Tải bản đầy đủ (.docx) (180 trang)

Nhân vật cô đầu trong văn học việt nam từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1930 (qua sáng tác của một số tác giả tiêu biểu)​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (916.57 KB, 180 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Minh Dƣơng
NHÂN VẬT CƠ ĐẦU TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
TỪ NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1930 (QUA
SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP SƢ PHẠM NGỮ VĂN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NHÂN VẬT CƠ ĐẦU TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
TỪ NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1930 (QUA
SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP SƢ PHẠM NGỮ VĂN

SINH VIÊN: NGUYỄN MINH DƢƠNG
MÃ SỐ SINH VIÊN: 41.01.601.019
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TH.S LÊ VĂN LỰC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2019


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian thực hiện, khóa luận tốt nghiệp “Nhân vật cô đầu trong


Văn học Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1930 (Qua sáng tác của một
số tác giả tiêu biểu)” đã đƣợc hồn thành đúng thời hạn. Đó là kết quả của một
quá trình làm việc nghiêm túc với sự hỗ trợ nhiều mặt từ phía nhà trƣờng, q
thầy cơ khoa Ngữ văn, bạn bè. Dù rất cố gắng nhƣng cơng trình vẫn khơng tránh
khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong nhận đƣợc ý kiến đóng góp, đề xuất để
cơng trình nghiên cứu đƣợc hồn thiện hơn.
Trƣớc tiên, tơi xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Thạc sĩ
Lê Văn Lực - ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn tôi thực hiện đề tài. Sự quan tâm,
hƣớng dẫn, chỉ bảo tận tâm của thầy đã giúp ích tơi rất nhiều trong việc hồn
thành khóa luận.
Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các giảng viên khoa Ngữ văn trƣờng Đại
học Sƣ phạm TP. HCM, cán bộ thƣ viện trƣờng Đại học Sƣ phạm TP. HCM, thƣ
viện THPT Nguyễn Thƣợng Hiền (Quận Tân Bình – TP. HCM) đã giúp đỡ, tạo
điều kiện cho tơi trong suốt q trình thực hiện khóa luận.
Cuối cùng, tơi xin đƣợc cảm ơn những ngƣời thân trong gia đình, bạn bè,
quỹ học bổng AMA đã ln động viên, khích lệ và hỗ trợ tơi về vật chất lẫn tinh
thần trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 4/2019
Sinh viên
Nguyễn Minh Dƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài.......................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề..........................................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu................................................................................................9
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi khảo sát............................................................ 10
5. Phƣơng pháp nghiên cứu........................................................................................ 11
6. Đóng góp của khóa luận......................................................................................... 12

7. Cấu trúc khóa luận.................................................................................................. 12
NỘI DUNG.................................................................................................................... 14
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT............................................................ 14
1.1. Khái niệm nhân vật văn học................................................................................ 14
1.2. Đôi nét về cô đầu................................................................................................. 15
1.2.1. Vấn đề tên gọi và khái niệm cô đầu............................................................... 15
1.2.2. Nguồn gốc xuất hiện cô đầu.......................................................................... 17
1.2.3. Cô đầu và những thay đổi của nghề nghiệp qua các thời kỳ..........................20
1.2.3.1. Cô đầu trong thời kỳ ca trù đƣợc sử dụng ở các nghi lễ......................... 20
1.2.3.2. Cơ đầu trong thời kỳ ca trù trở thành hình thức giải trí...........................24
1.2.3.3. Cơ đầu trong thời kỳ ca trù biến chất...................................................... 26
1.3. Khái quát về nhân vật cô đầu trong văn học Việt Nam........................................ 28
1.3.1. Nhân vật cô đầu trong văn học trung đại Việt Nam (thế kỷ X – cuối thế kỷ
XIX)........................................................................................................................ 28
1.3.2. Nhân vật cô đầu trong văn học hiện đại Việt Nam (từ năm 1900 đến nay)....38
1.4. Đặc điểm của các sáng tác viết về nhân vật cô đầu từ nửa cuối thế kỷ XIX đến
năm 1930.................................................................................................................... 43
1.4.1. Sự phong phú về tác giả, tác phẩm................................................................ 43
1.4.2. Sự đa dạng trong cách thể hiện...................................................................... 48
1.4.3. Nguyên nhân làm cho sáng tác thơ văn về cô đầu xuất hiện nhiều................52
Tiểu kết chƣơng I....................................................................................................... 55


CHƢƠNG II: NHÂN VẬT CÔ ĐẦU TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ NỬA CUỐI
THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1930 NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG..................56

2.1. Nhân vật cô đầu – con ngƣời hội tụ: sắc, tài, tâm................................................ 56
2.1.1. Sắc đẹp.......................................................................................................... 56
2.1.2. Tài năng......................................................................................................... 61
2.1.3. Phẩm chất, tính cách...................................................................................... 69

2.1.3.1. Sự tự ý thức về nhân phẩm...................................................................... 69
2.1.3.2. Khát vọng tình yêu, hạnh phúc................................................................ 71
2.2. Nhân vật cô đầu – con ngƣời của sự tha hóa....................................................... 79
2.2.1. Những biểu hiện của sự tha hóa.................................................................... 79
2.2.2. Nguyên nhân của sự tha hóa.......................................................................... 84
2.3. Nhân vật cô đầu – con ngƣời của số phận bi kịch............................................... 87
2.3.1. Hoàn cảnh xuất thân đáng thƣơng................................................................. 87
2.3.2. Cuộc sống thiếu thốn, tủi nhục...................................................................... 89
2.3.3. Đời sống tinh thần nhiều đau thƣơng, mất mát............................................. 94
2.4. Thái độ, tình cảm của tác giả đối với nhân vật cơ đầu......................................... 97
2.4.1. Thái độ mỉa mai, chế giễu, thiếu tôn trọng.................................................... 97
2.4.2. Tình cảm yêu thƣơng, đồng cảm, trân trọng...............................................101
Tiểu kết chƣơng II....................................................................................................106
CHƢƠNG III: NHÂN VẬT CÔ ĐẦU TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ NỬA
CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1930 NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT 108
3.1. Thể loại..............................................................................................................108
3.1.1. Thơ hát nói..................................................................................................108
3.1.2. Thơ Nơm Đƣờng luật..................................................................................115
3.1.3. Một số thể loại khác....................................................................................119
3.2. Ngôn ngữ...........................................................................................................125
3.2.1 Ngôn ngữ mang đậm chất bác học...............................................................126
3.2.2. Ngơn ngữ bình dân, đời thƣờng..................................................................130
3.3. Nghệ thuật miêu tả nhân vật..............................................................................134


3.4. Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật.................................................138
3.4.1. Thời gian nghệ thuật....................................................................................139
3.4.2. Không gian nghệ thuật................................................................................146
3.5. Giọng điệu.........................................................................................................149
3.5.1. Giọng điệu khôi hài, giễu cợt......................................................................150

3.5.2. Giọng điệu cảm thƣơng..............................................................................153
Tiểu kết chƣơng III..................................................................................................158
KẾT LUẬN.................................................................................................................160
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................165
PHỤ LỤC....................................................................................................................169
Phụ lục 1: Bảng khảo sát số lƣợng những câu thơ bằng chữ Hán trong các bài hát nói
về nhân vật cơ đầu của 5 tác giả tiêu biểu.................................................................169
Phụ lục 2: Hình ảnh về nghệ thuật ca trù và cô đầu..................................................172


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Những tác phẩm thuộc giai đoạn từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm
1930 viết về nhân vật cô đầu trong Việt Nam ca trù biên khảo
Bảng 2: Những tác phẩm của 5 tác giả tiêu biểu trong giai đoạn từ nửa cuối
thế kỷ XIX đến năm 1930 viết về nhân vật cô đầu


MỞ ĐẦU
“Tự cổ sầu chung kiếp xƣớng ca
Mênh mông trời đất vẫn không nhà.
Ngƣời ơi, mƣa đấy? Hay sênh phách?
Tay yếu gieo lòng xuống chiếu hoa.”
(Sầu chung – Trần Huyền Trân)
Từ xƣa đến nay, những ngƣời phụ nữ làm nghề đàn ca hát xƣớng ln
phải chịu nhiều sự thiệt thịi và cái nhìn khắt khe của xã hội. Nhân vật này đã tạo
nên một tình cảm đặc biệt và sức hấp dẫn kỳ lạ đối với các văn nhân dù ở bất cứ
giai đoạn nào. Vào những năm nửa cuối thế kỷ XIX đến 1930, ngƣời phụ nữ làm
nghề ca hát đã bƣớc vào trang viết của các tác giả một cách đơng đảo, chân thực
và sống động. Đó chính là cơ đầu – một nhân vật phức tạp, bí ẩn và khơng bao
giờ làm ngƣời ta ngƣng tìm tịi, khám phá.

1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1930 đƣợc xem là
giai đoạn văn học đầy biến động và phức tạp. Một trong những đặc điểm nổi bật của
nó chính là sự nở rộ của nhiều hình tƣợng văn học, nổi bật trong đó là hình tƣợng
ngƣời phụ nữ. Nếu nhƣ ở thời kỳ trƣớc, ngƣời phụ nữ xuất hiện trong văn chƣơng
gắn với tiếng nói bênh vực, ca ngợi thì đến giai đoạn này cái nhìn của các tác giả
với ngƣời phụ nữ đã trở nên đa chiều. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ đƣợc nhắc đến
thƣờng là ngƣời mẹ, ngƣời vợ, cung nhân, chinh phụ, liệt nữ… Trong đó hình
tƣợng nhân vật cơ đầu xuất hiện đơng đảo trong nhiều tác phẩm đặc sắc và tạo ra sự
đối nghịch trong quan điểm của các nhà thơ. Nghiên cứu về hình tƣợng nhân vật cơ
đầu để phát hiện đƣợc nét mới mẻ trong thân phận và cái nhìn của các tác giả so với
hình tƣợng ngƣời phụ nữ nói chung; đồng thời, góp phần

1


hiểu thêm về hiện thực xã hội nhiều biến động và sự phong phú, đa dạng trong
dòng chảy văn học của thời kỳ này.
1.2. Thông qua những sáng tác của các tác giả tiêu biểu có sự xuất hiện
của nhân vật cô đầu trong văn học từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1930, chúng
tôi mong muốn dựng lại bức chân dung hoàn chỉnh về một nhân vật văn hóa có
những đặc điểm riêng về ngoại hình, tính cách, số phận. Từ đó thấy đƣợc địa vị
của cơ đầu trong nghệ thuật ca trù nói riêng và văn hóa dân tộc nói chung.
1.3. Trong lịch sử phát triển, cơ đầu đƣợc xem là sự kết tinh của những vẻ
đẹp, của nhan sắc, tài năng và tâm hồn. Đến nửa cuối thế kỷ XIX, hát xƣớng với
họ trở thành một nghề để mƣu sinh. Do đặc thù nghề nghiệp, họ phải thƣờng
xuyên tiếp xúc với nam giới, nhất là những văn nhân tài tử, những con ngƣời
phong lƣu và say mê nghệ thuật ca trù. Vì vậy, thái độ, cách nhìn, tình cảm của
văn nhân đối với cơ đầu rất đa diện, đa chiều. Có ngƣời cảm thơng, trân trọng
nhƣng cũng có ngƣời châm biếm, chế giễu. Nghiên cứu hình tƣợng nhân vật cơ

đầu và cái nhìn của tác giả đối với họ sẽ mang đến cho chúng ta những lý giải
đầy đủ và xác đáng nhất về sự tiến bộ hay cổ hủ của nhà Nho đối với thân phận
của ngƣời phụ nữ, cụ thể là cô đầu. Qua đó, ngƣời đọc sẽ có một cái nhìn thống
đạt, đúng đắn hơn khi tiếp cận nhân vật này.
1.4. Bên cạnh việc miêu tả một cách tự nhiên và chân thực chân dung cơ
đầu, các tác giả cịn thể hiện những phong cách nghệ thuật khác nhau khi xây
dựng nhân vật. Nghiên cứu về nhân vật cô đầu sẽ cho chúng ta thấy đƣợc những
nét đặc sắc về thể loại, nghệ thuật miêu tả nhân vật, sử dụng ngôn từ, giọng điệu,
xây dựng không gian và thời gian nghệ thuật của các nhà văn, nhà thơ tiêu biểu
trong giai đoạn văn học từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1930.
1.5. Ngoài ra, ca trù vốn đƣợc xem là một bộ môn nghệ thuật xuất hiện lâu
đời và là một di sản văn hóa của dân tộc. Nó gắn liền với lễ hội, phong tục, tín
2


ngƣỡng, văn chƣơng, âm nhạc, tƣ tƣởng, triết lý sống của ngƣời Việt. Đã có rất
nhiều những cơng trình nghiên cứu về mơn nghệ thuật này. Trong đó, việc
nghiên cứu ca trù trong mối quan hệ với văn học luôn là một đề tài hấp dẫn, thu
hút sự quan tâm của nhiều ngƣời. Tìm hiểu nhân vật cơ đầu trong các sáng tác
văn học chính là một minh chứng cho mối quan hệ mật thiết, khăng khít giữa ca
trù và văn chƣơng. Từ đó thấy đƣợc sự hịa quyện giữa ca trù với văn học nói
chung và tình cảm đặc biệt giữa văn nhân với cơ đầu nói riêng.
Hơn nữa, nghiên cứu về nhân vật cô đầu trong văn học Việt Nam từ nửa
cuối thế kỷ XIX đến năm 1930 cịn cung cấp cho ngƣời đọc những thơng tin về
nguồn gốc, lịch sử phát triển của nghệ thuật ca trù. Thông qua những tác phẩm
giai đoạn này, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về đời sống cô đầu, những biến động của
ca trù trong giai đoạn mà nó trở thành dần biến chất và suy tàn.
Từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn “Nhân vật cô đầu trong văn học
Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1930 (Qua sáng tác của một số tác giả
tiêu biểu)” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp này.

2.

Lịch sử vấn đề

2.1. Các cơng trình nghiên cứu về nhân vật cô đầu trong văn học Việt Nam
từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1930
Cơng trình Việt Nam ca trù biên khảo của hai tác giả Đỗ Bằng Đoàn và
Đỗ Trọng Huề chính là một nguồn tƣ liệu quý giá và cung cấp tƣơng đối đầy đủ
những thông tin liên quan đến ca trù và cơ đầu. Cuốn sách tóm tắt về lƣợc sử ca
trù, những danh từ chuyên môn trong nghề ca trù, giáo phƣờng, những lối ca trù,
nhạc khí, những truyện ả đào lƣu danh sử sách, những vị tiền bối hay nghe hát,
hợp tuyển những bài ca trù và giới thiệu về những tác giả chuyên sáng tác ca trù.
Riêng đối với nhân vật cô đầu, hai tác giả đã đề cập những phƣơng diện sau:
khái niệm ả đào và cơ đầu, phân biệt cơ đầu nịi và cô đầu rƣợu, thông tin về
3


những tập quán và cuộc sống của cô đầu, kể về những truyện ả đào trong lịch sử,
tập hợp những bài hát nói có hình ảnh nhân vật cơ đầu… Theo hai tác giả, cơ đầu
là ngƣời có đạo đức, nhân cách, có nhiều cơng lao với dân tộc và đặc biệt họ có
mối liên hệ mật thiết với các văn nhân. Cuốn sách này, cũng chính là nguồn tài
liệu mà chúng tôi sẽ sử dụng để khảo sát phục vụ cho việc nghiên cứu bởi nó tập
hợp một số lƣợng lớn các sáng tác có sự xuất hiện của nhân vật cô đầu trong
Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX đến 1930.
Trong Ca trù phía sau đàn phách của tác giả Nguyễn Xuân Diện, ông đã
giới thiệu khái quát những vấn đề liên quan đến ca trù, đời sống đào nƣơng và
mối quan hệ giữa văn nhân với ả đào. Nguyễn Xuân Diện khẳng định “Thƣởng
thức ca trù gọi là nghe hát, chứ không phải là xem hát. Đào nƣơng ca trù chỉ
ngồi yên gần nhƣ bất động trong suốt cuộc hát trên một mảnh chiếu cạp điều,
với vẻ mặt bình thản, đoan trang… Ấy vậy mà nghệ thuật này đã góp cho văn

chƣơng hàng nghìn bài thơ viết bằng chữ Nôm chứa đựng rất nhiều tâm trạng,
rất nhiều biến thái vi tế của tâm hồn Việt Nam qua nhiều thế kỷ với các tên tuổi
tiêu biểu nhƣ: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Dƣơng Khuê,
Dƣơng Tự Nhu, Nguyễn Hàm Ninh, Chu Mạnh Trinh, Vũ Phạm Hàm, Nguyễn
Thƣợng Hiền, Phan Bội Châu, Bùi Kỷ, Tản Đà…” [3, 132]. Trong hàng nghìn
bài thơ mà tác giả nhắc đến không thể không kể đến những bài thơ có sự xuất
hiện của nhân vật cơ đầu, đặc biệt là các sáng tác trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ
XIX đến năm 1930.
Luận văn Thạc sĩ Nhân vật ả đào từ cuộc sống đến thơ văn của tác giả
Đoàn Thị Anh Đào là một cơng trình mang tính tổng hợp về nghề nghiệp, đời
sống của ngƣời ả đào từ trong cuộc sống đến những trang thơ từ lúc ca trù xuất
hiện đến lúc suy tàn. Luận văn cũng đã nhắc đến và phân tích một số tác phẩm

4


có sự xuất hiện của nhân vật cơ đầu từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1930 trong
tiến trình văn học Việt Nam.
Trong Luận văn Thạc sĩ Hình ảnh người kỹ nữ trong văn học trung đại
Việt Nam, tác giả Vũ Thị Hồng Yến mang đến một cái nhìn tổng quan nhất về
ngƣời kỹ nữ trong văn học từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX. Trong đó, tác giả đã
dành hai đề mục để nói về nhân vật cơ đầu “Cơ đầu và những nét đẹp của mối
tình tài tử - giai nhân”, “Cô đầu và những biểu hiện tha hóa vào cuối thế kỷ
XIX”. Tác giả khẳng định: “Hình ảnh cơ đầu hiện lên trong niềm mến mộ và trân
trọng của các văn nhân. Những bài thơ viết về cô đầu chiếm một số lƣợng khá
nhiều, thƣờng làm theo thể hát nói – một thể ca trù đƣợc các tao nhân mặc
khách ƣa chuộng nhất” [38, 66]. Tuy chỉ dành hai tiểu mục nói đến cơ đầu trong
văn học nửa cuối thế kỷ XIX nhƣng cũng có thể thấy rõ tác giả đã đề cập đến
nhân vật này ở hai khía cạnh hồn tồn trái ngƣợc nhau: vẻ đẹp và sự tha hóa.
Trong Luận văn Thạc sĩ Người ả đào qua các nguồn tư liệu từ thế kỷ

XVIII đến giữa thế kỷ XX, tác giả Hoàng Thị Ngọc Thanh đã tập trung khảo sát
các nguồn tƣ liệu và các tác phẩm văn học có sự xuất hiện của nhân vật ả đào
nhằm mục đích “dựng lại chân dung ngƣời ả đào nhƣ một nhân vật văn hóa,
vừa là chủ nhân của thể hát ca trù, vừa là đối tƣợng của thơ hát nói và sáng tác
văn chƣơng nói chung có thân phận và đặc điểm riêng” [26, 12]. Cơng trình đã
cung cấp một cái nhìn tƣơng đối bao quát về nhân vật ả đào, nêu đƣợc đặc điểm
nhân vật qua các nguồn tƣ liệu và cái nhìn đa chiều từ phía ngƣời thƣởng thức.
Điểm qua các cơng trình có nhắc đến nhân vật cơ đầu trong văn học từ nửa
cuối thế kỷ XIX đến năm 1930, có thể thấy rằng vấn đề này thƣờng đƣợc đặt
trong một tổng thể lớn, đƣợc nhìn nhận ở cấp độ chung chứ khơng đƣợc đem ra
nghiên cứu độc lập. Ngồi ra, hầu nhƣ các tác giả đều đề cập nhân vật cô đầu ở

5


phƣơng diện nội dung cịn nghệ thuật xây dựng hình tƣợng chƣa đƣợc chú ý
khai thác.
2.2. Các cơng trình nghiên cứu về nhân vật cô đầu trong sáng tác của 5 tác
giả tiêu biểu (Nguyễn Khuyến, Dƣơng Khuê, Trần Tế Xƣơng, Dƣơng Tự
Nhu, Tản Đà) từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1930
Đối với tác giả Nguyễn Khuyến, trong bài viết Hai loại chân dung phụ
nữ, Trần Thị Băng Thanh và Phạm Tú Châu đã phân ra hai mạch cảm hứng
chính khi viết về phụ nữ của Nguyễn Khuyến chính là “Những gƣơng mặt yêu
thƣơng” và “Những vai nữ lệch”. Trong đó, những cơ đầu rƣợu, tức là những
cơ gái bán thân xác để lấy tiền đƣợc xếp vào “Những vai nữ lệch” và thể hiện
hai thái độ khác biệt. Ơng “khơng miệt thị những con gái nhà lành vì hồn cảnh
bắt buộc phải dấn thân vào chốn bình khang” [27, 258] nhƣng cũng “lại có
những vần thơ ngoa ngoắt đến nhƣ “Đĩ cầu nôm”” [27, 259]. Theo hai tác giả
thì “thái độ rạch rịi, quyết liệt “ghét thói mọi nhƣ nhà nông ghét cỏ” cũng là
một nét khá tiêu biểu trong tính cách nhà nho” [27, 259].

Trong bài viết Nét riêng trong hát nói, tác giả Nguyễn Đức Mậu đã xếp 2
bài thơ viết về cô đầu của Nguyễn Khuyến là bài Bóng đè cơ đầu và Dun nợ
vào mạch phóng khống, mềm mại bên cạnh mạch trào phúng. Đặc biệt, tác giả
đánh giá 2 tác phẩm “Tuy đã thanh thốt hơn nhƣng dấu ấn của tính cách
Nguyễn Khuyến in đậm nét trong hát nói của ơng vẫn làm thành nét riêng, khơng
lẫn và cũng khơng có cái hay của sự phóng túng, hào mại mà hát nói vốn có”
[27, 358] . Nguyễn Đức Mậu đã cho rằng, những bài hát nói có sự xuất hiện của
cơ đầu đã góp phần làm nên nét riêng của Nguyễn Khuyến trong hát nói.
Đối với tác giả Trần Tế Xƣơng, trong Luận án Tiến sĩ Thơ Tú Xương trong
tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, Đồn Hồng Ngun trong mục “Kiểu
hình tƣợng và sự thể hiện hình tƣợng ngƣời phụ nữ thị dân” đã xếp những
6


bài thơ viết về cô đầu của Tú Xƣơng vào “thơ viết cho ngƣời tình”. Tác giả
nhấn mạnh “Chính cái đẹp của cảm hứng tình yêu hƣớng thƣợng ấy của Tú
Xƣơng đã không dƣới một lần cứu cho chuyện quan hệ tình cảm eo sèo ở xóm
Bình Khang khỏi trở nên tầm thƣờng nhuốm màu vật dục” [15, 116]. Đối với
Đồn Hồng Ngun, những bài thơ viết cho cơ đầu của Tú Xƣơng xuất phát từ
tình u và nó góp phần phát triển dịng thơ tình trung đại.
Văn Tâm trong Tính Chất và giá trị văn thơ trào phúng của Tú Xương
có nhận định: “Để mỉa mai trào phúng, Tú Xƣơng hay vẽ nên những hình ảnh kì
lạ. Con đĩ của Tú Xƣơng khơng phải là con đĩ “có tàn có tán, có hƣơng án bàn
độc” nhƣ con đĩ của Nguyễn Khuyến” [24, 269]. Qua đây, chúng ta thấy đƣợc
sự khẳng định của Văn Tâm về nét khác biệt, độc đáo của Tú Xƣơng trong việc
xây dựng hình ảnh “con đĩ” (phần lớn ám chỉ những cô đầu rƣợu) so với một thi
nhân khác cũng viết về nhân vật này là Nguyễn Khuyến.
Tú Mỡ trong bài Tính chất trào lộng trong thơ Tú Xương cho rằng viết
về gái đĩ ở Tú Xƣơng có hai thái độ rõ ràng. Thứ nhất, đối với những “gái đĩ, về
già hết duyên rồi mới đi tu” thì ơng xem đó là “một sản phẩm của chế độ đồi

trụy” và “mắng phủ đầu dữ dội”. Thứ hai, ông “sau nghĩ lại thƣơng ngƣời đàn
bà, nạn nhân của xã hội dâm ô, sa ngã nay đã biết quy thiện” [24, 288].
Ở một phƣơng diện khác, Nguyễn Đình Chú trong bài Tú Xương, nhà thơ
lớn của dân tộc lại nói về mối quan hệ giữa Trần Tế Xƣơng và các cơ đầu. Theo
Nguyễn Đình Chú “Trời sinh ra Tú Xƣơng là thuộc giống đa tình, “nịi tình”, kia
mà”, “Trƣờng hợp Tú Xƣơng, dĩ nhiên không phải là chuyện giữa cái anh hùng và
cái phong tình, mà là cái nghĩa tình và cái phong tình. Nhìn vào cảnh “đi hát mất ơ
trong thơ Tú Xƣơng” thì rõ. Tình gì mà tệ mạt thế. Nhót cả ơ của ngƣời tình!
Nhƣng điều đáng quý là Tú Xƣơng phong tình ở đây đã không chịu để cho cái tầm
thƣờng, cái đớn hèn từ phía kia đè tất cả xuống…” [24, 423]. Tác
7


giả đã cho ta thấy quan hệ giữa cô đầu và Tú Xƣơng chính là sự “phong tình”, là
“nghĩa tình”, hai thứ tƣởng chừng nhƣ khơng thể hịa hợp nay lại cùng tồn tại
trong bản thân tác giả.
Đối với tác giả Tản Đà, Hà Nhƣ Chi trong Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu –
Thân thế, sự nghiệp văn chương viết: “Tản Đà ƣa ăn ngon, thích thơ rƣợu, mê
hát ả đào – hành lạc đối với ông là cái lẽ độc nhất cịn níu giữ ơng lại trên cõi
đời buồn tẻ này” [4, 271]. Tản Đà chán đời, tơn thờ khối lạc và xem cơ đầu là
ngƣời mình có thể bên cạnh để quên đi mọi buồn phiền “Dù sao uống rƣợu bên
ngƣời ngọc đối với thi sĩ cũng là một cớ để khỏi chán đời” [4, 272].
Nguyễn Thiên Thụ trong bài viết Thực và mộng trong tình mẫu tử của
Tản Đà đã đƣa ra lí giải vì sao mà Tản Đà thƣờng hay viết về nhân vật cô đầu.
Theo tác giả, chính vì mẹ và em gái của Tản Đà là ngƣời của xóm Bình Khang
nên điều này đã tác động sâu sắc đến nội dung văn chƣơng của ông. Những tình
cảm, những tƣ tƣởng của Tản Đà trong các tác phẩm có liên hệ đến đào nƣơng
nhƣ Thề Non Nƣớc, Trần Ai Tri Kỷ, Kiếp Phong Trần và phần Bình Khang Ca
Phả trong Tản Đà Vận Văn đều có hình ảnh mẹ và em gái Tản Đà.
Riêng đối với hai tác giả khác mà khóa luận khảo sát là Dƣơng Khuê và

Dƣơng Tự Nhu, hầu nhƣ chƣa có một cơng trình cụ thể nào nghiên cứu một
cách chi tiết về nhân vật cô đầu trong sáng tác của hai nhà thơ.
Nhƣ vậy, điểm qua các cơng trình, bài nghiên cứu, có thể thấy vấn đề nhân
vật cơ đầu trong văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX đến năm 1930 không phải chƣa
đƣợc nhắc đến. Tuy nhiên, các công trình hoặc phạm vi quá rộng, hoặc chƣa đề cập
trọn vẹn, đầy đủ các khía cạnh của nhân vật này. Qua việc tìm hiểu đề tài “Nhân vật
cơ đầu trong văn học Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1930 (qua sáng tác
của một số tác giả tiêu biểu)”, chúng tơi hi vọng góp thêm một hƣớng nghiên cứu
mới, cách tiếp cận mới về nhân vật cô đầu. Những ý kiến,
8


cơng trình đi trƣớc là tiền đề, định hƣớng đúng đắn và gợi mở q báu để chúng
tơi hồn thành đề tài này.
3.

Mục đích nghiên cứu
3.1. Với đề tài “Nhân vật cô đầu trong văn học Việt Nam từ nửa cuối thế

kỷ XIX đến năm 1930 (qua sáng tác của một số tác giả tiêu biểu)”, trƣớc hết,
khóa luận nhằm mục đích tái hiện, phân tích chân dung nhân vật cô đầu và nghệ
thuật xây dựng nhân vật này qua sáng tác của các tác giả tiêu biểu. Từ đó sẽ thấy
đƣợc bối cảnh lịch sử xã hội của giai đoạn lúc bấy giờ và thái độ của các nhà
thơ, nhà văn. Ngƣời đọc sẽ có cái nhìn tƣơng đối bao qt, tồn diện về nhân vật
cơ đầu, góp phần khẳng định thành tựu của giai đoạn văn học từ nửa cuối thế kỷ
XIX đến 1930 vốn đƣợc xem là một giai đoạn phát triển rực rỡ và phức tạp.
3.2. Tiếp theo, thơng qua những khảo sát, phân tích, cơng trình cịn mong
muốn khẳng định vai trị của nhân vật cơ đầu trong dịng văn học tài tử giai nhân
nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
3.3. Ngồi ra, cơng trình cịn nhằm cung cấp thêm những thơng tin về

nguồn gốc, đặc điểm, lịch sử phát triển của bộ mơn nghệ thuật ca trù. Đặc biệt là
đời sống, hồn cảnh, tính cách phức tạp của cơ đầu.
3.4. Tìm hiểu đề tài “Nhân vật cô đầu trong văn học Việt Nam từ nửa cuối
thế kỷ XIX đến năm 1930 (qua sáng tác của một số tác giả tiêu biểu)”, khóa luận
cịn nhằm mong muốn góp phần định hƣớng vào việc dạy đọc – hiểu những tác
phẩm trong nhà trƣờng có sự xuất hiện của nhân vật cô đầu. Trong bối cảnh
chƣơng trình giáo dục phổ thơng mơn Ngữ văn đã quy định rõ các tiêu chí và
yêu cầu để lựa chọn văn bản (ngữ liệu), theo chúng tôi, văn bản viết về cô đầu
của các tác giả trong giai đoạn này hồn tồn phù hợp và có khả năng đƣa vào
dạy học trong nhà trƣờng bởi những giá trị to lớn về mặt nội dung cũng nhƣ
nghệ thuật.
9


4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Với đề tài này, đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là nhân vật cơ đầu
trong văn học Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1930 thông qua khảo
sát các sáng tác của một số tác giả tiêu biểu. Cụ thể, khóa luận sẽ tiến hành khảo
sát sáng tác của 5 tác giả:
-

Nguyễn Khuyến

-

Dƣơng Khuê

-


Trần Tế Xƣơng

-

Dƣơng Tự Nhu

-

Nguyễn Khắc Hiếu (Tản Đà)

4.2. Phạm vi khảo sát
Phạm vi khảo sát của đề tài là những tác phẩm có sự xuất hiện nhân vật cơ
đầu của 5 tác giả tiêu biểu. Quá trình tổng hợp sáng tác của các tác giả đƣợc đề
cập trong khóa luận chủ yếu dựa vào những cơng trình chính sau:
- Đối với tác giả Nguyễn Khuyến: “Nguyễn Khuyến tác phẩm” do Nguyễn Văn
Huyền sƣu tầm, NXB Nghệ An, 2008.
- Đối với tác giả Dƣơng Khuê: “Việt Nam ca trù biên khảo” của tác giả Đỗ
Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, NXB Sài Gòn, 1962.
-

Đối với tác giả Trần Tế Xƣơng: “Tú Xƣơng toàn tập” của Trung tâm nghiên

cứu quốc học, NXB Văn học, 2010.
-

Đối với tác giả Dƣơng Tự Nhu: “Việt Nam ca trù biên khảo” của Đỗ Bằng

Đoàn và Đỗ Trọng Huề, NXB Sài Gòn, 1962.
- Đối với tác giả Nguyễn Khắc Hiếu: “Tuyển tập Tản Đà” do Nguyễn Khắc
Xƣơng sƣu tầm, NXB Hội nhà văn, 2002.


10


Ngồi ra, chúng tơi cịn tham khảo thêm một số bài hát nói của các tác giả
khác trong “Việt Nam ca trù biên khảo” của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề
(NXB Sài Gịn, 1962) nhằm mục đích mang đến một cái nhìn tồn diện và bao
qt hơn về nhân vật cô đầu trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1930.
Trong quá trình nghiên cứu, để thấy đƣợc nét độc đáo, đặc sắc của hình
tƣợng nhân vật cô đầu trong giai đoạn văn học nửa cuối thế kỷ XIX đến năm
1930, chúng tôi sẽ liên hệ với nhân vật cô đầu trong sáng tác văn chƣơng ở giai
đoạn trƣớc hoặc sau để thấy rõ những nét tƣơng đồng cũng nhƣ khác biệt.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phƣơng pháp lịch sử
Với phƣơng pháp này, chúng tôi sử dụng để tìm hiểu bối cảnh giai đoạn
nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1930. Đồng thời, chúng tơi cịn tìm hiểu sự hình
thành và những giai đoạn phát triển của nghệ thuật ca trù gắn với sự chuyển biến
của nhân vật cô đầu.
5.2. Phƣơng pháp thống kê
Với phƣơng pháp này, chúng tôi sử dụng để thống kê các tác phẩm văn
học có nhắc đến nhân vật cơ đầu trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX đến năm
1930 và rút ra những nhận xét.
5.3. Phƣơng pháp phân tích – tổng hợp
Với phƣơng pháp này, chúng tôi sử dụng để khai thác nhân vật cơ đầu ở
những khía cạnh chi tiết trên cả hai bình diện nội dung và nghệ thuật nhằm nắm
đƣợc bản chất của nhân vật này. Từ đó, chúng tôi sẽ tổng hợp để đƣa ra những
kết luận khái quát về nhân vật để ngƣời đọc dễ hình dung và tiếp cận nhất. Đây
là phƣơng pháp chính mà chúng tơi sử dụng trong khóa luận này.
5.4. Phƣơng pháp so sánh


11


Với phƣơng pháp này, chúng tôi sử dụng để so sánh nhân vật cô đầu trong
sáng tác của các tác giả tiêu biểu giai đoạn từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1930
với các tác giả thời kì trƣớc và sau. Đồng thời, chúng tơi sẽ nhìn nhận vấn đề
một cách toàn diện nhất trong sự đối sánh giữa các tác giả với nhau. Từ đó, rút ra
những điểm tƣơng đồng, khác biệt và khái quát lên đặc trƣng hình tƣợng nhân
vật cơ đầu trong cả giai đoạn. Đây cũng là phƣơng pháp đƣợc sử dụng xuyên
suốt trong toàn khóa luận.
6. Đóng góp của khóa luận
6.1. Ý nghĩa khoa học
Với việc đi sâu tìm hiểu về nhân vật cơ đầu trong giai đoạn nửa cuối thế
kỷ XIX đến năm 1930 thông qua sáng tác của một số tác giả tiêu biểu, khóa luận
hi vọng sẽ góp thêm một cách hiểu toàn diện và đúng đắn về kiểu nhân vật đầy
thú vị này. Qua đó, giúp ngƣời đọc có cái nhìn phù hợp, cặn kẽ và cảm nhận
đƣợc nét độc đáo của nhân vật cô đầu trong văn chƣơng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Giai đoạn văn học từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1930 là mảnh đất màu
mỡ đã nảy sinh nhiều cây bút xuất sắc nhƣ: Nguyễn Khuyến, Dƣơng Khuê, Trần
Tế Xƣơng, Tản Đà… Sáng tác của các tác giả này đã và đang đƣợc đƣa vào
giảng dạy ở nhà trƣờng phổ thơng. Vì thế, việc tìm hiểu về nhân vật cô đầu trong
sáng tác của các tác giả trên là điều rất quan trọng, góp phần đƣa ra những định
hƣớng trong việc lựa chọn ngữ liệu và nội dung dạy ở chƣơng trình phổ thơng.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngồi phần mở đầu và kết luận, khóa luận đƣợc triển khai thành ba
chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Những vấn đề khái quát

12



Trong chƣơng này, chúng tôi sẽ khái quát về khái niệm và vai trò của nhân
vật văn học; giới thiệu về khái niệm, nguồn gốc và những thay đổi của cơ đầu
qua các thời kỳ lịch sử. Bên cạnh đó, chúng tơi sẽ mang đến một cái nhìn tổng
quan về nhân vật cô đầu trong văn học Việt Nam và đặc điểm của các sáng tác
viết về cô đầu trong giai đoạn từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1930.
Chƣơng 2: Nhân vật cô đầu trong văn học Việt Nam từ nửa cuối thế
kỷ XIX đến năm 1930 nhìn từ phƣơng diện nội dung
Trong chƣơng này, chúng tôi đi sâu khai thác nhân vật cô đầu trên
phƣơng diện nội dung. Cụ thể là tìm hiểu về đặc điểm của những cơ đầu chân
chính, những cơ đầu bị tha hóa, số phận và khát vọng của cô đầu qua các sáng
tác tiêu biểu. Ngồi ra, chúng tơi cịn chỉ ra thái độ, tình cảm đa chiều, phức tạp
của các tác giả đối với nhân vật này.
Chƣơng 3: Nhân vật cô đầu trong văn học Việt Nam từ nửa cuối thế
kỷ XIX đến năm 1930 nhìn từ phƣơng diện nghệ thuật
Trong chƣơng này, chúng tôi sẽ nghiên cứu những nét đặc sắc về nghệ
thuật trong việc khắc họa nhân vật cô đầu của các tác giả tiêu biểu. Cụ thể là trên
các phƣơng diện: thể loại, ngôn ngữ, nghệ thuật xây miêu tả nhân vật, giọng
điệu, thời gian - không gian nghệ thuật.

13


NỘI DUNG
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT
1.1. Khái niệm nhân vật văn học
Theo Từ điển tiếng Việt do Giáo sƣ Hồng Phê chủ biên thì “Nhân vật là
đối tƣợng (thƣờng là con ngƣời) đƣợc miêu tả, thể hiện trong tác phẩm văn học
nghệ thuật” [20, 901].

Theo Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học thì nhân vật văn học là
“Hình tƣợng nghệ thuật về con ngƣời, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại
toàn vẹn của con ngƣời trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con ngƣời, nhân vật
văn học có khi cịn là các con vật, các loại cây, các sinh thể hoang đƣờng đƣợc
gán cho những đặc điểm giống với con ngƣời” [1, 303].
Trong Giáo trình lý luận văn học tập 2 do Trần Đình Sử chủ biên đã xem
nhân vật văn học là “là khái niệm dùng để chỉ hình tƣợng các cá thể con ngƣời
trong tác phẩm văn học – cái đã đƣợc nhà văn nhận thức, tái tạo, thể hiện bằng
các phƣơng tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ” [23, 114].
Từ những ý kiến trên, có thể hiểu một cách khái quát, nhân vật văn học
chính là “hình tƣợng các cá thể con ngƣời” trong tác phẩm văn học. Nhân vật
văn học thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con ngƣời và khơng thể
đồng nhất với con ngƣời có thật bởi nó đã đƣợc nhà văn nhận thức và tái tạo
trong tác phẩm.
Cơ đầu là một lớp ngƣời có thật, tồn tại lâu dài trong xã hội và bƣớc vào
sáng tác của nhiều nhà văn, nhà thơ với một diện mạo riêng, đƣợc khắc họa với
những đặc điểm nổi bật về ngoại hình, hành động, tính cách. Có thể khẳng định
cơ đầu chính là một nhân vật văn học và in dấu nhiều đặc trƣng của con ngƣời
thời đại mà họ xuất hiện. Thậm chí nhiều nhân vật cơ đầu cụ thể trong tác phẩm
đã trở nên nổi tiếng, đƣợc đọc giả biết đến rộng rãi nhƣ: Cô Cầm (Long Thành
14


cầm giả ca – Nguyễn Du), Vân Anh (Thề non nƣớc – Tản Đà), đào Hồng, đào
Tuyết (Gặp đào Hồng đào Tuyết – Dƣơng Kh)… Đó chính là một thành tựu
lớn bởi các tác giả đã đóng góp cho văn học một loại nhân vật đầy sinh động, đặc
sắc.
1.2. Đôi nét về cô đầu
1.2.1. Vấn đề tên gọi và khái niệm cô đầu
Tên gọi cô đầu xuất hiện khá muộn vào khoảng cuối thế kỷ XIX đến nửa

đầu thế kỷ XX. Trƣớc đó họ thƣờng đƣợc gọi bằng những cái tên nhƣ: ả đào,
đào nƣơng... Các khái niệm đào nƣơng, ả đào, ả đầu, cô đầu thực chất là dùng
để chỉ chung một ngƣời. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát cách giải thích khái
niệm cơ đầu của một số nhà nghiên cứu sau:
Trong Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên đã xem cô đầu, ả đào, ả
đầu là cùng một khái niệm và đƣa ra cách giải thích ngắn gọn cơ đầu là “ngƣời
phụ nữ làm nghề hát ca trù thời trƣớc” [20, 2].
Theo Nguyễn Xuân Diện trong Ca trù phía sau đàn phách thì “Ả đào là
ngƣời ca nữ (có thể cũng đồng thời là vũ nữ) của nghệ thuật truyền thống của
ngƣời Việt. Đây là từ chỉ chung cho các bộ môn nghệ thuật ca múa nhạc cổ của
Việt Nam. Ả đào là chỉ ngƣời hát, khác với hát ả đào là từ chỉ một bộ môn ca
múa nhạc” [3, 139].
Theo Nguyễn Đức Mậu trong Ca trù nhìn từ nhiều phía thì “Ả đào là
thành viên quan trọng của tiệc ca trù, vai trò của ả đào là làm ca sĩ cho tiệc hát
nhƣng khác với ca sĩ ở chỗ ả đào vừa hát vừa gõ phách. Ả đào là nữ giới, kép là
nam giới” [14, 20].
Ngồi ra, Nguyễn Hồng Anh Tuấn trong Vai trị của ca nƣơng trong
nghệ thuật ca trù đã đƣa ra định nghĩa: “Ả đào là tên gọi (cổ xƣa nhất) đã có từ
đời Lý Thái Tổ (thế kỷ thứ XI), theo truyền thuyết về Đào thị có nhan sắc, giỏi ca
15


hát đƣợc vua khen tặng, nên dân gian gọi ca nƣơng hát ca trù là ả đào nhằm
chỉ ngƣời con gái đẹp, hát hay. Từ đây, ta có nội hàm của khái niệm ả đào là
chức danh của một nữ nghệ nhân hát ca trù, cịn đƣợc gọi là cơ đầu” [33, 13].
Nhƣ vậy, từ định nghĩa của các nhà nghiên cứu, có thể thấy khái niệm cơ
đầu dùng để chỉ những ngƣời nghệ nhân nữ trong ca trù, có nhiệm vụ vừa
hát, vừa gõ phách. Ngồi ra, họ cịn đƣợc gọi bằng những cái tên khác nhƣ:
đào nƣơng, ả đào, cơ đào, ả đầu… Trong đó, vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX
đến năm 1930 thì tên gọi đặc trƣng và phổ biến nhất chính là cơ đầu.

Ngun nhân của việc có sự chuyển đổi tên gọi từ đào nƣơng, ả đào
sang cô đầu là bởi: thứ nhất, nhiều ngƣời cho rằng chữ “ả” trong “ả đào” có
nghĩa là “cơ”, ngƣời ta thƣờng có cách nói là “cơ ả” nên “ả đào” tức là “cô đào”
và từ “cô đào” bị nói trệch đi thành “cơ đầu”. Thứ hai, tên gọi này bắt nguồn từ
một tục lệ riêng của nghệ thuật ca trù đó là những danh ca ả đào khi dạy cho học
trị thành nghề thì mỗi khi đi hát học trị phải trích ra một món tiền để cung
dƣỡng cho ngƣời thầy. Số tiền ấy gọi là tiền đầu. Sau này, ngƣời ta dùng tiếng
“cô” thay tiếng “ả” để thể hiện sự tôn trọng và rõ ràng hơn, tiếng “đầu” thay cho
tiếng “đào” để bày tỏ sự tán tụng, ca ngợi bậc danh ca lão luyện, đã dạy cho
nhiều học trị thành tài và đƣợc tặng nhiều món tiền đầu. Vũ Bằng nhận định
“Tiếng cô thay tiếng ả cho rõ ràng, tiếng đầu thay tiếng đào để tỏ ý tán tụng bậc
danh ca” [33, 97]. Bắt nguồn từ tục lệ đó mà mọi ngƣời bắt đầu dùng phổ biến
tên gọi cô đầu thay cho ả đào ở giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Xoay quanh tên gọi cơ đầu có rất nhiều tranh cãi, nhiều ngƣời cho rằng tên
gọi cô đầu là một tên gọi với nghĩa xấu “Cơ đầu, cơ đít, cơ đi” (thành ngữ), nó
khác với tên gọi ả đào vốn chỉ những con ngƣời của nghệ thuật thực thụ. Nhƣng
thực ra, ngƣời hát ả đào có tên gọi là cơ đầu phần lớn vào thời điểm khi mà họ đã
tích lũy đƣợc vốn liếng, kinh nghiệm, đủ sức hoạt động độc lập, không
16


còn phụ thuộc vào giáo phƣờng nhƣ ở giai đoạn trƣớc. Họ tự mình đứng ra mở
các nhà hát (ca quán) ở thành thị để hoạt động nghề hát và dạy hát ca trù. Vì thế
cái tên cơ đầu chính là một cách gọi khác của ả đào chứ không phải mang nghĩa
xấu nhƣ nhiều ngƣời vẫn ngộ nhận.
Trong công trình nghiên cứu này, một số chỗ chúng tơi sẽ dùng những tên
gọi khác nhƣ: ả đào, đào nƣơng… thay vì dùng cơ đầu nhằm mục đích phù hợp
với đặc trƣng của từng giai đoạn lịch sử và từng tác phẩm cụ thể.
1.2.2. Nguồn gốc xuất hiện cô đầu
Cô đầu chính là chủ nhân thực thụ của nghệ thuật ca trù. Song về thời điểm

xuất hiện nhân vật này vẫn cịn nhiều tranh cãi. Trong điều kiện của hƣớng tìm hiểu
qua thƣ tịch còn nhiều hạn chế, bởi hầu nhƣ khơng có một tƣ liệu nào đầy đủ về
thời điểm ra đời chính xác của cơ đầu. Vì vậy, khi nghiên cứu về nguồn gốc của cô
đầu nhiều ngƣời đã lấy các sự tích, truyền thuyết làm tƣ liệu.

Hai tác giả Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề trong Việt Nam ca trù biên
khảo có thuật lại một sự tích về tổ của cô đầu nhƣ sau: Vào đời nhà Lê có Đinh
Lễ, ngƣời làng Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh thƣờng ôm cây đàn
nguyệt đến bên suối gảy và ca hát để hòa với tiếng suối chảy trong khe. Một
hôm, Sinh đem đàn và rƣợu vào rừng thơng để tiêu khiển, gặp đƣợc hai ơng cụ
già. Đó chính là Lý Thiết Quải và Lã Đại Tiên (Lã Động Tân). Hai cụ già đƣa
cho Sinh khúc gỗ ngô đồng và tờ giấy vẽ kiểu mẫu đàn và dặn đóng đàn nhƣ
trong giấy. Tiếng đàn ấy sẽ trừ đƣợc ma quỷ, giải đƣợc phiền muộn. Nhờ tiếng
đàn kỳ diệu, Sinh chữa đƣợc bệnh cho rất nhiều ngƣời ở nhiều nơi. Một lần,
Sinh đến châu Thƣờng Xuân, tỉnh Thanh Hóa, chàng đã chữa khỏi bệnh câm cho
ngƣời con gái tên Hoa, con của vị quan châu Bạch Đình Sa. Sau đó, hai ngƣời
nên vợ chồng và sống hịa hợp cùng nhau ở bên nhà Bạch công. Sinh đặt ra lối
múa hát mới, rồi lấy hai thanh tre vót thực đẹp để cho nàng gõ lên trên mảnh gỗ
17


theo với nhịp đàn mà hát, hai vợ chồng cùng nhau về quê Sinh ở Cổ Đạm để lập
nghiệp. Ít lâu sau, Sinh gặp lại các vị tiên ông, đƣợc ghi tên vào tiên phả rồi
cùng nhau hóa đi. Vợ Sinh biết chuyện bèn cho hết gia tài rồi đóng cửa và dạy
con em trong làng hát múa. Dân làng Cổ Đạm nhớ ơn nàng, lập đền thờ gọi là
đền tổ cô đầu, hay là đền Bạch Hoa Công chúa. Lịch triều phong tặng Đinh Lễ là
Thanh Xà Đại vƣơng, Bạch Hoa là Mãn Đào Hoa cơng chúa.
Với sự tích này, Đinh Lễ và Bạch Hoa chính là tổ sƣ của ca trù. Nguồn
gốc của cô đầu xuất phát từ chính Bạch Hoa cơng chúa, nàng là ngƣời đã truyền
dạy những kỹ thuật, bí quyết cho con em múa hát từ lúc chồng hóa đi cho đến

lúc nàng qua đời.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Diện trong Ca trù phía sau đàn phách đã nhắc
một sự tích về tổ nghề ở Lỗ Khê: Vào đời Lê Thái Tổ, có ngƣời họ Đinh, tên Lễ, ở
động Hoa Lƣ, huyện An Khang, phủ Trƣờng Yên, đạo Thanh Hóa, theo vua Lê dấy
nghĩa ở Lam Sơn chống lại giặc Minh đƣợc mƣời năm. Ông có vợ là Trần Minh
Châu, con nhà trâm anh. Một hơm, ơng đi đến động Bích Đào, gặp đƣợc Đơng
Phƣơng Sóc báo cho sẽ sinh đƣợc quý tử lấy đƣợc vợ tiên. Một đêm, vợ ông nằm
mộng thấy rắn xanh lọt vào lịng và từ đó có mang. Ngày mồng 6 tháng 4 năm Quý
Tị, bà sinh một con trai, diện mạo khôi ngô tên là Đinh Dự. Đinh Lễ mang quân đi
đánh giặc Minh và dựng đồn trại ở làng Lỗ Khê, huyện Đông Ngàn, đạo Kinh Bắc.
Đinh Dự lớn lên học vấn tinh thông, cầm, kỳ, thi, họa, ca xƣớng hơn ngƣời. Đinh
Dự khi dạo chơi ở huyện Gia Định, phủ Thuận An, trang Đơng Cứu tình cờ gặp cô
gái Đƣờng Hoa, sắc đẹp nhƣ tiên, hai ngƣời liền kết vợ chồng và về trang Lỗ Khê
lập giáo phƣờng. Đƣợc tin Thái Tổ bệnh nặng, vợ chồng Đinh Dự tới đàn hát cho
vua nghe, vua liền khỏi bệnh, đánh thắng giặc Minh. Sau đó, vua cho mời vợ chồng
Đinh Dự vào thƣởng công, ban tƣớc. Đƣờng Hoa phu nhân tâu với vua mình là
tiên và bay đi mất, Đinh Dự biến
18


×