1 Điều này được xác định theo quy định của Luật trọng tài thương mại của
Việt Nam.
Việc công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài là một
việc làm tất yếu để thi hành. Việc thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại
Việt Nam được thực hiện trên cơ sở quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án có
thẩm quyền về công nhận và cho thi hành (khoản 3 Điều 427 BLTTDS) về bảo đảm
hiệu lực quyết định của Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành hoặc không cơng
nhận Phán quyết của Trọng tài nước ngồi; Phán quyết của Trọng tài nước ngoài chỉ

12


được thi hành tại Việt Nam sau khi quyết định của Tòa án Việt Nam công nhận và
cho thi hành Phán quyết của Trọng tài nước ngồi đó có hiệu lực pháp luật.
Theo đó, việc cơng nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài được
quy định trong BLTTDS, phù hợp với CƯ 1958 mà Việt Nam gia nhập từ năm 1995.
Như vậy, Phán quyết trọng tài là quyết định giải quyết toàn bộ tranh chấp và
chấm dứt tố tụng trọng tài (khác với Quyết định trọng tài là quyết định được ban hành
trong quá trình giải quyết tranh chấp). Theo cuốn hướng dẫn của Hội đồng quốc tế về
trọng tài thương mại (viết tắt là ICCa) diễn giải CƯ 1958 có viết “Thể thức trọng tài
là một phương thức giải quyết tranh chấp trong đó các bên thống nhất đưa tranh chấp
ra một bên thứ ba là bên sẽ đưa ra quyết định chung thẩm và có tính ràng buộc thay
vì đưa ra Tòa án”.
Phán quyết trọng tài có 3 ý nhĩa sau:
+ Có sự đồng thuận dựa trên thỏa thuận của các bên;

+ Là biện pháp giải quyết tranh chấp có tính chất chung thẩm (có hiệu lực pháp
luật ngay) và ràng buộc các bên;
+ Là phương thức thay thế tố tụng tại Tòa án.
- Phán quyết Trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn
bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài (khoản 10 Điều 3 Luật TTTM)
và khoản 2 Điều 424 BLTTDS năm 2015 quy định: “Phán quyết của Trọng tài nước
ngoài quy định tại khoản 1 Điều này được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam là phán quyết cuối cùng của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ
tranh chấp, chấm dứt tố tụng trọng tài và có hiệu lực thi hành”
- Trọng tài nước ngồi là Trọng tài được thành lập theo quy định của pháp
luật trọng tài nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết tranh
chấp ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam (khoản 11 Điều 3 Luật
TTTM).
- PQTTNN là phán quyết do Trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ
Việt Nam hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải quyết tranh chấp do các bên thỏa
thuận lựa chọn (khoản 12 Điều 3 Luật TTTM).
13


- PQTTNN được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
có hiệu lực pháp luật như quyết định của Tòa án của Việt Nam khi có hiệu lực pháp
luật.
- Địa điểm giải quyết tranh chấp là nơi Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết
tranh chấp theo sự thỏa thuận lựa chọn của các bên hoặc do Hội đồng trọng tài quyết
định nếu các bên khơng có thỏa thuận. Nếu địa điểm giải quyết tranh chấp được tiến
hành trên lãnh thổ Việt Nam thì phán quyết phải được coi là tuyên tại Việt Nam mà
không phụ thuộc vào nơi Hội đồng trọng tài tiến hành phiên họp để ra phán quyết đó
(khoản 11 Điều 3 Luật TTTM).
Có thể nói, khi Tịa án được u cầu công nhận phán quyết trọng tài, Tòa án
không chỉ được yêu cầu công nhận hiệu lực pháp lý của phán quyết, mà còn phải đảm

bảo phán quyết đó được thi hành.
BLTTDS năm 2015 cũng quy định rằng: “Phán quyết được công nhận sẽ được
thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự và chỉ được thi hành sau khi có quyết định
của Tòa án Việt Nam cơng nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngồi
có hiệu lực pháp luật” (Điều 427 BLTTDS).
Cho nên, trên cơ sở luật định thì việc cơng nhận và cho thi hành phán quyết
của trọng tài nước ngoài ở Việt Nam hiện nay là một thủ tục tố tụng đặc biệt do Tòa
án tiến hành để xem xét, và cho công nhận PQTTNN trên phạm vi lãnh thổ của Việt
Nam.
1.4. Nguyên tắc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của
Trọng tài nước ngoài.
Để đảm bảo quyền lợi của các chủ thể liên quan, trên cơ sở chủ quyền quốc
gia, việc công nhận, thi hành PQTTNN phải tuân theo một số nguyên tắc công nhận
và cho thi hành PQTTNN ở Việt Nam pháp lý nhất định bao gồm:
Trên cơ sở Công ước New York 1958, khi gia nhập Việt Nam đã giới hạn
phạm vi áp dụng của Công ước New York 1958 tại Quyết định số 453/QĐ-CTN ngày
28-7-1995 của Chủ tịch nước về việc tham gia Công ước New York 1958. Theo quy
định tại Điều 2 của Quyết định số 453/QĐ- CTN ngày 28-7-1995 của Chủ tịch nước
14


về việc tham gia Cơng ước New York 1958 thì Việt Nam đưa ra 3 điều bảo lưu cơ
bản đó là:

(1) Công ước chỉ áp dụng đối với việc công nhận và thi hành tại Việt Nam
quyết định của Trọng tài nước ngoài được tuyên tại lãnh thổ của các q uốc gia
thành viên của Công ước; đối với quyết định của Trọng tài nước ngoài tuyên tại
lãnh thổ của quốc gia chưa ký kết hoặc tham gia Công ước, Công ước được áp dụng
tại Việt Nam theo nguyên tắc có đi có lại.


(2) Chỉ áp dụng Cơng ước đối với “tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp
luật thương mại.”
(3) Mọi sự giải thích Cơng ước trước Tồ án hoặc cơ quan có thẩm quyền
khác của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam.
Tuy nhiên, sau đó tại Điều 21 Pháp lệnh công nhận và cho thi hành quyết định
của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam quy định: ”Trường hợp điều ước quốc tế
mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác quy
định của pháp lệnh này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế” và nay tại khoản
3 Điều 2 BLTTDS năm 2015 quy định: ”Bộ luật tố tụng dân sự được áp dụng đối
với việc giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi; trường hợp điều ước quốc
tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp
dụng quy định của điều ước quốc tế đó”
Theo quy định tại Điều 424 BLTTDS năm 2015 thì Tồ án Việt Nam xem xét
đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước
ngoài theo 2 nguyên tắc cơ bản như sau.

- Theo quy định tại Điều 424 BLTTDS năm 2015 thì Tồ án Việt Nam xem
xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài
nước ngoài theo 2 nguyên tắc cơ bản:
Thứ nhất, dựa trên cơ sở điều ước quốc tế:
a) Phán quyết của Trọng tài nước ngồi mà nước đó và Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam cùng là thành viên của điều ước quốc tế về công nhận và cho thi
hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài;
b) Phán quyết của Trọng tài nước ngồi khơng thuộc trường hợp quy định tại
điểm a khoản này trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại.
Tuy nhiên, trong thực tiễn còn vướng mắc bởi pháp luật chưa định ra được
15



×