Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu - Để học tốt Ngữ Văn 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.64 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Truy cập Website: hoc360.net – Tải tài liệu học tập miễn phí</b>


<b>VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC</b>
<b>Nguyễn Đình Chiểu</b>


<b>I- GỢI DẪN</b>


1. Nguyễn Đình Chiểu (xem bài Lẽ ghét thương).


2. Thời xưa, khi tế lễ trời đất, núi sơng thường có bài văn cầu chúc, gọi
là tê văn, kì<i>0)<sub> văn hoặc chú văn. về sau, khi chơn cất người thân, người ta</sub></i>
cũng dùng văn tếãể tưởng nhớ người đã mất. Văn tế cũng có khi được gọi là
<i>điếu (điếu văn).</i>


<i>Văn tế nói chung là loại văn đọc khi tế, cúng ; bởi vậy nó có hình thức</i>
<i>tê - hưởng. Chẳng hạn : mở đầu bằng Năm, tháng, ngày... kính mời vong</i>
linh người nào đó ; kết thúc bằng Ơ hơ, ai tai (Hỡi ơi ! Đau đớn thay !). về
ngôn ngữ, văn tế không câu nệ đến hình thức ; người ta có thể dùng văn vần,
tản văn, biền văn.


<i>(1) Kì: tế lễ.</i>


<i>(2) Chúc: cầu chúc.</i>


Một bài văn tế thường có các phần : Lung khởi (ấn tượng khái quát về
người chết) ; Thích thực (hồi tưởng công đức của người chết) ; Ai vãn (than
tiếc người chết); Kết (nêu lên ý nghĩ của người tế và cầu chúc cho linh hồn
người chết).


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

lớn. Bài văn được viết theo bố cục quen thuộc của một bài văn tế:
- Lung khởi (từ đầu đến tiếng vang như mõ) : cảm tưởng khái


quát về những nghĩa sĩ nơng dân hi sinh trong trận Cần Giuộc.


- Thích thực (từ Nhớ linh xưa đến ra tay bộ hổ) : hồi tưởng về
cuộc đời người nghĩa sĩ.


- Ai vãn (từ Khá thương thay đến dật dờ trước ngõ) : than tiếc các nghĩa
sĩ.


- Kết (phần cịn lại) : tình cảm xót thương của người tế với linh
hồn người chết.


Qua bài văn, hình tượng những người nghĩa sĩ vốn là những người nông
dân hiền lành đã hiện lên như một biểu tượng nghệ thuật sừng sững vể lòng
yêu nước của nhân dân Việt Nam. Lòng căm thù quân giặc của những người
nghĩa sĩ cũng chính là lịng căm thù giặc của Nguyễn Đình Chiểu.


4. Đọc bài văn bằng giọng điệu bi thiết, trầm hùng. Chú ý thể
hiện tính chất đối xứng của các câu văn biền ngẫu.


<b>I</b> <b>- KIẾN THỨC CƠ BẢN</b>


Thật có lí khi khẳng định Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một trong những
bài văn tế hay và cảm động nhất trong lịch sử văn học dân tộc. Lần đầu tiên
trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về
người nơng dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngồi đời của họ - người
nông dân nghĩa sĩ chống giặc, cứu nước.


Theo dòng hồi tưởng, cuộc đời của những người nghĩa sĩ được phản ánh
chân thực, sống động. Đó là những người nghĩa sĩ - nông dân :



<i>Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó.</i>


<i>Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung ; chỉ biết</i>
<i>ruộng trâu, ở trong làng bộ.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

mặt cho đất, bán lưng cho trời. Giữa bao la trời đất và ruộng đồng rộng lớn,
vóc dáng người nông dân hiển hiện thật tội nghiệp, đơn chiếc. Họ tất tả
trong cái đói, cái nghèo. Người nơng dân giãi bày phận mình thành thực,
cảm động. Họ kể những cơng việc đồng áng, cày cuốc, bừa cấy, những việc
"ruộng trâu", "làng bộ" cũng giản đơn, dung dị như chính cuộc đời họ. Họ
nghĩ suy cũng thật mộc mạc : đó là chuyện quen làm, chuyện vốn có. Bởi
thế, dễ dàng phân biệt chuyện chưa quen làm và chuyện quen làm, chuyện
chiến trận và chuyện ruộng đồng. Sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên của họ khi "tập
súng", "tập mác", "tập cờ" cũng là điều dễ hiểu. Không gian "súng giặc đất
rền" làm đảo lộn cuộc sống n bình của ngưịi nơng dân. Tay cày, tay cuốc
giờ được thay bằng tay giáo, tay mác. Lòng căm thù giặc biểu hiện ngút trời:


<i>Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời</i>
<i>hạn trông mưa ; mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà</i>
<i>nơng ghét cỏ.</i>


<i>Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan ; ngày xem ống khói</i>
<i>chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4></div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Nếu như trước kia người trai tráng "bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa"
thì nay trong thơ Đồ Chiểu sừng sững hình ảnh người nghĩa sĩ tự nguyện cứu dàn, cứu
nước. Trong từng bước chân lùng giặc đánh của họ, người ta cảm nhận được niềm tự
hào sâu sắc của tác giả. “Quân dân lấy tình u làm gốc, lấy nghĩa khí làm trọng”. Chỉ
vì "mến nghĩa" mà trở thành nghĩa quân thì thực sự cao quý vô cùng. Tinh thần chiến
đấu xả thân vì nghĩa được người nghĩa sĩ dùng làm phương châm, mục đích để chiến


đấu chống kẻ thù.


<i>Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia ; gươm đeo dùng</i>
<i>bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.</i>


<i>Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như</i>
<i>không ; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xơ cửa xơng vào, liều mình như chẳng</i>
<i>có.</i>


<i>Kẻ đậm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh ; bọn hè trước,</i>
<i>lũ ố sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Nguyễn Đình Chiểu bộc lộ cái nhìn rất chân thực và tinh tế về người nông dân,
nghĩa sĩ. Họ anh hùng, dũng cảm nhưng vẫn nơn nóng, bột phát. Phải chăng đây cũng
chính là nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của những người nghĩa sĩ ở Cần Giuộc ?


Nguyễn Đình Chiểu viết về người nghĩa sĩ - nông dân với một niềm tự hào sâu sắc.
Người nghĩa sĩ sống một cuộc sống anh hùng - chết một cái chết vinh quang. Những
nghĩa sĩ vô danh hi sinh "nào đợi gươm hùm treo mộ". Quan niệm "chết vinh còn hơn
sống nhục" lại được thắp sáng qua hình ảnh của họ.


<i>Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàrt độc, thấy lại thêm</i>
<i>buồn ; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.</i>


24


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>man di rất khổ.</i>


Đứng trước bức tượng đài vĩ đại ấy của dân tộc, biết bao nỗi niềm cảm thơng, xót thương được
bộc lộ. "Người mẹ già", "người vợ yếu" đau đớn, não nùng trong niềm thương xót vơ hạn :



<i>Đau đớn bấy ! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều ; não nùng thay ! Vợ yếu</i>
<i>chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.</i>


Bài Văn tế nghĩa sĩ Cẩn Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu khơng chỉ đã tạc bằng thơ hình tượng
người nghĩa sĩ - nơng dân anh hùng, bất khuất mà cịn là tiếng khóc thương bi thiết của dân tộc
trước sự hi sinh vĩ đại, cao cả của họ. Cuộc chiến của những người nghĩa sĩ thất bại song đó là thất
bại trong kiêu hãnh. Hình ảnh người anh hùng thất thế trong văn tế trở nên đẹp đẽ, kì vĩ lạ thường
<i>-“danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

bầu trời văn học Việt Nam rộng lớn.


<b>III- LIÊN HỆ</b>


Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú
nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy. Có
người chỉ biết Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của Lục Vân Tiên, và hiểu Lục Vân Tiên khá thiên lệch
về nội dung, và về văn, cịn rất ít biết về thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu, khúc ca hùng
tráng của phong trào yêu nước chống bọn xâm lược Pháp lúc chúng đến bờ cõi nước ta cách đây
một trăm năm !


Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước mà tác phẩm là những trang bất hủ ca ngợi cuộc
đấu tranh oanh liệt của nhân dân ta chống bọn xâm lược phương Tây ngay buổi đầu lúc chúng đặt
chân lên đất nước chúng ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

nhân dân và sĩ phu anh dũng đứng lên đánh giặc cứu nước. Vì mù cả hai mắt, hoạt động của người
chiến sĩ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu là thơ văn. Và những tác phẩm đó, ngồi giá trị văn
nghệ, cịn q giá ở chỗ nó soi sáng tâm hồn trong sáng và cao quý lạ thường của tác giả, và ghi lại
lịch sử của một thời khổ nhục nhưng vĩ đại.



[...] Bài ca của Nguyễn Đình Chiểu làm chúng ta nhớ bài Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi.
Hai bài văn, hai cảnh ngộ, hai thời buổi, nhưng một dân tộc. Hịch của Nguyễn Trãi là khúc ca khải
hồn, ca ngợi những chiến cơng oanh liệt chưa từng thấy, biểu dương chiến thắng làm rạng rỡ nước
nhà. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca những người anh hùng thất thế, nhưng vẫn hiên
ngang...


<i>(Phạm Văn Đổng, Nguyễn Đình Chiểu - tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật,</i>


</div>

<!--links-->

×