Tải bản đầy đủ (.docx) (119 trang)

Luận án tiến sĩ khoa học giáo dục nghiên cứu xây dựng hệ thống tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá trình độ tập luyện của nam vận động viên đua xe đạp lứa tuổi 13 15 một số tỉnh miền bắc việt nam (giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.77 KB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN KHOA HỌC THỂ DỤC THỂ THAO

LÊ ANH ĐỨC

NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG HỆ THỐNG TIÊU CHUẨN VÀ THANG ĐIỂM
ĐÁNH GIÁ TRÌNH ĐỘ TẬP LUYỆN CỦA NAM VẬN ĐỘNG VIÊN ĐUA
XE ĐẠP LỨA TUỔI 13-15 MỘT SỐ TỈNH MIỀN BẮC
VIỆT NAM (GIAI ĐOẠN CHUN MƠN HĨA BAN ĐẦU)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN KHOA HỌC THỂ DỤC THỂ THAO

LÊ ANH ĐỨC

NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG HỆ THỐNG TIÊU CHUẨN VÀ THANG
ĐIỂM ĐÁNH GIÁ TRÌNH ĐỘ TẬP LUYỆN CỦA NAM VẬN ĐỘNG
VIÊN ĐUA XE ĐẠP LỨA TUỔI 13-15 MỘT SỐ TỈNH MIỀN BẮC
VIỆT NAM (GIAI ĐOẠN CHUN MƠN HĨA BAN ĐẦU)
Chun ngành:


Mã số:

Huấn luyện thể thao
62 14 01 04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. GS.TS. Nguyễn Xuân Sinh

2. PGS.TS. Nguyễn Văn Trạch

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu
của riêng tơi. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận án
là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nghiên cứu nào.
Tác giả luận án

Lê Anh Đức


MỤC LỤC
Trang
Trang bìa
Trang phụ bìa
Lời cam đoan

Danh mục các bảng biểu, biểu đồ
Danh mục các từ viết tắt
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN

1
6

CỨU
1.1. Đặc điểm huấn luyện nhiều năm trong quá trình đào tạo

6

VĐV trẻ các mơn thể thao
1.2. Các quan điểm trong đánh giá trình độ tập luyện của

9

VĐV thể thao
1.2.1. Khái niệm về trình độ tập luyện
1.2.2. Các quan điểm trong đánh giá trình độ tập luyện
1.3. Tính chu kỳ và tính giai đoạn của những phản ứng thích

9
10
19

nghi trong q trình phát triển trình độ tập luyện
1.3.1. Tính chu kỳ của những phản ứng thích nghi
1.3.2. Tính giai đoạn của những biến đổi diễn ra trong cơ thể

1.4 Cơ sở di truyền học và các qui luật phát triển cơ thể, qui

19
21
24

luật phát triển các tố chất thể lực trong đánh giá trình độ
tập luyện của VĐV thể thao
1.4.1. Cở sở di truyền học trong đánh giá TĐTL
1.4.2. Các đặc điểm phát dục và đặc điểm phát triển các tố chất thể
1.5.
1.6.
1.6.1.
1.6.2.
1.7.
1.7.1
1.7.2
1.8

lực, là chỗ dựa quan trọng trong đánh giá TĐTL của VĐV
Các yếu tố xác định TĐTL của VĐV đua xe đạp
Đặc điểm tâm sinh lý VĐV thể thao lứa tuổi 13-15
Đặc điểm sinh lý thiếu niên lứa tuổi 13-15
Đặc điểm tâm lý lứa tuổi 13-15
Các cơng trình nghiên cứu đánh giá TĐTL của các nhà
nghiên cứu trong và ngồi nước
Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi
Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước
Một số nét về xe đạp thể thao Việt Nam hiện nay


24
26
34
36
36
40
41
41
43
48


2.1.
2.1.1
2.1.2
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.2.4.
2.2.5.
2.2.6.
2.3.
2.3.1.
2.3.2.
3.1.

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ

51


CHỨC NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu
Phương pháp phỏng vấn bằng phiếu hỏi
Phương pháp kiểm tra sư phạm
Phương pháp kiểm tra y sinh
Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Phương pháp toán thống kê
Tổ chức nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
Lựa chọn chỉ tiêu đánh giá TĐTL của nam VĐV đua xe

51
51
51
51
51
52
52
60
64
65
67
67

68
69
69

đạp đường trường 13-15 tuổi một số tỉnh, thành phố
miền Bắc Việt Nam
3.1.1. Nguyên tắc và các bước lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá TĐTL

69

của VĐV xe đạp đường trường miền bắc Việt Nam
3.1.2. Thực trạng sử dụng các chỉ tiêu đánh giá trình độ tập luyện

71

của VĐV xe đạp đường trường nước ta
3.1.3. Thực trạng sử dụng các chỉ tiêu đánh giá TĐTL của VĐV xe

72

đạp đường trường ở ngoài nước
3.1.4. Thực trạng huấn luyện của VĐV đua xe đạp đường trường

75

13-15 tuổi
3.1.5. Lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá TĐTL cho VĐV xe đạp

82


đường trường 13 - 15 tuổi, thành phố miền Bắc Việt Nam
3.1.6 Kiểm định tính thơng báo và độ tin cậy của các chỉ tiêu, test

83

đã lựa chọn
3.1.7 Bàn luận về việc lựa chọn các chỉ tiêu, test đánh giá TĐTL

88

cho VĐV xe đạp đường trường lứa tuổi 13-15 các tỉnh, thành
phố miền Bắc Việt Nam
3.2. Xây dựng hệ thống thang điểm và tiêu chuẩn đánh giá

93


trình độ luyện tập của VĐV đua xe đạp đường trường
13-15 tuổi một số tỉnh miền Bắc Việt Nam
3.2.1. Nghiên cứu diễn biến và tỷ trọng ảnh hưởng củacác chỉ

93

tiêu đánh giá trình độ tập luyện của VĐV xe đạp xe đạp
đường trường 13-15 tuổi ở một số tỉnh thành phía Bắc
3.2.2. Xây dựng tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá TĐTLcho nam

99

VĐV xe đạp đường trường lứa tuổi 13 – 15 một số tỉnh,

thành phố miền bắc Việt Nam
3.3. Kiểm chứng hệ thống thang điểm và tiêu chuẩn đánh giá

100

TĐTL của nam VĐV đua xe đạp đường trường 13 -15
tuổi một số tỉnh, thành phố miền Bắc
3.3.1 Kiểm chứng độ tin cậy của hệ thống chỉ tiêu, thang điểm đã

100

xây dựng.
3.3.2 Bàn luận về kết quả xây dựng tiêu chuẩn và thang điềm đánh

103

giá TĐTL của nam VĐV xe đạp đường trường 1 3 - 15 tuổi
một số tỉnh, thành phố miền Bắc Việt Nam.
3.3.3 Kiểm định độ tin cậy và hiệu quả của thang điểm đánh giá

110

TĐTL
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
KIẾN NGHỊ
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CƠNG BỐ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


112
112
113


DANH MỤC BẢNG SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
Tên
Bảng

Số
1.1

Nội dung
Độ di truyền của các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa có ý

1.2

nghĩa với năng lực vận động
Độ di truyền của các chỉ tiêu quyết định tố chất vận

1.3

động
Tỷ lệ % sự phát triển cơ thể các lứa tuổi so với tuổi

1.4

trưởng thành
Sự phát triển các cơ quan nội tạng và cơ quan vận


1.5
1.6
2.1
2.2
3.1

động của lứa tuổi 13-15
Tuổi nhạy cảm của phát triển các tố chất thể lực
Mơ hình VĐV cấp cao môn đua xe đạp
Bảng trừ điểm trong đánh giá kỹ thuật chuyên môn
Bảng qui đổi test cooper thành VO2max
Thực trạng sử dụng các chỉ tiêu đánh giá TĐTL của

3.2

VĐV xe đạp đường trường
Kết quả phỏng vấn xác định yêu cầu cơ bản đối với

3.3

các chỉ tiêu đánh giá TĐTL được lựa chọn (n=18)
Kết quả phỏng vấn lựa chọn chỉ tiêu đánh giá
TĐTL của VĐV xe đạp đường trường 13 – 15 tuổi

Trang
25
25
27
30
31

35
59
63
Sau trang
72
77
Sau trang
82

3.4
3.5

ở các tỉnh miền Bắc
Kết quả tính chỉ số Wilcoxon
Hệ số tương quan giữa các chỉ tiêu đánh giá hình

83
Sau trang

3.6

thái chức năng cơ thể với thành tích đua xe 20km
Kết quả xác định tính đại diện của các giá trị trung

84
Sau trang

bình của đối tượng lập test

84



3.7

Các thơng số thống kê so sánh trình độ phát triển
các chỉ tiêu đánh giá TĐTT của VĐV 13 – 15 tuổi

Sau trang
95

3.8

miền Bắc Việt Nam
Nhịp tăng trưởng của các chỉ tiêu đánh giá TĐTL

3.9

của nam VĐV xe đạp thể thao lứa tuổi 13 (n = 14)
Nhịp tăng trưởng của các chỉ tiêu đánh giá TĐTL của

Sau trang

3.10

nam VĐV xe đạp đường trường lứa tuổi 14 (n = 13)
Nhịp tăng trưởng của các chỉ tiêu đánh giá TĐTL của

97
Sau trang
97


3.11

nam VĐV xe đạp đường trường lứa tuổi 15 (n = 12)
Hệ số tương quan giữa các yếu tố thành phần và hệ
số tương quan đa nhân tố với thành tích đạp xe

3.12

20Km của nam VĐV xe đạp đường trường 13 tuổi
Hệ số tương quan giữa các yếu tố thành phần và hệ
số tương quan đa nhân tố với thành tích đua xe

3.13

20Km của nam VĐV xe đạp đường trường 14 tuổi
Hệ số tương quan giữa các yếu tố thành phần và hệ
số tương quan đa nhân tố với thành tích đua xe

3.14

20Km của nam VĐV xe đạp đường trường 15 tuổi
Hệ số ảnh hưởng Bê ta của các yếu tố đánh giá

97

Sau trang
98
Sau trang
98

Sau trang
98

TĐTL của VĐV nam xe đạp đường trường 13 -15

99

3.15

tuổi
Tiêu chuẩn đánh giá trình độ tập luyện VĐV đua xe

Sau trang

3.16

đạp 13 tuổi
Tiêu chuẩn đánh giá trình độ tập luyện VĐV đua xe

99
Sau trang

3.17

đạp 14 tuổi
Tiêu chuẩn đánh giá trình độ tập luyện VĐV đua xe

99
Sau trang
99


3.18

đạp 15 tuổi
Bảng điểm đánh giá tổng hợp phân loại TĐTL của

3.19

nam VĐV xe đạp đường trường 13 - 15 tuổi.
So sánh thứ hạng tổng điểm đánh giá TĐTL với
xếp hạng thành tích đua xe 20km của VĐV 13 tuổi

100
101


3.20

trước thực nghiệm (n=15)
So sánh thứ hạng tổng điểm đánh giá TĐTL với
xếp hạng thành tích đua xe 20km lứa tuổi 14 trước

3.21

thực nghiệm (n=14)
So sánh thứ hạng tổng điểm đánh giá TĐTL với thứ
hạng thành tích đua xe 20km của VĐV 15 tuổi

3.22


trước thực nghiệm (n=13)
So sánh thứ hạng thành tích đua xe 20 km và thứ
hạng tổng điểm đánh giá TĐTL của VĐV xe đạp

13 tuổi lần kiểm tra thứ hai theo quy trình ngược lại
3.23 So sánh thứ hạng thành tích đua xe đạp 20 km và
thứ hạng tổng điểm đánh giá TĐTL của VĐV 14
tuổi sau thực nghiệm
3.24 So sánh thứ hạng thành tích đua xe đạp 20 km và
thứ hạng tổng điểm đánh giá TĐTL của VĐV 15
tuổi sau thực nghiệm

Sau trang
101
Sau trang
101

102

Sau trang
102
Sau trang
102

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN

Chữ viết tắt
HLTT
HLV
TDTT

TĐTL

Chữ viết đầy đủ
Huấn luyện thể thao
Huấn luyện viên
Thể dục thể thao
Trình độ thể lực


VĐV
XĐTT

Vận động viên
Xe đạp thể thao

PHẦN MỞ ĐẦU
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 năm 1986 đã đánh dấu bước ngoặt của nền
kinh tế xã hội Việt Nam. Cả nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ cải cách mở cửa. Nhờ
đó mà kinh tế xã hội trong đó có Thể dục thể thao (TDTT) đã bắt đầu khởi sắc. Năm
1989 Việt Nam đã bắt đầu tham dự Seagames tuy thành tích lúc đó chỉ xếp hạng thứ 5
của đại hội song cũng đã thể hiện Thể thao Việt Nam bắt đầu hoà nhập vào thể thao
quốc tế.


Song chỉ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 7 năm 1991 và đặc biệt là sau khi
có Chỉ thị 36 CT/TW của Ban bí thư Trung ương thể thao mới thực sự có được
phương hướng và cơ hội khởi sắc mạnh mẽ.
Từ năm 1994, khắp các tỉnh thành trong cả nước đã tiến hành xây dựng các
trung tâm thể thao thành tích cao. Hàng loạt mơn thể thao trong đó có mơn đua xe đạp
đã được đưa vào huấn luyện. Vì vậy từ năm 1995 trong các kỳ đại hội Seagames lần

thứ 17 trở đi thể thao Việt Nam liên tục gặt hái được thành quả lần sau cao hơn lần
trước và đỉnh cao là Seagames lần thứ 22 năm 2003 tổ chức ở Việt Nam, đoàn thể thao
Việt nam đã lần đầu tiên bước lên ngôi vị hàng đầu của đấu trường khu vực Đông
Nam Á.
Trong Chiến lược phát triển thể dục, thể thao của Việt Nam đến năm 2020 Thủ
tướng Chính phủ đã xác định: “Thể thao thành tích cao là một trong ba nhiệm vụ
chiến lược của ngành, nhằm mục tiêu nhanh chóng dẫn đầu trình độ thể thao của khu
vực, đồng thời từng bước hịa nhập với trình độ thể thao Châu Á và thế giới, cụ thể là:
từ nay đến năm 2020, phấn đấu là 1 trong 15 nước có thành tích cao tại Châu Á. Giữ
vững vị trí top 3 của thể thao khu vực Đơng Nam Á(Seagames). Phấn đấu có khoảng
45 vận động viên (VĐV) vượt qua các cuộc thi vòng loại có huy chương tại Đại hội
thể thao Olympic lần thứ 32, trước mắt hình thành hệ thống đào tạo tài năng quốc gia
về thể thao đào tạo được một lực lượng VĐV trẻ có khả năng tiếp cận các thành tựu
thể thao tiên tiến của thế giới trước hết là các mơn thể thao trọng điểm.
Đóng góp cho sự thành cơng đó của thể thao Việt Nam có sự có mặt của mơn
đua xe đạp.
Các VĐV đua xe đạp của Việt Nam như Mai Công Hiếu, Trịnh Phát Đạt... đã
giành về cho đoàn thể thao 6 tấm huy chương trong đó có 3 HCV và 3HCĐ tại Đại hội
thể thao Đơng Nam Á.
Tuy vậy, khách quan mà nhìn nhận trình độ tập luyện (TĐTL) và thành tích thể
thao của VĐV đua xe đạp nước ta cịn có khoảng cách thua kém nhất định so với các
VĐV đua xe đạp xuất sắc của khu vực và châu lục. Điều này đã và đang thôi thúc các
nhà quản lý, các HLV đua xe đạp cũng như các nhà khoa học TDTT cần phải tìm ra
các giải pháp tiếp tục nâng cao bền vững thành tích mơn đua xe đạp của Việt Nam.
Như chúng ta đã biết, TĐTL là chỉ trình độ phát triển của phức hợp các yếu tố
hình thái cơ thể, chức năng cơ thể, tố chất thể lực, năng lực chuyên môn và phấm chất


tâm lý, trí tuệ. TĐTL của VĐV các mơn thể thao khác nhau cịn phụ thuộc vào đặc
trưng mơ hình thể thao ở mơn thể thao đó. TĐTL của một VĐV được quyết định bởi

năng lực thể thao tiên thiên và tác động hậu thiên của yếu tố huấn luyện.
Đánh giá TĐTL trong thể thao hiện đại có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp
cho huấn luyện viên (HLV) trong quá trình huấn luyện, xem xét một cách khách quan
đúng đắn sự tác động của lượng vận động tập luyện, nhằm kịp thời điều chỉnh kế
hoạch và phương pháp huấn luyện, đồng thời cũng giúp cho VĐV có thể tự đánh giá
được năng lực của mình. Trong quy trình đào tạo VĐV với mục đích đạt được thành
tích thể thao cao thì yếu tố hết sức quan trọng và khơng thể thiếu được trong q trình
giảng dạy và huấn luyện là việc đánh giá đúng TĐTL của VĐV. Việc đánh giá đúng
TĐTL của VĐV các cấp theo độ tuổi, giới tính và mơn thể thao chun sâu rất có ý
nghĩa về mặt thực tiễn và lý luận đặc biệt là trong tuyển chọn và huấn luyện.
Đánh giá TĐTL là một quá trình phức tạp, tổng hợp gồm nhiều thành tố y sinh
học, tâm lý học, kỹ năng chiến thuật, tố chất thể lực. Những vấn đề trên ngày càng
được nâng cao hơn nhờ ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài của lượng vận động tập luyện
và thi đấu cũng như các biện pháp hỗ trợ ngoại sinh khác. Khái niệm về q trình biến
đổi lâu dài của TĐTL ln ln gắn liền với phạm trù “thích nghi” và “phát triển”.
Vì vậy, việc xây dựng tiêu chuẩn đánh giá TĐTL chẳng những là yêu cầu bức
thiết của công tác tuyển chọn khoa học đối với VĐV mà còn là yêu cầu bức thiết để
làm một loại "thuốc thử" trong kiểm tra đánh giá tính khoa học của huấn luyện. Để từ
đó, giúp HLV có thể điều chỉnh phương pháp, biện pháp và nội dung huấn luyện hợp
lý hơn, giúp nâng cao hiệu quả huấn luyện.
Do vai trị quan trọng đó của hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn và thang điểm đánh
giá TĐTL, mà nhiều nước có nền thể thao phát triển, như Nga, Đức, Mỹ, Trung
Quốc... sớm đã đầu tư nghiên cứu xây dựng nên hệ thống các chỉ tiêu, tiêu chuẩn và
thang điểm đánh giá trong tuyển chọn và đào tạo VĐV trẻ các môn thể thao rất khác
nhau. Điển hình là các cơng trình của các tác giả như A.Kotop, A.Malkin, A.Nôvicôp,
L.Mátvêép, V.Zaxiopski, I.Aulic (Nga), Maglac, D.Harre (Đức), Zon Mackes (Mỹ),
Hình Văn Hoa, Tăng Phàn Huy ( Trung Quốc)... họ đã gặt hái được những thành tích
thể thao to lớn trong những năm gần đây.
Ở Việt nam, một số nhà khoa học TDTT như Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thế
Truyền, Nguyễn Văn Trạch, Lê Nguyệt Nga, Chung Tấn Phong, Lê Đức Chương,



Đàm Quốc Chính, Đàm Tuấn Khơi, Nguyễn Kim Xn, Nguyễn Kim Lan, Hà Minh
Dịu, Phạm Văn Liệu... đã từ những góc độ sư phạm và y sinh để nghiên cứu xây dựng
hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn thang điểm đánh giá cho các mơn thể thao như bơi lội,
bóng rổ, bóng ném, điền kinh, thể dục dụng cụ, thể dục nghệ thuật, cờ vua và môt số
môn thể thao khác.
Tuy vậỵ đối với môn thể thao đua xe đạp ở Việt Nam ngồi cơng trình nghiên
cứu về đặc điểm thể hình của VĐV đua xe đạp nữ ở Việt Nam (năm 2005) của
Nguyễn Ngọc Vũ, đến nay vẫn chưa hề có cơng trình nào nghiên cứu về vấn đề đánh
giá TĐTL của VĐV đua xe đạp đường trường nam 13-15 tuổi.
Để góp phần nhanh chóng nâng cao thành tích thi đấu của môn đua xe đạp
đường trường ngang tầm với các nước trong khu vực và châu lục, ta cần thiết hình
thành và hồn thiện hệ thống tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá TĐTL cho VĐV giúp
huấn luyện viên có cơ sở cải tiến phương pháp huấn luyện. Với lý do này tôi nghiên
cứu đề tài: “Nghiên cứu xây dựng hệ thống tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá
trình độ tập luyện của nam VĐV đua xe đạp lứa tuổi 13 - 15 một số tỉnh miền Bắc
Việt Nam (giai đoạn chun mơn hố ban đầu)”.
Mục đích nghiên cứu
Thơng qua nghiên cứu đề tài, hướng nghiên cứu là cơ sở lý luận và thực tiễn
trình độ tập luyện của nam VĐV đua xe đạp đường trường 13-15 tuổi các tỉnh, thành
phố miền Bắc, ứng dụng các phương pháp khoa học để lập tiêu chuẩn và thang điểm
đánh giá TĐTL của nam VĐV đua xe đạp 13-15 tuổi, góp phần nâng cao hiệu quả
huấn luyện và tuyển chọn VĐV.
Mục tiêu nghiên cứu
Để giải quyết được mục đích nghiên cứu trên đề tài tiến hành thực hiện các
mục tiêu nghiên cứu sau:
Mục tiêu 1: Lựa chọn chỉ tiêu đánh giá TĐTL của nam VĐV đua xe đạp đường
trường lứa tuổi 13-15 một số tỉnh, thành phố miền Bắc.
Mục tiêu 2: Xây dựng hệ thống thang điểm và tiêu chuẩn đánh giá TĐLT của

VĐV đua xe đạp đường trường 13-15 tuổi một số tỉnh miền Bắc Việt Nam.


Mục tiêu 3: Kiểm chứng hệ thống thang điểm và tiêu chuẩn đánh giá TĐTL của
nam VĐV đua xe đạp đường trường 13 -15 tuổi một số tỉnh, thành phố miền Bắc.

* Giả thuyết khoa học
Thành tích thể thao của VĐV đua xe đạp đường trường phụ thuộc chủ yếu vào
các yếu tố thể hình, chức năng cơ thể, thể lực, năng lực chuyên môn và phẩm chất tâm
lý. Nếu xây dựng thang điểm đánh giá chính xác được TĐLT của VĐV thì sẽ giúp
cho các HLV điều chỉnh kế hoạch huấn luyện nhằm nâng cao TĐTL và thành tích thi
đấu của VĐV.


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Đặc điểm huấn luyện nhiều năm trong quá trình đào tạo VĐV trẻ các mơn
thể thao:
HLTT là một q trình sư phạm thống nhất vận dụng các quy luật về sự phát triển
nhân cách và năng lực thể thao. Ngoài ảnh hưởng của di truyền hiệu quả HLTT phần lớn phụ
thuộc quá trình luyện tập, mơi trường và xã hội.
Theo quan điểm của Harre, quá trình đào tạo VĐV chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn
huấn luyện VĐV trẻ (tạo nên các tiền đề chung và chun mơn cho thành tích thể thao cao
nhất) và giai đoạn huấn luyện VĐV cấp cao. Trong đó giai đoạn huấn luyện VĐV trẻ chia
thành hai giai đoạn nhỏ là huấn luyện ban đầu và chuyên mơn hóa.
Tác giả Nabátnhicơva, Philin cho rằng q trình đào tạo VĐV trẻ gồm các giai đoạn:
Huấn luyện ban đầu; Chun mơn hóa (từ 9 - 10 tuổi); Hồn thiện thể thao (16 tuổi trở lên)
[44].
Quan điểm của các tác giải A.Nơvicốp, L.MátVêép lại chia q trình HLTT nhiều
năm các giai đoạn lớn: Giai đoạn chuẩn bị thể thao sơ bộ; Giai đoạn chun mơn hóa bước

đầu là tạo nền tảng đầy đủ và có chất lượng cho những thành tích tương lai [1].
Tác giả Bulgacơva N.G (1983) cho rằng: Đánh giá quá trình huấn luyện đi liền với
đánh giá hình thái, chức năng, thể lực, kỹ thuật và tâm lý để xác định năng lực tiềm tàng của
VĐV nhằm đạt được những thành tích nhất định trong mơn thể thao lựa chọn. Năng lực này
được biểu hiện cụ thể ở mức chuẩn bị về kỹ thuật, chiến thuật, thể lực, đạo đức - ý chí và trí
tuệ. Giữa hình thái, chức năng, trình độ thể lực, kỹ thuật, tâm lý và TĐTL có mối liên quan
đến nhau nó phụ thuộc vào yêu cầu vận động chuyên môn của môn thể thao sở trường.
Tác giả Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tấn Di Trọng chia quá trình huấn luyện VĐV
trẻ thành 4 giai đoạn: Huấn luyện sơ bộ; Huấn luyện ban đầu; Huấn luyện chun mơn hóa;


Hồn thiện thể thao. Huấn luyện ban đầu cịn được gọi là giai đoạn dự bị năng khiếu [69],
[71], [72].
Tác giả Nguyễn Tốn, Phạm Danh Tốn chia q trình huấn luyện nhiều năm làm 3
giai đoạn chính: Giai đoạn đào tạo ban đầu, Giai đoạn thực hiện tối đa khả năng thể thao;
Giai đoạn duy trì thành tích thể thao [66].
Dưới quan điểm tuyển chọn tài năng thể thao theo các tác giả Nguyễn Ngọc Cừ, Bùi
Quang Hải giai đoạn chun mơn hóa khoảng 4-6 năm. Giai đoạn này nên đào thải những
VĐV phát dục sớm cuối mỗi năm nên tổ chức đánh giá TĐTL để tuyển chọn lại. Trong giai
đoạn này nên đo lường và đánh giá nhiều chỉ số hơn giai đoạn trước (về thể hình, chức năng,
tố chất, thể lực chun mơn, kỹ - chiến thuật). Ngồi ra nên chú ý tới yếu tố ý chí, khả năng
chịu đựng lượng vận động trong tập luyện. Trong giai đoạn này cũng nên kiểm tra sức khỏe
chung để loại trừ các trường hợp có sức khỏe yếu [11], [12], [22] .
Theo tác giả Ơđơlin M.G q trình huấn luyện nhiều năm của VĐV chạy ngắn được
chia thành 4 giai đoạn: Huấn luyện ban đầu (từ 9 tuổi và kéo dài trong khoảng 3 năm);
Chun mơn hóa ban đầu (từ lứa tuổi 12 - 13 và kéo dài tới 15 - 16 tuổi); Chun mơn hóa
sâu (từ lứa tuổi 15 - 16 và kéo dài tới 1 8 - 19 tuổi); Hoàn thiện thể thao (từ 19 tuổi hoặc lớn
hơn và đạt được thành tích cao nhất ở đội tuổi 22 - 28). Trong đó nhiệm vụ chủ yếu của giai
đoạn chun mơn hóa ban đầu là huấn luyện thể lực toàn diện, nâng cao mức độ chịu đựng
chung của cơ thể tạo được vốn kỹ năng vận động, tăng tri thức để hình thành những nền tảng

ban đầu của tài năng thể thao.
Theo tác giả V.Phi Lin và Điền Mạnh Cửu hệ thống luyện nhiều năm VĐV xe đạp thể
thao bao gồm 4 giai đoạn chủ yếu sau: Huấn luyện thể thao sơ bộ (10 - 12 tuổi) ; Chun
mơn hóa ban đầu (13-15 tuổi); Chun mơn hóa sâu (16 - 19 tuổi); Hoàn thiện thể thao (19
tuổi và nhiều hơn). Việc chia thành các giai đoạn huấn luyện mang tính quy ước vì sự khác
nhau trong việc phát triển về mặt sinh học của các VĐV trẻ có thể từ 2 - 3 năm hoặc nhiều
hơn.
Từ kết quả phân tích và tổng hợp tài liệu cho thấy đề tài lựa chọn đối tượng nam VĐV


xe đạp thể thao đường trường lứa tuổi 1 3 - 15 giai đoạn chun mơn hóa ban đầu là phù
hợp với cơ sở lý luận và đặc thù chuyên môn môn xe đạp thể thao. Đồng thời lứa tuổi 13-15
là giai đoạn cuối của giai đoạn chun mơn hóa ban đầu và chuẩn bị chuyển tiếp sang giai
đoạn chuyên mơn hóa sâu. Vì vậy việc địi hỏi TĐTL của VĐV nói chung và tố chất thể lực
nói riêng cần phải đáp ứng được nhiệm vụ và chỉ tiêu đặt ra.
Theo các tác giả Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn, Lê Văn Lẫm giai đoạn chun mơn
hóa ban đầu là giai đoạn chun mơn hóa cơ sở. Ở giai đoạn chun mơn hóa thể thao ban
đầu cần tận dụng thời kỳ phát triển “nhạy cảm” theo lứa tuổi của cơ thể tránh chun mơn
hóa q hẹp, sớm.
Theo tác giả Mátvêep L, đặc điểm chuyên biệt của quá trình tập luyện ở giai đoạn
chun mơn hóa ban đầu là: Hiệu quả cao của lượng vận động được thể hiện ở chỗ lượng
vận động tăng trưởng ít, song mức tăng thành tích tương đối lớn; tính đều đặn tương đối của
nhịp độ tăng hàng năm về khối lượng của lượng vận động tập luyện thể hiện tính đặc thù,
nhưng hiệu quả của chúng lại có phạm vi rộng thể hiện ở khả năng “chuyển” TĐTL khi sử
dụng những phương tiện huấn luyện khác nhau có biên độ lớn hơn so với giai đoạn sau.
Kết quả phân tích và tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong và ngoài nước về
đặc điểm các giai đoạn của quy trình huấn luyện nhiều năm đối với các mơn thể thao nói
chung XĐTT nói riêng cho thấy:
Phân chia các giai đoạn huấn luyện có thể dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau song điều
kiện tiên quyết là phải dựa vào quy luật phát triển sinh học tự nhiên của con người. Trong

quá trình huấn luyện phải tuân thủ quy luật phát triển sinh học để hồn thành mục đích,
nhiệm vụ trong từng giai đoạn huấn luyện đặt ra trong quy trình huấn luyện hệ thống. Một hệ
thống huấn luyện nhiều năm phải gắn liền với giới hạn tuổi của VĐV ở mỗi giai đoạn và tuổi
đạt thành tích đỉnh cao ở mơn thể thao cụ thể.
Q trình huấn luyện VĐV nói chung và VĐV xe đạp đường trường nói riêng được
chia thành các giai đoạn huấn luyện cụ thể và diễn ra nối tiếp trong nhiều năm. Việc phân
chia thành các giai đoạn huấn luyện chỉ mang tính khái qt tương đối, song nó ln có tính


kế thừa và hợp nhất. Căn cứ vào đặc trưng, đặc thù của mỗi môn thể thao mà xây dựng nên
các chỉ tiêu chuẩn cho từng giai đoạn huấn luyện.
Để đánh giá TĐTL của VĐV xe đạp đường trường cần phải căn cứ vào mục đích,
nhiệm vụ của từng giai đoạn huấn luyện. Từ đó lựa chọn được các phương pháp, phương tiện
huấn luyện và xuyên suốt trong kế hoạch huấn luyện.

1.2. Các quan điểm trong đánh giá trình độ tập luyện của VĐV thể thao:
1.2.1. Khái niệm về trình độ tập luyện:
TĐTL là một phức hợp gồm nhiều thành tố sinh học, tâm lý, kỹ chiến thuật, tố
chất thể lực hợp thành và được hoàn thiện nhờ ảnh hưởng của quá trình tập luyện, thi
đấu và các biện pháp hỗ trợ từ bên ngoài. Đánh giá TĐTL là nhiệm vụ quan trọng
trong HLTT để hỗ trợ cho công tác huấn luyện và tuyển chọn của người HLV. Để đánh
giá đúng về TĐTL cần có một đội ngũ đơng đảo các nhà khoa học bao gồm: bác sỹ,
HLV, kỹ thuật viên, nhân viên thí nghiệm hỗ trợ thêm cơng tác huấn luyện.
Mục đích tập luyện của con người là tăng cường sức khỏe và nâng cao thành
tích thể thao. Tập luyện tăng cường sức khỏe là mục đích chung của người tập là quá
trình tập luyện liên tục TDTT hàng ngày. Đối với VĐV thể thao q trình tập luyện
khơng ngừng hệ thống các bài tập chun mơn. Mục đích và nhiệm vụ tập luyện khác
nhau thì trình độ cũng rất khác nhau. Đối với người tập luyện vì mục đích sức khỏe
dựa vào năng lực tập luyện để đánh giá, còn đối với VĐV cần phải xác định TĐTL để
định ra các kế hoạch huấn luyện khoa học và các bài tập có tính đặc hiệu. Đánh giá

TĐTL cần phải thông qua các chỉ tiêu, chức năng sinh lý và các chỉ tiêu chuyên môn.
Khi tiến hành thực nghiệm phải phân tích đối chiếu các chỉ tiêu biến đổi sinh lý ở các
trạng thái yên tĩnh và chịu đựng lượng vận động. TĐTL là một trạng thái động luôn
luôn phát triển và tuân theo các quy luật phát triển của thành tích thể thao cũng như
đặc điểm giới tính, độ tuổi và môn thể thao chuyên sâu. Đánh giá TĐTL của VĐV cần
lưu ý đến các chỉ số chịu sự tác động của di truyền như: phản xạ vận động, sức mạnh
bột phát, lực cơ tương đối, sức nhanh, nhịp tim tối đa, lượng oxy hấp thụ tối đa so với
trọng lượng cơ thể, các chỉ số chuyển hóa yếm khí, hơ hấp tế bào. Mặt khác cịn phải
quan tâm đến một số chỉ tiêu chịu sự ảnh hưởng của môi trường giáo dục và huấn
luyện như tần số động tác, lực cơ tối đa…. Khi đánh giá TĐTL của VĐV cấp cao cần
phải định lượng được những thành tố bên trong cơ thể đó là các chỉ tiêu y sinh bao


gồm hình thái, sinh lý, sinh cơ, đồng thời xác định những thành tố biểu hiện bên ngồi
đó là các chỉ số sư phạm về tố chất thể lực chung và thể lực chuyên môn, kỹ- chiến
thuật và các phẩm chất tâm lý của từng VĐV vào những thời điểm sung mãn nhất, tức
là trước lúc thi đấu.
Chỉ số cơ bản để đánh giá TĐTL của VĐV là thành tích thể thao đạt được sau
nhiều năm tập luyện một cách liên tục, bền bỉ, công phu và khoa học. Thành tích thể
thao chỉ đạt được trong một giai đoạn ngắn nào đó trong mỗi chu kỳ tập luyện (trạng
thái sung sức thể thao). Thành tích thể thao là hiện tượng đa nhân tố, phụ thuộc vào
nhiều vấn đề. Trong các điều kiện giống nhau thành tích thể thao phụ thuộc vào năng
khiếu và mức độ đào tạo của nguồn VĐV. Năng khiếu của VĐV là bẩm sinh cịn trình
độ đào tạo, huấn luyện thì ln thay đổi nhờ kết quả của quá trình tập luyện.
1.2.2 Các quan điểm trong đánh giá trình độ tập luyện:
Cho đến nay quan điểm đánh giá về TĐTL được các nhà khoa học trong và
ngoài nước mặc dù khó thống nhất song có những cách thể hiện và cách nhìn rất khác
nhau.
1.2.2.1 Ở ngồi nước:
Theo từ điển TDTT của Trung Quốc xuất bản năm 1991 cho rằng: “Đánh giá

TĐTL là đánh giá mức độ khả năng thích nghi của cơ thể VĐV với vận động. Do ảnh
hưởng của lượng vận động trong tập luyện, tính thích nghi và mặt sinh học của cơ
thể cũng thay đổi tức là nâng cao năng lực hoạt động chức năng của các tổ chức, cơ
quan, hệ thống và năng lực tiềm tàng của VĐV cũng như cải thiện năng lực điều tiết
của hệ thống thần kinh trung ương đối với chức năng của các tổ chức, cơ quan”.
Trong hoạt động TDTT được biểu hiện ở mức độ phát triển tổng hợp về các
mặt tố chất thể lực, kỹ thuật mơn chính, tâm lý và trí tuệ thì TĐTL càng cao, năng lực
thể thao càng mạnh, thành tích thể thao càng tốt. Khi đánh giá TĐTL của VĐV cần tổ
chức kiểm tra chuyên môn và đánh giá theo các số liệu đã đo đạc được so với các tài
liệu có liên quan. TĐTL là thước đo đánh giá hiệu quả huấn luyện. Tìm hiểu trình độ
huấn luyện có tác dụng quan trọng đối với việc khắc phục sự mù quáng, nâng cao


tính tích cực tự giác của VĐV, điều khiển quá trình huấn luyện một cách khoa học.
Theo các tác giả Trung Quốc TĐTL bao gồm các nội dung chính sau:
TĐTL là một trạng thái động.
Thành tích thể thao là nhân tố cơ bản của TĐTL.
TĐTL được nâng cao thông qua con đường tập luyện thể thao.
Các tác giả cũng phân biệt TĐTL chung và TĐTL chuyên môn. TĐTL chung
được biến đổi một cách hợp lý dưới tác động của bài tập nhằm củng cố sức khỏe nâng
cao mức độ phát triển thể lực và các khả năng chức năng của cơ quan, tổ chức cơ thể
trong các hoạt động cơ bắp khác nhau.
Để đạt được thành tích cao trong một mơn thể thao nào đó các VĐV phải có các
tố chất thể lực khác nhau trong đó có thể bao gồm: mức độ và phát triển hình thể như:
chiều cao, cân nặng; sự phát triển cơ bắp, độ dài chân, tay; loại thể hình hay loại
Xơma (yếu, bình thường, khỏe mạnh).
Sự phối hợp vận động, thời gian tiềm phục của phản ứng vận động trình độ kỹ
chiến thuật; các phẩm chất tâm lý, ý chí, các tố chất thể lực sức nhanh, sức mạnh, sức
bền, khéo léo, độ mềm dẻo và các tố chất thể lực chuyên môn. Trong huấn luyện các
tố chất này thuộc về yếu tố của TĐTL.

Nguyên tắc cơ bản của việc đánh giá TĐTL là giải quyết một cách tổng hợp.
Đôi khi hai hay ba thử nghiệm đơn giản nhưng xác thực, phản ảnh được những khía
cạnh của TĐTL có thể cung cấp một lượng thơng tin có ích lớn hơn nhiều so với việc
sử dụng chính những thiết bị phức tạp với hàng chục chỉ số nhưng những yếu tố này
không bao gồm hết được các yếu tố chủ yếu.
Lượng vận động tập luyện và lượng vận động có ảnh hưởng quan trọng đến
TĐTL.


Để đánh giá TĐTL người ta phải tiến hành kiểm tra TĐTL. Cũng theo như các
nhà khoa học Trung Quốc thì kiểm tra TĐTL là một trong những giai đoạn huấn luyện
nhất định, dùng các phương pháp và công cụ (các dụng cụ và phương tiện) kiểm tra
thích hợp, có thể nhận được những tư liệu, cũng có thể phản ánh được TĐTL của
VĐV bao gồm hình thái và chức năng cơ thể, tố chất vận động, kỹ thuật, chiến thuật,
trí thức cơ bản về TDTT, lý luận mơn chun sâu phẩm chất tâm lý. Kiểm tra phải có
độ tin cậy (kết quả kiểm tra lặp lại giống nhau), tính hiệu quả (kết quả kiểm tra) có thể
phản ánh chính xác một mặt nào đó của TĐTL, tính khách quan những người kiểm tra
khác nhau cho kết quả khác nhau trên cùng một đối tượng kiểm tra.
Theo các tác giả Trung Quốc, TĐTL thể lực và thành tích thể thao đều có các
đặc thù khác nhau do đó việc phát triển các tố chất thể lực là nhằm đáp ứng nhu cầu
của môn thể thao cũng như cấu trúc của thi đấu rất quan trọng để thành công trong đào
tạo HLTT. Vì vậy, khái niệm trình độ thể lực là chủ yếu nói tới những biến đổi thích
nghi về mặt sinh học (chức năng và hình thái) diễn ra trong cơ thể VĐV dưới tác động
của tập luyện và biểu hiện ở năng lực hoạt động cao hoặc thấp.
Theo A.D.Nô Vi cốp và L.P Mát vê ép (1980) TĐTL chủ yếu liên quan đến
những biến đổi thích ứng về mặt sinh học (hình thái và chức năng xảy ra trong cơ thể
VĐV dưới tác động của lượng vận động tập luyện và những thay đổi đó biểu hiện ở sự
phát triển các năng lực của VĐV) [1].
Năm 1982, Aulíc I.V quan niệm về TĐTL như sau: “Yếu tố quan trọng nhất của
TĐTL là đạt thành tích thể thao. Vì vậy việc đánh giá TĐTL khơng phải là mục đích

tự thân mà là nhiệm vụ hàng thứ hai nó như một phương tiện kiểm tra cần phải có để
phục vụ cho vấn đề chính đó là phương pháp tập luyện nhằm tạo điều kiện đạt được
những thành tích thể thao cao”. Do đó, theo ơng: TĐTL là năng lực tiềm tàng của
VĐV để đạt được những thành tích nhất định trong môn thể thao lựa chọn và năng lực
này được biểu hiện cụ thể ở mức chuẩn bị về kỹ chiến thuật, thể lực, đạo đức và trí


tuệ. TĐTL càng cao thì VĐV càng có thể làm trọn vẹn được một nhiệm vụ nhất định
và hiệu quả mỹ mãn hơn.
I.V.Smirơlốp (1984) đã đưa ra những chỉ tiêu và phương pháp đánh giá tổng
hợp về TĐTL. Theo ông: “TĐTL của VĐV là kết quả tổng hợp của quá trình tập luyện
thể thao, nó phản ánh sự nâng cao khả năng chức phận cơ thể VĐV, khả năng làm việc
chung và chun mơn, trình độ hồn thiện kỹ năng, kỹ xảo vận động của VĐV được
đánh giá, được kiểm tra bằng khả năng chức phận cơ thể VĐV khả năng làm việc
chung và chun mơn, trình độ hồn thiện kỹ năng, kỹ xảo vận động của VĐV được
đánh giá được kiểm tra bằng khả năng của VĐV đạt thành tích thể thao”.
M.I.a Na bát Nhi cơ va (1995), trong tác phẩm “Quản lý đào tạo VĐV trẻ” đã
nghiên cứu TĐTL thơng qua mơ hình hóa các mặt khác nhau của thành tích thể thao.
Các chỉ số của mơ hình được xây dựng cho cả những VĐV trẻ (cụ thể hóa tiêu chuẩn
cho VĐV một số mơn thể thao) cho phép xác định các phương pháp giảng dạy, huấn
luyện theo đặc điểm từng môn thể thao. Tác giả đã đặt ra 10 ngun tắc cơ bản có tính
chủ đạo việc kiểm tra tổng họp các mặt y sinh, sư phạm đối với đánh giá TĐTL của
VĐV trẻ.
Theo quan niệm của nhà khoa học người Đức giáo sư Harre D. (1996) thì:
“TĐTL của VĐV thể hiện ở sự nâng cao năng lực thể thao nhờ ảnh hưởng của lượng
vận động tập luyện, lượng vận động thi đấu và các biện pháp bổ trợ khác”. Ơng cũng
cho rằng: ngồi lượng vận động tập luyện và thi đấu TĐTL của VĐV còn liên quan
đến các biện pháp hỗ trợ khác nhau. Các thông tin về TĐTL của VĐV còn được thể
hiện ở các cuộc thi đấu và kiểm tra thành tích (thơng qua các test kiểm tra). Như vậy
D.Harre xác định: “Các yếu tố của năng lực thể thao bao gồm: các năng lực về thể

chất, năng lực phối hợp vận động, năng lực trí tuệ, kỹ năng kỹ xảo, năng lực về chiến
thuật và các phẩm chất tâm lý”. Ngoài ra TĐTL cịn thể hiện ở sự thích ứng về các
mặt sinh học thông qua năng lực làm việc được nâng cao của các hệ thống chức năng


cơ thể. TĐTL được đánh giá bằng các test sư phạm, tâm lý, sinh lý, các test chuyên
môn và các cuộc thi đấu thể thao. Sự ảnh hưởng của lượng vận động trong tập luyện
và thi đấu, năng lực thể thao của VĐV được nâng cao được gọi là TĐTL.
Theo quan điểm của Ơdơlin M.G., thì TĐTL của VĐV là kết quả tổng hợp của
việc giải quyết các nhiệm vụ trong thực tiễn của công tác HLTT. TĐTL thể hiện ở mức
độ nâng cao chức phận cơ thể năng lực hoạt động chung và chuyên môn của VĐV ở
mức độ hoàn thiện các kỹ năng, kỹ xảo thể thao phù hợp.
Như vậy theo các nhà khoa học nước ngoài, TĐTL được phân thành TĐTL
chung và TĐTL chuyên môn. Các chỉ số về TĐTL chung của các VĐV được biểu thị
một cách độc lập với hình thức hoạt động. Để thực hiện điều trên, người ta chủ yếu
phân tích kết quả thử nghiệm gọi là các thử nghiệm chức năng phản ánh trạng thái
thần kinh - cơ, tuần hồn, hơ hấp, nội tiết. Các chỉ số này ở những môn thể thao khác
nhau thì khác nhau. Ví dụ, chỉ số TĐTL chung của VĐV cử tạ, thể dục dụng cụ, thể
dục nghệ thuật, thể hình... có cùng đẳng cấp, song thường bị đánh giá thấp hơn so với
cùng các chỉ số đó ở VĐV của các mơn đua xe đạp, chạy, bơi cự ly trung bình hay dài.
Sự đánh giá như vậy thật không khách quan nhất là khi so sánh những trường hợp
VĐV là những nhà vô địch thế giới hay châu lục. Để tránh được sự không thống nhất
này có thể khơng nên sử dụng khái niệm TĐTL chung. Vì vậy thay cho thuật ngữ
“trình độ tập luyện chung”, nên dùng khái niệm “trình độ thể lực”, hay “năng lực hoạt
động thể lực”. Trình độ thể lực biểu thị trạng thái chức năng cơ thể và đặc biệt nó biểu
hiện trình độ các tố chất thể lực như: sức mạnh, sức nhanh, sức bền, sự khéo léo (năng
lực phối hợp vận động) và sự mềm dẻo. Ngồi ra cịn thể hiện khả năng phối hợp cơ thần kinh.
Khái niệm về TĐTL chun mơn cũng khơng nên dùng, bởi vì mơn thể thao tập
luyện chun mơn chính là TĐTL, mơn thể thao nào cũng đều ảnh hưởng đến cải
thiện trạng thái chức năng cơ thể (hơ hấp, tuần hồn), trạng thái tâm lý, tố chất thể lực



chung và chun mơn. Vì vậy các tác giả nước ngồi cho rằng: chỉ nên dùng khái
niệm TĐTL nói chung thay cho TĐTL chung và TĐTL chun mơn.
Giữa trình độ thể lực và TĐTL có mối liên hệ lẫn nhau vì TĐTL càng cao thì
năng lực hoạt động của VĐV càng cao. Điều đó phụ thuộc vào hình thức hoạt động
thể lực nghĩa là phụ thuộc vào môn thể thao. Trạng thái của hệ vận động, oxy được coi
là chỉ số cơ bản của năng lực hoạt động được đặc trưng bởi mức độ hấp thụ oxy tối đa
(V02max). Ở những mơn thể thao có chu kỳ (chạy, bơi, xe đạp,...) mà sức bền là tố
chất nổi trội nhất thì thành tích của VĐV trực tiếp phụ thuộc vào khả năng hấp thụ oxy
tối đa có nghĩa là TĐTL phụ thuộc vào TĐTL và trình độ thể lực trùng hợp nhau. Các
mơn thể dục, thể hình, bắn súng, cờ vua, ... thành tích của VĐV chủ yếu là do hồn
thiện về kỹ thuật hay thể hiện tâm lý, ý nghĩa của sự vận chuyển 0xy là không lớn và
chỉ số thông thường về thể lực không cho ý niệm đầy đủ về TĐTL của VĐV.
1.2.2.2. Ở trong nước:
Về khái niệm TĐTL ở Việt Nam những năm gần đây cũng được các nhà khoa
học TĐTL đề cập tới.
Tác giả Lê Văn Lẫm (2000) đã định nghĩa: “TĐTL của VĐV là kết quả tổng
hợp của việc giải quyết các nhiệm vụ trong thực tiễn HLTT. Nó được thể hiện ở mức
độ nâng cao chức phận cơ thể, năng lực hoạt động chung và chun mơn của VĐV ở
mức độ hồn thiện các kỹ xảo thể thao phù hợp”.
Nhóm tác giả Nguyễn Tốn và Phạm Danh Tốn (1993) cho rằng: “TĐTL của
VĐV là kết quả tổng hợp của việc giải quyết các nhiệm vụ trong thực tiễn tập luyện
thể thao. Nó thể hiện ở mức độ nâng cao khả năng chức phận cơ thể, năng lực hoạt
động chung và chuyên môn của VĐV ở mức hoàn thiện các kỹ năng, kỹ xảo thể thao
phù hợp”. Tác giả Nguyễn Tốn cịn khẳng định: “TĐTL của VĐV được thể hiện một
cách tổng hợp (như một hợp kim), có 5 thành tố cơ bản gồm thể năng (thể hình và


chức năng), kỹ năng, kỹ thuật, chiến thuật, năng lực tâm lý. Giữa chúng có quan hệ

mật thiết vừa thúc đẩy vừa chế ước cho nhau”.
Từ góc độ sinh lý, tác giả Lưu Quang Hiệp và Phạm Thị Uyên (2003) cho rằng:
“Mức độ thích nghi của cơ thể đối với hoạt động cụ thể nào đó đạt được bằng tập
luyện đặc biệt được gọi là TĐTL”.
Năm 1997, tác giả Nguyễn Ngọc Cừ nêu ra định nghĩa: “TĐTL là phạm trù đa
giá trị có tính tương đối đến trìu tượng, tiềm ẩn, khơng thể nhận biết ngay được bằng
trực quan nó là tổng hịa những biến đổi thích nghi của vơ số những yếu tố phụ thuộc
các lĩnh vực khoa học y sinh, sư phạm và tâm lý diễn ra bên trong cơ thể VĐV thơng
qua q trình huấn luyện lâu dài được biểu hiện ra bên ngoài bằng năng lực vận động
và thành tích thể thao. TĐTL được coi là tiền đề là nền tảng cho sự sáng tạo các thành
tích thể thao. Khơng phải lúc nào TĐTL tốt cũng được thể hiện một cách thể hiện một
cách vô điều kiện ra ngồi bằng thành tích thể thao cao, bởi lẽ chúng ta không thể
lường hết và cũng không thể điều tiết được tất cả những yếu tố chi phối tiêu cực đối
với các cuộc thi đấu thể thao”.
Năm 2000, tác giả Trương Anh Tuấn cũng nêu định nghĩa về TĐTL và cho
rằng: “TĐTL thể hiện ở sự phát triển của từng yếu tố của năng lực thể thao như tố chất
thể lực, năng lực kỹ thuật, phối hợp vận động, năng lực chiến thuật và cả phẩm chất
tâm lý. Ngồi ra TĐTL cịn thể hiện ở sự thích ứng và thông qua năng lực làm việc
được nâng cao của các hệ thống chức năng cụ thể. TĐTL được đánh giá bằng các test
sư phạm, sinh lý, tâm lý, các test chuyên môn và các cuộc thi đấu thể thao. Do ảnh
hưởng của lượng vận động trong tập luyện và thi đấu năng lực thể thao của VĐV được
nâng cao phù hợp với từng giai đoạn huấn luyện. Trình độ các năng lực thể thao được
nâng cao, được gọi là TĐTL”.
Năm 2002 nhóm tác giả Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Kim Minh và Trần Quốc


×