Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

PHÁP LUẬT về NGHĨA vụ tài CHÍNH của NGƯỜI sử DỤNG đất đối với NHÀ nước ở VIỆT NAM HIỆN NAY tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.05 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------------

NGUYỄN THỊ THANH XUÂN

PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ TÀI CHÍNH
CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG ĐẤT ĐỐI VỚI NHÀ NƢỚC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 9380107

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


Cơng trình được hồn thành tại:
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS-TS. PHẠM THỊ GIANG THU
PGS-TS. NGUYỄN THỊ NGA

Phản biện 1: GS.TS. Hoàng Thế Liên
Phản biện 2: PGS.TS. Trần Thị Thúy Lâm
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Thị Thƣơng Huyền

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện


họp tại:
Vào hồi:

giờ

ngày tháng năm

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


NHỮNG CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ
1. Nguyễn Thị Thanh Xuân, (2018), Đề xuất sửa đổi quy định về thu tiền sử
dụng đất trong Luật đất đai năm 2013, Tạp chí Công thương, Số 2 – Tháng
2 năm 2018
2. Nguyễn Thị Thanh Xuân, (2018), Sửa đổi quy định về thuế sử dụng đất
trong bối cảnh thực hiện cải cách tài chính về đất đai, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, số Tháng 3 (312) năm 2018.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đất đai là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế của các quốc
gia. Ở Việt Nam, đất đai là tài sản công và quyền quản lý, thu lợi của Nhà
nước đối với tài sản công được chế định bằng pháp luật đất đai. Đất đai
được khai thác, sử dụng hiệu quả hay không phụ thuộc vào mức độ vốn hóa
để chuyển tài nguyên thành tài sản, thành vốn. Đảm bảo quyền bình đẳng
trong việc tiếp cận, sử dụng tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế

chính là đảm bảo cơng bằng cả về kinh tế và xã hội của các chủ thể trong
quan hệ đất đai. Trong bốn công cụ quản lý của các lý thuyết về quản lý đất
đai hiện nay, công cụ tài chính đất đai giữ vai trị cân bằng lợi ích của các
bên một cách trực tiếp nhất.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XI) - Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31 tháng 10 năm 2012 đã xác
định hồn thiện pháp luật về tài chính đất đai là một nội dung cần thực hiện
trong thời kỳ đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, tạo nền tảng đưa nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tiếp tục thực
hiện mục tiêu này, Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 Hội nghị
Trung ương 5 Khóa XII về hồn thiện thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam
đã định hướng yêu cầu cải cách với những tiêu chí rõ ràng; cụ thể “cải cách
mạnh mẽ chính sách tài chính về đất đai theo hướng đơn giản, ổn định,
công khai, minh bạch và công bằng” là một trong các nhiệm vụ trước mắt.
Tính đến hết 31/12/2018, diện tích đất đưa vào sử dụng ở nước ta là
93.7% tổng diện tích đất tự nhiên [88]. Thu ngân sách từ đất giai đoạn 2013
– 2018, chiếm tỉ trọng trung bình khoảng 14,4% thu nội địa. Từ sau khi
Luật đất đai 2013 có hiệu lực, tỉ lệ thu ngân sách từ đất trên tổng thu nội địa
tăng đáng kể cả về tổng thu lẫn tỉ lệ phần trăm; Cụ thể từ 11,1% (năm

1


2013), 11,4% (năm 2014) lên 13.3% (năm 2015), 15,9% (năm 2016),
16,8% (năm 2017) và 17,9% (năm 2018). Nội dung thu ngân sách từ đất
hiện tập trung chủ yếu vào nghĩa vụ tài chính (NVTC) của người sử dụng
đất (NSDĐ) đối với Nhà nước. Mặc dù kết quả thu ngân sách từ đất luôn
tăng cao trong những năm gần đây nhưng nguồn thu mang yếu tố quyết
định lại không ổn định, thiếu bền vững. Thuế thu từ đất có cơ sở thu ổn
định nhưng mức thu lại thấp, tỉ trọng thu thuế đất trên tổng thu từ đất chưa

đến 1,3%, thấp hơn chi phí quản lý thuế. Theo một nghiên cứu của Ngân
hàng thế giới thì chi phí hoạt động quản lý thuế của Việt Nam chiếm đến
2% tổng thu từ thuế. Như vậy, thuế đất đai hiện nay không đủ để bù đắp chi
phí hành thu. Ngược lại, tiền sử dụng đất là khoản thu ngân sách từ đất
chiếm tỉ trọng lớn nhất, trung bình khoảng 70% nguồn thu ngân sách từ đất
nhưng cơ sở thu không bền vững. Gần đây nhất, báo cáo số 42/BC-KTNN
ngày 11 tháng 5 năm 2020 của Kiểm toán Nhà nước về quyết toán ngân
sách năm 2018 cho thấy thu ngân sách năm 2018 bằng 110,7% năm 2017,
song kết quả tăng thu nội địa chủ yếu từ thu tiền sử dụng đất. Tiền sử dụng
đất chỉ thu được một lần cho một diện tích đất cụ thể, không thu hàng năm.
Với tỉ lệ đất tự nhiên đã đưa vào sử dụng cao như hiện nay, tương lai thu từ
đất trong tương lai sẽ giảm mạnh, khơng bảo đảm quyền kinh tế của chủ sở
hữu đất.
Tình hình hoạt động quản lý, sử dụng đất tại các địa phương từ năm
2013 đến năm 2020 qua thanh tra của Thanh tra Chính phủ và kiểm tốn
của Kiểm tốn Nhà nước cho thấy tồn tại những hạn chế trong quy định về
NVTC của NSDĐ và sai phạm trong thực thi pháp luật. Hầu hết các địa
phương đều xảy ra tình trạng thất thu ngân sách từ đất, phổ biến là xác định
không đúng NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước, tính khơng đúng, khơng
đủ, chậm thu, chậm nộp mà khơng phạt chậm nộp... Ngun nhân của tình

2


trạng trên xuất phát từ thực trạng pháp luật NVTC của NSDĐ đối với Nhà
nước chưa hoàn thiện. Quy định về xác định NVTC như loại đất, đơn giá,
chu kỳ giá, thuế suất… còn nhiều bất cập. Thực trạng pháp luật về NVTC
của NSDĐ đối với Nhà nước vẫn còn nhiều kẽ hở và khoảng trống pháp lý
dẫn tới gian lận, trốn và tránh thực hiện pháp luật. Thực hiện pháp luật cịn
tồn tại tình trạng khơng tn thủ, khơng thi hành pháp luật từ phía NSDĐ

và áp dụng pháp luật khơng chính xác từ phía cơ quan quản lý đất đai, cơ
quan thuế. NSDĐ trốn và tránh thực hiện NVTC đất đai, tự ý chuyển mục
đích sử dụng đất, không làm thủ tục hợp pháp để trốn nghĩa vụ nộp tiền sử
dụng đất, thuế thu nhập. Cơ quan quản lý đất đai và cơ quan thuế áp dụng
pháp luật cịn nhiều sai phạm như: khơng ký hợp đồng th đất, khơng làm
phiếu chuyển thơng tin địa chính nên khơng thể xác định NVTC của
NSDĐ, tính khơng đúng, khơng đủ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế, áp
dụng quy định miễn giảm không đúng đối tượng... Tất cả thực trạng trên đã
và đang gây thất thu ngân sách Nhà nước từ đất ở Việt Nam.
Nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về Nghĩa vụ tài chính của người
sử dụng đất đối với Nhà nước ở Việt Nam hiện nay là rất cấp thiết. Nghiên
cứu này sẽ góp phần giải quyết những tồn tại trong thực trạng pháp luật và
thực hiện pháp luật về tài chính đất đai. Cơng cụ tài chính trong quản lý đất
đai được hồn thiện sẽ phát huy tốt nguồn lực đất đai, thúc đẩy quá trình
vốn hóa đất đai được hiệu quả.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm hoàn thiện pháp luật về
nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất đối với Nhà nước và đưa ra các
giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở Việt Nam.

3


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, hệ thống hóa và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nghĩa
vụ tài chính và lý luận về pháp luật về NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước:
Cụ thể phân tích làm rõ các cơ sở lý thuyết về nghĩa vụ tài chính đối với
Nhà nước của NSDĐ; vai trị của tài chính về đất trong quản lý đất đai, đặc
điểm pháp luật về NVTC của NSDĐ; tiêu chí, nguồn luật, cơ cấu nội dung

của pháp luật về NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực
hiện pháp luật về nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất trong bối cảnh
cải cách tài chính đất đai để hướng tới hồn thiện thể chế KTTT định hướng
XHCN. Luận án tập trung phân tích nội dung các quy định về thời điểm
phát sinh nghĩa vụ, phạm vi nghĩa vụ, thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ,
trình tự thủ tục thực hiện từng loại tiền trong nhóm NVTC của NSDĐ đối
với Nhà nước.
Thứ ba, trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật và những khó khăn,
hạn chế, nguyên nhân, yêu cầu điều chỉnh pháp luật, luận án đưa ra định
hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về NVTC của NSDĐ đối với Nhà
nước.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thứ nhất, nghiên cứu các lý thuyết kinh tế về địa tô của Karl Marx,
lý thuyết về đánh thuế đất đai của Adam Smith, Henry George để làm tiền
đề cho lý luận về pháp luật NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước ở Việt
Nam hiện nay.
Thứ hai, nghiên cứu các quy định pháp luật về NVTC của NSDĐ từ
Luật đất đai năm 1987 đến pháp luật hiện hành và thực trạng pháp luật.

4


Thứ ba, nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật NVTC của NSDĐ
đối với Nhà nước ở một số tỉnh thành và kết quả hành thu tài chính đất đai
trên phạm vi cả nước.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Do tính chất phức tạp và rộng lớn của đề tài, luận án giới hạn phạm
vi nghiên cứu ở việc đi sâu phân tích, tìm hiểu các quy định hiện hành về

nghĩa vụ tài chính của NSDĐ đối với Nhà nước, gồm tiền sử dụng đất, tiền
thuê đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất và lệ
phí trước bạ.
Về không gian: nghiên cứu việc thực hiện pháp luật trên phạm vi cả
nước;
Về thời gian: Do quyết toán ngân sách Nhà nước được thực hiện
chậm hơn so với năm hành thu khoảng hai (02) năm, nên số liệu thu ngân
sách từ đất được sử dụng trong khoảng thời gian từ 2013 đến 2018.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp hệ thống hóa và phương
pháp luật học so sánh.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng khi đánh giá thực trạng pháp
luật về NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước để rút ra những kết luận, nhận
định tổng quát; làm cơ sở cho xây dựng quan điểm và đề xuất giải pháp
hoàn thiện.
- Phương pháp hệ thống hóa được sử dụng trong tồn bộ các
chương của luận án nhằm trình bày các nội dung, vấn đề theo một bố cục
hợp lý, gắn kết.

5


- Phương pháp phân tích được sử dụng ở tất cả các chương trong
luận án để luận giải các vấn đề đặt ra từ lý luận đến thực tiễn về NVTC của
NSDĐ đối với Nhà nước.
- Phương pháp luật học so sánh được sử dụng vào chương 2 và
chương 4 của luận án. Trên cơ sở quy định của các quốc gia trên thế giới về
NVTC của chủ đất đối với Nhà nước, luận án rút ra những điểm tương
đồng, khác biệt, so sánh để đánh giá được những ưu, nhược điểm của pháp

luật về NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước ở Việt Nam; trên cơ sở đó xây
dựng giải pháp hoàn thiện pháp luật.
5. Những điểm mới của luận án
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu liên quan
đến NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước, với sự nghiên cứu độc lập và
nghiêm túc, luận án có những đóng góp khoa học sau đây:
- Thứ nhất, luận án đã tổng hợp và xây dựng một cách hệ thống
những vấn đề lý luận về nghĩa vụ tài chính và lý luận pháp luật về NVTC
của NSDĐ đối với Nhà nước. Các lý thuyết kinh tế về địa tô của K. Mark,
lý thuyết về đánh thuế đất đai của Adam Smith và Henry Goerge được phân
tích để luận giải cơ sở thu, cơ sở hình thành nghĩa vụ tài chính của NSDĐ
đối với Nhà nước. Bên cạnh đó, luận án cịn làm rõ đặc điểm, cơ cấu nội
dung pháp luật, tiêu chí, nguồn của pháp luật và các yếu tố tác động đến
việc xây dựng và thực hiện pháp luật về NVTC của NSDĐ đối với Nhà
nước. Dựa trên cơ sở lý thuyết, luận án đề xuất cơ sở xây dựng cấu trúc nội
dung pháp luật về NVTC của NSDĐ, xác định nội hàm thuật ngữ “thu tài
chính từ đất” trong pháp luật hiện hành, làm cơ sở xây dựng quy định các
khoản thu cụ thể.
- Thứ hai, luận án đã phân tích thực trạng pháp luật và thực hiện
pháp luật về nghĩa vụ tài chính của NSDĐ đối với Nhà nước. Dựa trên xây

6


dựng cấu trúc nội dung pháp luật NVTC của NSDĐ, luận án đánh giá thực
trạng quy định của pháp luật về nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất,
thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất và lệ phí đất
đai.
Một trong những điểm mới của luận án chính là cách thức tiếp cận
thực trạng pháp luật về các khoản thu từ đất mà NSDĐ phải nộp. Luận án

phân tích quy định theo cơ cấu nội dung pháp luật về NVTC của NSDĐ mà
luận án đã xây dựng ở phần lý luận. Quy định của pháp luật về nghĩa vụ
nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ
chuyển quyền sử dụng đất (QSDĐ) và lệ phí đất đai phải được làm rõ theo
cơ cấu: thời điểm phát sinh nghĩa vụ, phạm vi nghĩa vụ (mức nộp, giá đất,
cách xác định), cơ sở thu, thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ, thủ tục
thực hiện, chính sách miễn giảm...
Từ thực trạng thực hiện pháp luật nêu trên, luận án chỉ ra những bất
cập, hạn chế của pháp luật về NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước: (i) quy
định về các loại nghĩa vụ tài chính cụ thể vẫn chưa bao quát hết các cơ sở
thu, chưa bảo đảm tính ổn định, minh bạch, cơng bằng và thực tiễn hành thu
vẫn tồn tại nhiều gian lận, thất thoát; (ii) thất thoát tiền sử dụng đất do quy
định về nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất còn bất cập; (iii) thất thốt tiền th
đất do cơng tác quản lý đất đai lỏng lẻo và thiếu quy định điều chỉnh; (iv)
thuế thu nhập từ chuyển nhượng QSDĐ hiện nay có cơ sở thuế không thống
nhất giữa Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật thuế thu nhập cá nhân;
(v) quy định về NVTC của NSDĐ chưa điều chỉnh kịp thời những sản
phẩm BĐS mới phát sinh trên thị trường hiện nay.
- Thứ ba, luận án đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật về NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước, phù hợp với mục tiêu cải cách
tài chính đất đai và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện

7


nay: (i) xây dựng các loại nghĩa vụ tài chính có cơ sở thu là giá trị tăng
thêm từ đất bằng công cụ thuế, bổ sung thuế đánh trên phần giá trị tăng
thêm; (ii) bổ sung chế tài trong trường hợp chậm xác định NVTC; (iii) hoàn
thiện quy định về thủ tục cho thuê đất để quy định thống nhất thời điểm
phát sinh nghĩa vụ nộp tiền thuê đất; (iv) hoàn thiện quy định đơn giá thuê

đất trả tiền hàng năm không thông qua đấu giá theo hướng xác định theo
từng năm tài chính; (v) các giải pháp tránh thất thoát tiền thuê đất; (vi) thuế
sử dụng đất cần quy định thuế suất ở mức hợp lý hơn, phù hợp với cơ sở
thu; (vii) thống nhất quy định cơ sở thuế của thuế thu nhập từ chuyển
nhượng QSDĐ của cá nhân và doanh nghiệp là như nhau theo hướng đánh
trên thu nhập ròng để bảo đảm nhất quán với bản chất thuế này; (viii) hoàn
thiện cơ sở dữ liệu địa chính và hình thức thanh tốn trong giao dịch đất
đai. Những giải pháp luận án đưa ra bao quát từ cơ sở thu đến thủ tục thực
hiện, từ quy định chung đến quy định cụ thể.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
Thứ nhất, về mặt lý luận, luận án là cơng trình khoa học nghiên cứu
một cách hệ thống các vấn đề từ cơ sở lý thuyết, lý luận đến thực trạng pháp
luật về nghĩa vụ tài chính của NSDĐ đối với Nhà nước. Luận án đã tổng
hợp, vận dụng các lý thuyết của các nhà kinh tế học tư sản cổ điển như lý
thuyết kinh tế về địa tô, lý thuyết về đánh thuế đất đai để luận giải cơ sở
hình thành NVTC đất đai của NSDĐ. Cơ sở lý luận cho pháp luật về NVTC
của NSDĐ đối với Nhà nước cũng được luận án làm rõ. Những nghiên cứu
về mặt lý luận của luận án có thể góp phần giúp các nhà nghiên cứu xây
dựng và hoàn thiện các nguyên tắc, tiêu chí của NVTC của NSDĐ đối với
Nhà nước khi sửa đổi, bổ sung Luật đất đai năm 2013.
Thứ hai, về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu thực trạng pháp luật
và thực tiễn thực hiện pháp luật về NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước của

8


luận án đã chỉ ra những bất cập, vướng mắc, khoảng trống trong điều chỉnh
pháp luật hiện nay. Luận án đã đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về NVTC đối của NSDĐ với Nhà
nước; gợi mở cho các nhà lập pháp tham khảo như một quan điểm đề xuất

sửa đổi Luật đất đai năm 2013.
7. Cơ cấu của luận án
Luận án gồm có: Phần mở đầu; Bốn chương; Kết luận và Danh mục
tài liệu tham khảo;
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của
luận án
Chương 2: Lý luận về nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất và
về pháp luật nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất đối với Nhà nước
Chương 3: Thực trạng pháp luật và đánh giá việc thực hiện pháp
luật về nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất đối với Nhà nước ở Việt
Nam hiện nay
Chương 4: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất
đối với Nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
CỦA LUẬN ÁN
1.1 Tổng quan các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Tác giả chia thành những nhóm cơng trình nghiên cứu sau:
Nhóm thứ nhất: Các cơng trình nghiên cứu khoa học liên quan đến
những vấn đề lý luận nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước của người sử
dụng đất

9


Nhóm thứ hai: Các cơng trình khoa học liên quan đến thực trạng
pháp luật nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất đối với Nhà nước
1.2. Những nội dung nghiên cứu liên quan đƣợc luận án kế thừa
Thứ nhất, những nội dung liên quan đến cơ sở lý luận nghĩa vụ tài

chính của người sử dụng đất đối với Nhà nước được luận án kế thừa
Một là, luận án đã tiếp thu cơ sở lý thuyết kinh tế về địa tô, lý
thuyết về đánh thuế đất đai của các nhà kinh tế học tư sản cổ điển K.Mark,
Henry George. Đây là cơ sở cho việc thực hiện quyền kinh tế đối với đất
đai của chủ sở hữu đất.
Hai là, pháp luật về NVTC của NSDĐ là công cụ quan trọng để
thực hiện công bằng trong tiếp cận đất đai, động viên về mặt kinh tế giữa
các chủ sử dụng đất. Các cơng trình này đã giúp luận án có được những
nhận thức cơ bản về vai trò của tài chính đất đai trong quản lý đất đai trong
thực hiện công bằng xã hội và phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam.
Ba là, các quốc gia với các hình thức sở hữu đất khác Việt Nam đã
có những chính sách tài chính đất đai khác nhau nhưng tựu trung đều đánh
trên giá trị đất và giá trị tăng thêm từ đất. Các nghiên cứu này cũng gợi mở
cho luận án những thông tin cần thiết để so sánh đối chiếu với Việt Nam và
đánh giá vấn đề một cách toàn diện.
Thứ hai, những nội dung liên quan đến thực trạng pháp luật và
thực tiễn thực hiện pháp luật về nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất
với Nhà nước được luận án kế thừa
Một là, giá trị tăng thêm từ đất khi khả năng sinh lợi tăng được thể
hiện bằng giá trị tính thành tiền. Mọi giá trị tăng thêm từ đất sẽ thuộc về
Nhà nước sau khi trừ đi phần giá trị thuộc về NSDĐ. Đây chính là nguồn

10


thu ngân sách Nhà nước, được phân phối trở lại cho tồn xã hội thơng qua
pháp luật về tài chính, ngân sách.
Hai là, quy định thu tiền sử dụng đất cho trường hợp chuyển mục
đích sử dụng đất hiện nay góp phần tăng thu ngân sách, quản lý đất đai hiệu

quả; nhưng việc sử dụng công cụ điều tiết của thị trường sơ cấp, phân phối
trực tiếp (tiền sử dụng đất, tiền th đất) là khơng phù hợp.
Ba là, chính sách thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất chưa
thực hiện điều tiết có hiệu quả đối với giá trị tăng thêm từ đất không do
NSDĐ tạo ra.
Bốn là, thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về NVTC của
NSDĐ tồn tại vấn đề trốn và tránh NVTC, giá đất trong xác định NVTC
của NSDĐ chưa phù hợp với giá trị thị trường của đất. Các kết quả nghiên
cứu này được luận án sử dụng để viện dẫn và minh chứng khi phân tích và
giải thích, lập luận hay nêu quan điểm của chính luận án như một ý kiến
đồng thuận hay trái chiều.
Thứ ba, những nội dung liên quan đến các giải pháp, kiến nghị
hoàn thiện pháp luật nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất đối với Nhà
nước được luận án kế thừa.
Một là, các nghiên cứu đều đề xuất giá đất trong tính giao, thuê,
thuế đất là giá đất trên thị trường, tránh tình trạng thất thu ngân sách từ đất.
Các nghiên cứu thường tập trung sâu vào nguyên tắc và phương pháp xác
định giá đất để nhằm đạt được một mức giá tiệm cận giá thị trường. Những
giải pháp của các nghiên cứu trên có giá trị rất lớn đối với luận án trong
việc xác định hướng hồn thiện chính sách giá đất. Theo đó, luận án sẽ
khơng hồn thiện chính sách giá đất theo hướng tập trung vào nguyên tắc và
phương pháp định giá.

11


Hai là, có những nghiên cứu đưa ra đề xuất xây dựng thuế tài sản
đánh đối với đất. Từ góc độ khoa học luật và cơ sở lý thuyết đã nghiên cứu,
luận án vẫn tiếp thu những quan điểm của cơ quan xây dựng dự thảo Luật
thuế tài sản để xây dựng giải pháp hoàn thiện pháp luật về NVTC của

NSDĐ đối với Nhà nước.
Ba là, có 02 nghiên cứu đề xuất xây dựng thuế chuyển mục đích sử
dụng đất thay cho thu tiền sử dụng đất khi chuyển mục đích. Đây cũng là
một gợi mở cho luận án trong phát triển ý tưởng để hoàn thiện pháp luật về
NVTC của NSDĐ ở Việt Nam hiện nay.
1.3 Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Thứ nhất là về mặt lý luận, luận án phải tiếp tục nghiên cứu các nội
dung còn bỏ ngỏ liên quan đến cơ sở lý luận gồm: (i) Khái niệm, đặc điểm,
vai trò của nghĩa vụ tài chính của NSDĐ đối với Nhà nước; (ii) Khái niệm,
đặc điểm pháp luật về NVTC của NSDĐ; (iii) Các nguyên tắc, tiêu chí của
pháp luật về NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước; (iv) Cơ cấu nội dung
pháp luật về NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước; (v) Các yếu tố ảnh hưởng
đến pháp luật về NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước và (vi) Nguồn luật
của pháp luật về NVTC của NSDĐ.
Thứ hai là về thực trạng pháp luật, luận án phải làm rõ thực trạng
pháp luật về các khoản thu từ đất mà NSDĐ phải nộp theo cơ cấu nội dung
pháp luật về NVTC của NSDĐ được luận án xây dựng ở phần cơ sở lý luận:
thời điểm phát sinh nghĩa vụ, phạm vi nghĩa vụ (mức nộp, giá đất, cách xác
định), cơ sở thu, thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ, thủ tục thực hiện,
chính sách miễn giảm...
Thứ ba là về kiến nghị hoàn thiện pháp luật, luận án đề xuất các
giải pháp hoàn thiện:

12


Một là, kiến nghị hoàn thiện quy định chung về tài chính đất đai
trong Luật đất đai do nội hàm tài chính đất đai gồm các khoản thu cụ thể
nào thì chưa có nghiên cứu nào làm rõ.
Hai là, đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật đối với

từng loại NVTC cụ thể dựa trên những bất cập cịn tồn tại theo hai nhóm:
(i) Sửa đổi những quy định hiện hành về nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất,
thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, lệ phí đất đai;
(ii) Căn cứ cơ sở thu NVTC, đề xuất bổ sung khoản thu mới và điều chỉnh
khoản thu không phù hợp.
Chƣơng 2
LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ TÀI CHÍNH CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG
ĐẤT VÀ VỀ PHÁP LUẬT NGHĨA VỤ TÀI CHÍNH CỦA
NGƢỜI SỬ DỤNG ĐẤT ĐỐI VỚI NHÀ NƢỚC
2.1. Lý luận về nghĩa vụ tài chính của ngƣời sử dụng đất đối với Nhà
nƣớc
2.1.1 Khái niệm, đặc điểm người sử dụng đất
Xuất phát từ chế độ sở hữu đất đai, NSDĐ trong chế độ đa sở hữu
và NSDĐ trong chế độ đơn sở hữu sẽ có địa vị pháp lý khác nhau. Ở Việt
Nam, NSDĐ là các chủ thể được Nhà nước dự liệu cho phép tham gia vào
quan hệ sử dụng đất. Chỉ khi các chủ thể này bằng hành vi của chính mình
tham gia vào quan hệ sử dụng đất thì mới làm phát sinh nghĩa vụ đối với
Nhà nước, trong đó có NVTC. Người sử dụng đất có các đặc điểm: (i) là
chủ thể được đại diện chủ sở hữu đất trao quyền sử dụng đất hoặc nhận
chuyển quyền sử dụng đất; (ii) không đồng thời là người sở hữu đất; (iii)
khơng có quyền định đoạt đất đai, quyền này chỉ thuộc về chủ sở hữu; (iv)
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất do Nhà nước quy định.

13


2.1.2 Khái niệm tài chính đất đai và nghĩa vụ tài chính của người sử
dụng đất đối với Nhà nước
Tài chính về đất đai trong pháp luật Việt Nam hiện nay chính là tài
chính cơng về đất đai, hồn tồn khơng có tài chính doanh nghiệp và tài

chính cá nhân về đất. Đây cũng chính là cơ sở làm hình thành nghĩa vụ tài
chính của NSDĐ đối với Nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước của NSDĐ là việc NSDĐ phải
trả tiền cho nhà nước dưới các hình thức nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất,
thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ giao dịch quyền sử dụng đất, phí và lệ
phí đất đai. Nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước của NSDĐ là loại nghĩa vụ
luật định và chỉ phát sinh với NSDĐ, không phải là nghĩa vụ của chủ thể
quản lý.
2.1.3 Cơ sở hình thành nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất đối với
Nhà nước
* Lý thuyết kinh tế về địa tô
Khái quát lý luận địa tô của C.Mác để luận giải cơ sở hình thành
chính sách tài chính cơng về đất đai nói chung và nghĩa vụ tài chính của
NSDĐ nói riêng trong điều kiện sở hữu toàn dân về đất mà đại diện thực
hiện quyền là Nhà nước. Nhà nước độc quyền phân phối đất trong thị
trường sơ cấp thơng qua hình thức giao đất, cho thuê đất và làm hình thành
nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất.
* Lý thuyết về thuế khóa của Adam Smith và Henry Goerge
Adam Smith đã đưa ra bốn châm ngôn về thuế, được sử dụng để
xây dựng quyền thu thuế nói chung của Nhà nước. Bên cạnh đó, xuất phát
từ đặc điểm cung về đất bị cố định, đường cung về đất không co giãn,
Henry George đã chỉ ra mức thuế đối với đất đai cố định không làm thay

14


đổi mức địa tô mà NSDĐ phải trả. Các chủ đất sẽ chịu đánh thuế vào đất
đai cố định còn chính phủ sẽ thu được phần tơ kinh tế thuần túy.
2.1.4 Đặc điểm nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất đối với Nhà
nước

- Thứ nhất, NVTC của NSDĐ đất đối với Nhà nước là loại nghĩa vụ luật
định.
- Thứ hai, NVTC của NSDĐ đất đối với Nhà nước được thực hiện bằng tiền
với một thủ tục chặt chẽ do Nhà nước quy định.
- Thứ ba, NVTC của NSDĐ đất đối với Nhà nước là một bộ phận của các
khoản thu tài chính từ đất của Nhà nước.
2.1.5 Vai trị của nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất đối với
Nhà nước trong quản lý đất đai
Nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất góp phần thực hiện công
bằng trong tiếp cận đất đai và phân bổ hợp lý lợi ích giữa Nhà nước và
NSDĐ; là cơng cụ quan trọng để quản lý đất đai và điều tiết thị trường bất
động sản, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
là cơ sở bảo đảm quyền thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và tạo
nguồn thu thường xuyên, ổn định cho ngân sách Nhà nước.
2.2. Lý luận pháp luật về nghĩa vụ tài chính của ngƣời sử dụng đất đối
với Nhà nƣớc
2.2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của pháp luật về nghĩa vụ tài chính
của người sử dụng đất đối với Nhà nước
Pháp luật về NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước là tập hợp các
quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình xác định và thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất,
thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ giao dịch quyền sử dụng đất, lệ phí đất
đai. Có thể khái qt pháp luật về NVTC của NSDĐ gồm các nhóm chủ

15


yếu sau: (i) nhóm các quy phạm pháp luật quy định nghĩa vụ trả tiền của
NSDĐ dựa trên cơ sở thu là giá trị đất khi xác lập quyền sử dụng đất; (ii)
nhóm các quy phạm pháp luật quy định nghĩa vụ trả tiền của NSDĐ dựa

trên cơ sở thu là giá trị tăng thêm và giá trị đất đai đang sử dụng.
Pháp luật về NVTC của NSDĐ có các đặc điểm: (i) tính chất hành
chính và quyền lực cơng; (ii) bên cạnh sự điều chỉnh của pháp luật đất đai
cịn có sự điều chỉnh của pháp luật về thuế; (iii) được xây dựng theo hướng
bảo đảm quyền kinh tế của chủ sở hữu đất, vừa bảo đảm lợi ích của NSDĐ.
2.2.2. Các tiêu chí của pháp luật về nghĩa vụ tài chính của người sử dụng
đất đối với Nhà nước
Thứ nhất, pháp luật về NVTC của NSDĐ đất phải minh bạch, công khai.
Thứ hai, pháp luật về NVTC của NSDĐ phải bảo đảm cơng bằng, bình
đẳng giữa những người sử dụng đất.
Thứ ba, pháp luật về NVTC của NSDĐ phải ổn định.
Thứ tư, pháp luật về NVTC của NSDĐ phải bảo đảm nội dung đơn giản, dễ
hiểu, công thức tính dễ áp dụng để đạt được sự chấp nhận rộng rãi của
người dân.
Thứ năm, pháp luật về NVTC của NSDĐ phải bảo đảm yếu tố phát triển
bền vững.
2.2.3. Cơ cấu về nội dung của pháp luật về về nghĩa vụ tài chính của
người sử dụng đất đối với Nhà nước
Thứ nhất, cơ sở thu của NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước
Thứ hai, phạm vi NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước
Thứ ba, thời điểm phát sinh NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước
Thứ tư, thời điểm đến hạn thực hiện NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước
Thứ năm, thủ tục thực hiện NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước
2.2.4 Nguồn luật của pháp luật về nghĩa vụ tài chính của người sử dụng
đất đối với Nhà nước

16


Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật là nguồn của pháp

luật về NVTC của NSDĐ đối với nhà nước bao gồm văn bản luật, nghị
định, thông tư và quyết định của Uỷ ban nhân dân.
Thứ hai, án lệ là một trong những nguồn tiềm năng trong tương lai
cho các quan hệ pháp luật này chứ chưa phải là một nguồn luật thực định.
Thứ ba, các văn bản hướng dẫn nội bộ ngành khơng được chính thức
thừa nhận nhưng là một nguồn điều chỉnh quan trọng đối với các quan hệ về
pháp luật về NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước.
2.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến pháp luật về về nghĩa vụ tài chính của
ngƣời sử dụng đất đối với Nhà nƣớc
Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về về nghĩa vụ tài chính của
người sử dụng đất đối với Nhà nước bao gồm: sở hữu đất đai, thực trạng
pháp luật giá đất, thị trường quyền sử dụng đất phi chính thức, quan hệ
quản lý đất đai, cơ sở dữ liệu đất đai, ý thức pháp luật của người dân và vấn
đề hội nhập quốc tế.
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ NGHĨA VỤ TÀI CHÍNH CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG ĐẤT
ĐỐI VỚI NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Thực trạng pháp luật về nghĩa vụ tài chính của ngƣời sử dụng đất
đối với Nhà nƣớc ở Việt Nam hiện nay
Căn cứ cơ cấu nội dung pháp luật về NVTC của NSDĐ đối với Nhà
nước, thực trạng quy định pháp luật về nghĩa vụ tài chính được trình bày,
phân tích theo từng loại NVTC cụ thể gồm: (i) thực trạng các quy định về
nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất; (ii) thực trạng các quy định về nghĩa vụ nộp
tiền thuê đất; (iii) thực trạng các quy định về nghĩa vụ nộp thuế sử dụng đất;
(iv) thực trạng các quy định về về nghĩa vụ nộp thuế thu nhập từ chuyển
quyền sử dụng đất và (v) thực trạng các quy định về nghĩa vụ nộp lệ phí đất

17



đai. Thực trạng pháp luật về NVTC của NSDĐ đối với Nhà nước cịn tồn
tại những hạn chế, thiếu sót, bất cập sau:
Thứ nhất, về nội hàm thuật ngữ “nghĩa vụ tài chính” đối với nhà nước của
người sử dụng đất trong pháp luật hiện hành cần được quy định rõ và phù hợp
với nội dung thu tài chính về đất đai.
Thứ hai, quy định về NVTC thu trên phần giá trị tăng thêm từ đất không do
đầu tư của NSDĐ mang lại vẫn còn bất cập.
Thứ ba, quy định về các loại NVTC cụ thể vẫn chưa bao quát hết các cơ sở
thu, tồn tại nhiều gian lận, thất thoát.
3.2 Thực tiễn thực hiện pháp luật về nghĩa vụ tài chính của ngƣời sử
dụng đất đối với Nhà nƣớc ở Việt Nam hiện nay
3.2.1 Tình hình thực hiện pháp luật về nghĩa vụ tài chính của người sử
dụng đất đối với Nhà nước ở Việt Nam hiện nay
3.2.1.1 Kết quả thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế và lệ phí đất đai
Theo số liệu thu ngân sách từ đất của Bộ Tài chính, kết quả thu tiền
sử dụng đất, tiền thuê đất giai đoạn 2013 -2018 chiếm tỉ trọng lớn trên tổng
thu từ đất, tăng mạnh từ sau năm 2014. Trung bình mỗi năm thu tiền sử
dụng đất đạt 88.568 tỉ đồng, chiếm khoảng 70,5% tổng thu ngân sách từ
đất. Thu tiền thuê đất trung bình mỗi năm đạt 17.299 tỉ đồng, chiếm khoảng
13,8% tổng thu từ đất đai. Kết qủa thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
trong các năm từ 2013 đến 2018 chỉ dao động trong khoảng trên dưới 1.500
tỉ đồng. Thuế sử dụng đất nông nghiệp chiếm khoảng 0,06% tổng thu từ
đất. So với thu nội địa, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp chỉ chiếm tỉ lệ trên
dưới 0.19%, thuế thu nhập từ chuyển nhượng BĐS trung bình mỗi năm thu
được 13.299,8 tỉ, chiếm khoảng 13,6% tổng thu từ đất.
Kết quả thu như trên đặt ra một vấn đề trong cơ cấu thu ngân sách
từ đất. Các khoản thu có cơ sở thu ổn định, bền vững như thuế sử dụng đất
lại có mức động viên thấp. Các khoản thu có cơ sở thu khơng bền vững,
thậm chí thu một lần lại có mức động viên cao.


18


3.2.1.2 Người sử dụng đất thực hiện pháp luật về nghĩa vụ tài chính đối với
Nhà nước
NSDĐ thực hiện pháp luật chủ yếu dưới hình thức tuân thủ và thi
hành pháp luật. Không tuân thủ pháp luật về NVTC của NSDĐ thường biểu
hiện ở dạng trốn và tránh nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế về đất đai.
Ở nhiều địa phương vẫn cịn tình trạng NSDĐ trốn và tránh thực hiện
NVTC đối với Nhà nước. Đồng thời, việc thi hành pháp luật của NSDĐ dù
mang tính chủ động hơn, nhưng hiệu quả vẫn phụ thuộc rất nhiều vào ý
thức pháp luật của họ.
3.2.1.3 Cơ quan quản lý đất đai và cơ quan thuế thực hiện pháp luật về
nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất đối với Nhà nước
Căn cứ để xác lập NVTC sẽ do cơ quan quản lý đất đai ban hành,
lập như quyết định giao đất, cho thuê đất, quyết định công nhận QSDĐ,
quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, hợp đồng thuê đất, biên
bản bàn giao đất, phiếu chuyển thông tin địa chính. Trên cơ sở thơng tin địa
chính, cơ quan thuế sẽ xác định số tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế và lệ
phí về đất đai. Kết quả thu từ đất luôn tăng trong những năm gần đây cho
thấy dấu hiệu tích cực từ hoạt động áp dụng pháp luật về NVTC của NSDĐ
đối với Nhà nước. Bên cạnh đó, thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ
quan này vẫn còn một số bất cập.
3.2.2 Đánh giá việc thực hiện pháp luật về nghĩa vụ tài chính của người
sử dụng đất đối với Nhà nước
3.2.2.1 Những kết quả tích cực trong việc thực hiện pháp luật về nghĩa vụ
tài chính của người sử dụng đất đối với Nhà nước
Việc thực thi pháp luật về NVTC của NSDĐ đã đạt được những thành
tựu nhất định về mặt kinh tế. Thu từ đất giai đoạn 2013 -2018 luôn tăng cả về

tổng thu lẫn tỉ trọng trên tổng thu nội địa của ngân sách Nhà nước, đồng thời
đều cao hơn dự toán thu ngân sách mỗi năm. Bên cạnh đó, ý thức pháp luật của

19


NSDĐ, thủ tục hành chính về đất đai và thuế trong thực hiện pháp luật về
NVTC đối với Nhà nước đã được cải thiện đáng kể.
3.2.2.2 Những hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về nghĩa vụ tài chính
của người sử dụng đất đối với Nhà nước
3.2.2.2.1 Người sử dụng đất không tuân thủ pháp luật, không thi hành đúng
pháp luật về nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất đối với Nhà nước gây
thất thoát nguồn thu từ đất
Một là, thất thoát tiền sử dụng đất, tiền thuê đất do NSDĐ không
tuân thủ pháp luật về đất đai.
Hai là, người sử dụng đất đưa những sản phẩm BĐS mới chưa
được pháp luật điều chỉnh đầy đủ vào kinh doanh gây thất thu tài chính đất
đai.
Ba là, ý thức pháp luật của NSDĐ trong tuân thủ và thi hành pháp
luật chưa cao.
3.2.2.2.2 Công tác quản lý đất đai lỏng lẻo, cơ quan quản lý không áp dụng
đúng pháp luật về nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất đối với Nhà
nước dẫn đến gian lận, thất thoát nguồn thu ngân sách từ đất.
Một là, quản lý xây dựng lỏng lẻo, cơ quan chuyên môn không tuân
thủ hệ số sử dụng đất được cơ quan có thẩm quyền chung phê duyệt, dẫn tới
thất thoát tiền thuê đất.
Hai là, thất thoát tiền sử dụng đất do cơ quan quản lý đất đai xác
nhận sai diễn biến, hiện trạng sử dụng đất.
Ba là, cơ quan quản lý đất đai và cơ quan thuế xác định NVTC
không đúng do xác định sai loại đất tính nghĩa vụ, sai đơn giá, sai trường

hợp miễn giảm.
Bốn là, cơ quan quản lý đất đai không áp dụng đúng thủ tục giao
đất, cho thuê đất, chậm ra quyết định cho thuê đất, không ký hợp đồng thuê
đất dù bên thuê đã đưa đất vào sử dụng nhiều năm.

20


Chƣơng 4
ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN, NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA
VỤ TÀI CHÍNH CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG ĐẤT ĐỐI VỚI
NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1 Quan điểm và định hƣớng hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ tài
chính của ngƣời sử dụng đất đối với Nhà nƣớc ở Việt Nam hiện nay
4.1.1 Quan điểm hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ tài chính đối của
người sử dụng đất với Nhà nước
- Thứ nhất, cải cách mạnh mẽ chính sách tài chính về đất đai theo hướng
đơn giản, ổn định, công khai, minh bạch và công bằng.
- Thứ hai, bảo đảm minh bạch thơng tin về thị trường QSDĐ.
- Thứ ba, chính sách tài chính về đất đai ở Việt Nam tập trung chủ yếu vào
các khoản thu ngân sách từ đất.
4.1.2 Định hướng hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ tài chính đối với Nhà
nước của người sử dụng đất
- Thứ nhất, hồn thiện pháp luật về nghĩa vụ tài chính của NSDĐ đối với
Nhà nước phải bảo đảm quyền thu lợi từ sản công một cách ổn định, phù
hợp với chế độ sở hữu toàn dân đối về đất đai.
- Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ tài chính của NSDĐ đối với nhà
nước theo hướng bảo đảm sự công bằng trong tiếp cận đất đai và phân bổ
hợp lý lợi ích giữa Nhà nước và người sử dụng đất.

- Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ tài chính của NSDĐ đối với Nhà
nước là một công cụ quan trọng để quản lý đất đai và phát triển thị trường
bất động sản, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.

21


4.2 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ tài chính của ngƣời
sử dụng đất đối với Nhà nƣớc
4.2.1 Nhóm các giải pháp hồn thiện quy định chung về nghĩa vụ tài
chính của người sử dụng đất đối với nhà nước
Thứ nhất, đề xuất sửa đổi, bổ sung nội dung thu tài chính từ đất của Nhà
nước trong Luật đất đai.
Thứ hai, xây dựng các loại nghĩa vụ tài chính có cơ sở thu là giá trị tăng
thêm từ đất bằng công cụ thuế, bổ sung thuế đánh trên phần giá trị tăng
thêm.
4.2.2 Nhóm giải pháp hồn thiện theo từng loại nghĩa vụ tài chính cụ thể
Thứ nhất, nhóm giải pháp hồn thiện nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất
Thứ hai, nhóm giải pháp hồn thiện nghĩa vụ nộp tiền thuê đất
Thứ ba, giải pháp hoàn thiện nghĩa vụ nộp thuế sử dụng đất
Thứ tư, nhóm giải pháp hoàn thiện nghĩa vụ nộp thuế thu nhập từ chuyển
quyền sử dụng đất
4.2.3 Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật về
nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất đối với Nhà nước
Thứ nhất, cải cách thủ tục hành chính về đất đai liên quan đến q
trình xác định nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất đối với Nhà nước.
Thứ hai, hoàn thiện cơ sở dữ liệu địa chính để bảo đảm tính chính
xác của cơ sở thu.
Thứ ba, thay đổi hình thức thanh toán truyền thống trong giao dịch

đất đai.
KẾT LUẬN
“Pháp luật về nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất đối với Nhà
nước” là một đề tài nghiên cứu có nội dung rộng, được điều chỉnh về mặt
nguyên tắc bởi Luật đất đai nhưng nội dung cụ thể lại liên quan đến cả pháp
luật đất đai và pháp luật về thuế. Cho đến nay, các cơng trình nghiên cứu có

22


×