Tải bản đầy đủ (.docx) (170 trang)

Dấu ấn hiện sinh trong truyện ngắn và tiểu thuyết nguyễn danh lam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 170 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ

PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Thanh Quang

DẤU ẤN HIỆN SINH TRONG TRUYỆN NGẮN VÀ
TIỂU THUYẾT NGUYỄN DANH LAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ

PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Thanh Quang

DẤU ẤN HIỆN SINH TRONG TRUYỆN NGẮN VÀ
TIỂU THUYẾT NGUYỄN DANH LAM
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. BÙI THANH TRUYỀN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung nghiên cứu trong luận văn này là cơng trình
nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn trực tiếp của PGS.TS. Bùi Thanh
Truyền. Các kết quả nêu trong luận văn đều có cơ sở khoa học. Mọi trích dẫn trong
luận văn đều có xuất xứ rõ ràng. Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về cơng trình
nghiên cứu của mình.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 09 năm
2018 Tác giả

Trần Thị Thanh Quang


LỜI CẢM ƠN
Hồn thành cơng trình này, chúng tơi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến:
Lãnh đạo trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Ban chủ nhiệm
khoa Ngữ văn đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi thực hiện luận văn.
Quý thầy cô giáo trong và ngồi trường đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ chúng
tơi trong suốt q trình học tập và thực hiện luận văn tại cơ sở đào Trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Q thầy cơ thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, thư viện
trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã hết lòng phục vụ, cung cấp tài
liệu để chúng tơi hồn thành luận văn.
Trường THPT Củ Chi đã tạo điều kiện thuận lợi cho tơi trong suốt q trình

học tập và nghiên cứu.
Dịch giả Đinh Hồng Phúc đã tổ chức buổi tọa đàm về chủ đề Thuyết hiện sinh
là một nhân bản thuyết (Jean-Paul Sartre) tại trụ sở Viện IRED – Số 4 Bà Huyện
Thanh Quan, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh vào chiều 12/01/2018 để giúp tơi có
điều kiện hiểu thêm về chủ nghĩa hiện sinh.
Nhà văn Nguyễn Danh Lam và anh Nguyễn Thiền Quang (em trai nhà văn) đã
giúp đỡ, cung cấp đầy đủ các văn bản tác phẩm để chúng tơi có điều kiện tiếp xúc
trọn vẹn các tác phẩm trong quá trình nghiên cứu.
PGS.TS. Nguyễn Thành Thi – người thầy đã dạy và theo suốt chúng tơi trong
q trình học tập.Thầy đã có những gợi mở về cách trình bày các nội dung trong luận
văn sao cho được chặt chẽ từ khi chúng tôi trình bày đề cương và giúp đỡ chúng tơi
về tài liệu trong q trình nghiên cứu.
Đặc biệt, chúng tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến: PGS.TS. Bùi Thanh
Truyền – người thầy đã tận tình giúp đỡ chúng tôi xây dựng đề cương; chỉ dẫn, cung
cấp cho chúng tôi tất cả những tư liệu cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu. Cảm ơn
thầy đã luôn động viên, hướng dẫn và đã tin tưởng tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận văn.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp – những người đã luôn
bên cạnh, khuyến khích và cổ vũ tinh thần để tơi có thể hoàn thành đề tài.


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 1
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN SINH VÀ NHÀ VĂN
NGUYỄN DANH LAM 17
1.1. Giới thuyết về chủ nghĩa hiện sinh..................................................................... 17
1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa hiện sinh................................................................. 17

1.1.2. Điều kiện ra đời của chủ nghĩa hiện sinh................................................. 19
1.1.3. Những tư tưởng chính của chủ nghĩa hiện sinh........................................ 24
1.1.4. Sự biểu hiện của khuynh hướng hiện sinh trong văn xuôi Việt Nam
thời kỳ sau Đổi mới 30
1.2. Nhà văn Nguyễn Danh Lam và những sáng tác mang dấu ấn hiện sinh.............45
1.2.1. Cuộc đời và tác phẩm............................................................................. 45
1.2.2. Điều kiện tiếp biến chủ nghĩa hiện sinh trong sáng tác của Nguyễn
Danh Lam

46

Chương 2. DẤU ẤN HIỆN SINH TRONG TRUYỆN NGẮN VÀ TIỂU
THUYẾT NGUYỄN DANH LAM NHÌN TỪ CẢM QUAN VỀ
HIỆN THỰC, CON NGƯỜI

51

2.1. Dấu ấn hiện sinh thể hiện ở cảm quan về hiện thực........................................... 51
2.1.1. Hiện thực mang màu sắc phi lý, kì ảo...................................................... 51
2.1.2. Hiện thực tiềm ẩn nhiều bất trắc.............................................................. 64
2.2. Dấu ấn hiện sinh thể hiện ở cảm quan về con người.......................................... 69
2.2.1. Con người cô đơn.................................................................................... 69
2.2.2. Con người lo âu....................................................................................... 84
2.2.3. Con người nổi loạn.................................................................................. 92
2.2.4. Con người tha hóa.................................................................................... 98


Chương 3. DẤU ẤN HIỆN SINH TRONG TRUYỆN NGẮN VÀ TIỂU
THUYẾT NGUYỄN DANH LAM NHÌN TỪ PHƯƠNG
THỨC THỂ HIỆN 109

3.1. Cốt truyện, kết cấu...........................................................................................109
3.1.1.Cốt truyện phân mảnh.............................................................................109
3.1.2. Kết cấu theo kết thúc mở.......................................................................114
3.2. Giọng điệu.......................................................................................................119
3.2.1. Giọng điệu triết lí...................................................................................119
3.2.2 Giọng điệu vô âm sắc..............................................................................127
3.3. Các motif hiện sinh..........................................................................................134
3.3.1. Motif cuộc đời phi lý.............................................................................135
3.3.2. Motif hành trình.....................................................................................142
KẾT LUẬN............................................................................................................ 149
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................152
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐÃ CÔNG BỐ


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

1.1. Chủ nghĩa hiện sinh (Existentiallism) – còn gọi là Thuyết sinh tồn, Thuyết
hiện sinh là một trào lưu triết học phi duy lí phát triển mạnh mẽ ở các nước phương
Tây vào đầu thế kỉ XX. Thuật ngữ “chủ nghĩa hiện sinh” được nhà triết học người
Pháp Gabiel Marcel khởi xướng vào những năm 1940 và được Jean Paul Sartre sử
dụng trong bài thuyết trình ngày 29 tháng 11 năm 1945 tại Paris. Bài thuyết trình sau
đó được xuất bản thành sách với nhan đề “Thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản”.
Quyển sách này đã khiến cho chủ nghĩa hiện sinh trở nên nổi tiếng. Cuộc chiến tranh
thế giới lần thứ nhất, thứ hai đã gây ra những chấn thương tinh thần sâu sắc cho nhân
loại khơng gì có thể cứu vãn nổi. Con người cảm thấy vô cùng hoang mang khi đứng
trước một châu Âu điêu tàn, vỡ nát. Chính vì thế, họ cảm thấy “buồn nơn”, “phi lí”,

“cơ đơn”, “chán nản”. Họ tìm đến chủ nghĩa hiện sinh để xoa dịu những bi kịch tinh
thần mình đang chịu đựng. Cho nên, chủ nghĩa hiện sinh ra đời với tư cách là một
trào lưu triết học đã nhanh chống lan rộng ở Đức, Pháp và nhiều vùng miền, lãnh thổ
trên thế giới. Nó đã có những ảnh hưởng trực tiếp, sâu rộng đến nhiều lĩnh vực của
đời sống cũng như khoa học, trong đó có văn học. Văn học hiện sinh đã vượt ra khỏi
những quan niệm của dòng văn học trước kia. Nó bắt đầu đi vào những hiện tượng
đầy bất trắc của hiện thực đời sống xã hội để phản ánh cảm giác cô đơn của con
người và thể hiện thái độ phản kháng cái “phi lí” bằng cách “nổi loạn”. Trên thế giới,
có những tên tuổi bất hủ gắn liền với văn chương hiện sinh như Franz Kafka, Jean
Paul Sartre, Albert Camus, Simone de Beauvoir, Francoise Sagan, Iris Murdoch...
Nói triết học hiện sinh gắn bó mật thiết với văn học vì đó là triết học về con người,
nó đề cập đến những vấn đề thiết thân của con người trong cuộc sống và con người
được nhìn nhận như là giá trị cao nhất, là trung tâm của vũ trụ. Từ phương Tây, chủ
nghĩa hiện sinh đã vươn nhánh mạnh mẽ tới phương Đông để khẳng định vị thế tồn
cầu của mình trong văn học, trong đó có Việt Nam.
1.2. Ở Việt Nam, triết học hiện sinh vẫn mang một sức hút khó cưỡng đối với
nhiều nhà văn. Họ tìm thấy thấy ở đó tiếng nói đồng điệu về nhân vị, tự do, về cuộc
sống bất an và lo âu khi con người đối diện với những đổi thay của đất nước và thời
đại. Chủ nghĩa hiện sinh bắt đầu xuất hiện trong văn học Việt Nam từ nửa đầu thế kỉ


2

AX và nó được các văn nghệ sĩ đón nhận một cách sôi nổi, hào hứng với các sáng tác

của nhóm Tự lực văn đồn. Trải qua những thăng trầm của thời đại, khuynh hướng
này có lúc bị lu mờ và vắng bóng rồi trở lại, đặc biệt phát triển mạnh trong những
năm đầu của thế kỉ XXI, nhất là trong văn học Việt Nam sau Đổi mới. Những thay
đổi trong tư duy nghệ thuật và sự biến đổi trong nhận thức về con người để đi sâu
vào khám phá sự hiện tồn của bản thể người là mảnh đất màu mỡ tạo điều kiện cho

văn học mang cảm thức hiện sinh nở rộ trở lại với những tên tuổi nổi bật như
Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái, Tạ
Duy Anh, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài... hay các gương mặt trẻ tài năng như Nguyễn
Ngọc Tư, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Ngọc Thuần, Đoàn Minh Phượng, Thuận... Mỗi
nhà văn trong bối cảnh văn hóa mới, với những lo lắng, hoang mang cùng cảm thức
thời đại đã trở thành những cây bút vô cùng sung sức và ln khát khao thể hiện
mình. Họ nhìn cuộc sống khơng giống như những triết gia hiện sinh nhưng trong các
sáng tác của họ mang màu sắc triết học hiện sinh và giới nghiên cứu gọi đó là cảm
quan hay dấu ấn hiện sinh. Trong sáng tác của các nhà văn, vấn đề thân phận con
người trong xã hội hiện đại được tái hiện ở tình trạng vong thân, cơ đơn, phi lí. Họ
ln bị ám ảnh bởi cái chết, bị đẩy đến bước đường cùng trong bi quan, chán nản để
rồi chọn cho mình cách sống ngập ngụa trong sự tha hóa của bản thân, cuối cùng họ
đã nổi loạn trên con đướng tìm kiếm bản ngã, sự tự do và cái đẹp... Đó chính là tư
tưởng khẳng định về nhân vị, tự do, về những lo âu... của chủ nghĩa hiện sinh mà
chúng ta đã từng bắt gặp trong các sáng tác của các nhà văn bậc thầy như Franz
Kafka, Jean Paul Sartre, Albert Camus...
1.3. Nguyễn Danh Lam - nhà văn trẻ tuy mới xuất hiện trên văn đàn nhưng đã
trở thành một hiện tượng đặc biệt và thu hút được sự quan tâm mến mộ của đông đảo
người đọc. Từ quan niệm “nhà văn phải khác biệt”, Nguyễn Danh Lam ln tự làm
mới mình trong cách viết. Anh ln thể hiện tinh thần trách nhiệm trong q trình lao
động nghệ thuật bởi lẽ trước khi bắt tay vào viết một tác phẩm, nhà văn đã phải:
“nghĩ ngợi, dàn dựng ý tưởng trong đầu từ rất lâu” (Dương Tử Thành, 2012). Từ đó
tác giả đã cho ra đời những đứa con tinh thần giàu giá trị nội dung và nghệ thuật.
Anh được đánh giá là một trong những cây bút có năng lực sáng tạo dồi dào và đã
khẳng định được phong cách riêng, độc đáo. Các sáng tác của anh luôn thấm đẫm


3

những triết lý sâu sắc về thân phận, đời người. Đó là bức tranh rộng lớn về cuộc sống

của con người trong xã hội hiện đại. Họ đang tự đi tìm chính mình trong cuộc hiện
sinh thăm thẳm và trong cảm quan hoài nghi của những tấn bi kịch đương thời. Đó
cịn là thân phận của những “lạc thể” giữa cuộc đời, thân phận của những con người
thống khổ bươn bả với khát vọng làm người, khát vọng hạnh phúc, hay thân phận
của những con người luẩn quẫn trong những cảnh giới chính mình tạo ra với đầy rẫy
nỗi sợ hãi vơ lí. Thế giới trong sáng tác của Nguyễn Danh Lam mới nhìn vào tưởng
chừng là những câu chuyện đời thường giản đơn nhưng thật ra lại chứa đựng cả tấn
bi kịch tinh thần của con người đương đại. Đó là những con người đang đối mặt với
những vấn đề thuộc về sinh tồn, thuộc về bản thể. Độc giả nhận thấy trong các sáng
tác của nhà văn này những biểu hiện của chủ nghĩa hiện sinh hòa trong dịng chảy
của khuynh hướng hiện sinh của văn xi Việt Nam đương đại.
Với mục đích chỉ ra dấu ấn hiện sinh trong sáng tác của Nguyễn Danh Lam để
góp thêm một cách nhìn mới về cảm quan nghệ thuật của tác giả, chúng tôi quyết
định chọn đề tài “Dấu ấn hiện sinh trong truyện ngắn và tiểu thuyết Nguyễn Danh
Lam” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1. Lịch sử nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh
Trong cơng trình Triết học Nietzsche, Nguyễn Đình Thi đã đưa lại những hiểu
biết ban đầu đúng đắn về Nietzsche và các gợi mở về chủ nghĩa hiện sinh: “dùng trực
giác chống lí trí, dựng bi quan chống lại lạc quan, dùng phi đạo đức chống ln lí”
(Nguyễn Đình Thi, 1942).
Trần Thái Đỉnh đã ra mắt đọc giả công trình Triết học hiện sinh từ những năm
60. Nó được xem là một cơng trình nghiên cứu chuẩn mực, đầy đủ và khá bao quát

về triết học hiện sinh. Tác giả đã trình bày một cách tổng quan về triết học hiện sinh
với những đề tài chính và hai ngành: hiện sinh hữu thần và hiện sinh vơ thần. Ơng đi
sâu vào phân tích những quan niệm của các triết gia tiêu biểu như Kierkegaard,
Nietzsche, Husserl, Jaspers, Marcel, Sartre và Heidegger (Trần Thái Đỉnh (Tái bản
lần 3), 2015).

Với cơng trình Mấy trào lưu triết học phương Tây, Phạm Minh Lăng đã đặt
chủ nghĩa hiện sinh trong sự tương quan so sánh với chủ nghĩa duy linh và khẳng


4

định sự ra đời của triết học hiện sinh hiện đại chính là bước hồn chỉnh những quan
điểm hiện sinh đã có trong lịch sử trước đó. Tác giả nhận định rằng, mặc dù triết lí
hiện sinh đến với miền Nam Việt Nam khá muộn nhưng khơng khí của nó có lúc cịn
sơi nổi hơn nhiều nước phương Tây (Phạm Minh Lăng, 1984).
Trong cơng trình Phê phán văn học hiện sinh, Đỗ Đức Hiểu trên cơ sở phân
tích của Jean – Paul Sartre đã đi đến định nghĩa hiện sinh như sau: “Tơi muốn nói
rằng hiện sinh, về định nghĩa của nó, khơng phải là cái tất yếu. Hiện sinh có nghĩa là
tồn tại đấy, có thế thơi, tức là cái vơ thường, cái ngẫu nhiên hồn tồn” (Đỗ Đức
Hiểu, 1987). Ngoài việc đưa ra khái niệm cơ bản và các phạm trù cơ bản của triết
học hiện sinh, tác giả đã đi vào phê phán kịch phi lí, phủ nhận những nội dung mà
văn học hiện sinh miền Nam mang lại và khẳng định đó là dịng văn học “phản
động”. Nhìn chung, ơng có cái nhìn phê phán khá gay gắt và không mấy thiện cảm
với triết thuyết này (Đỗ Đức Hiểu, 1987).
Trần Thiện Đạo cũng đã bàn về khái niệm hiện sinh trong cơng trình Chủ
nghĩa hiện sinh và thuyết cấu trúc của mình như sau: “Chủ nghĩa hiện sinh trình bày
sự hiện sinh, l’existence, như một hiện tượng đối lập với bản chất, l’essence, vốn hết
sức mù mờ, đổi thay, thay đổi không ngừng; sự hiện sinh do ngẫu sinh, contingence,
mà ra, nghĩa là có đó vậy thơi, có đó một cách vơ cớ, khơng bao hàm một ý nghĩa
tiên nghiệm nào, và không được biện minh bởi một bản chất có thật nào. Chủ nghĩa
hiện sinh đã được chính Jean – Paul Sartre tóm tắt và định nghĩa bằng một câu cơ
đọng: “Hiện sinh có trước bản chất”” (Trần Thiện Đạo, 2001).
Qua cơng trình Chủ nghĩa hiện sinh: lịch sử, sự hiện diện ở Việt Nam, Nguyễn
Tiến Dũng đã khái quát sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa hiện sinh. Từ đó tác giả
đã chỉ ra những dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh trong sáng tác của các tác giả như:

Duyên Anh, Nguyễn Thị Hồng, Phạm Thị Hồi, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Huy
Thiệp...Ơng rút ra nhận xét trong một thời gian rất ngắn trào lưu văn học hiện sinh đã
cho ra đời một khối lượng rất nhiều tác phẩm (Nguyễn Tiến Dũng, 2005).
Khi nghiên tìm hiểu về chủ nghĩa hiện sinh ở Việt Nam, nhà nghiên cứu
Huỳnh Như Phương trong cơng trình nghiên cứu Chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam
Việt Nam 1954 – 1975 (trên bình diện lý thuyết) đã bước đầu phác thảo sơ lược về sự
du nhập, bén rễ và phát triển của chủ nghĩa hiện sinh trong lòng xã hội Việt Nam.


5

Tác giả cho rằng: “Để chọn một lý thuyết triết học và mỹ học được du nhập và có
ảnh hưởng rộng rãi nhất trong lý luận và sáng tác văn học miền Nam Việt Nam
những năm 1954 – 1975, có lẽ nhiều người sẽ không ngần ngại chọn chủ nghĩa hiện
sinh” (Huỳnh Như Phương, 2008). Có thể xem đó là một cơng trình thu gọn lịch sử
nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam Việt Nam. Trong bài viết, tác giả đã
điểm qua những cơng trình nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh trên bình diện lý thuyết
từ 1954 – 1975 ở ba bình diện: bình diện lý thuyết triết học và văn học, bình diện
sáng tác văn học với những quan niệm hiện sinh về con người cô đơn trong thế giới
nhiều phi lí, bình diện thái độ sống với suy tư, trăn trở và sự phản ứng “nổi loạn”
(Huỳnh Như Phương, 2008).
Trong cơng trình Thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản, dịch giả Đinh
Hồng Phúc đã chuyển tải một cách trung thành quan niệm của Jean – Paul Sartre về
tính nhân bản của thuyết hiện sinh. Đó là một chủ thuyết u đời, khơng hề bi quan
vì nó khẳng định vận mệnh của con người do con người quyết định và họ có quyền
hi vọng vào chính bản thân mình, học thuyết của hành động: “Thuyết hiện sinh
khơng gì khác hơn là nổ lực rút ra tất cả các hệ quả từ một lập trường vô thần vững
chắc. Nó khơng hề tìm cách dìm con người vào tuyệt vọng. Nhưng nếu ta gọi sự
tuyệt vọng là toàn bộ vơ tín ngưỡng như người Cơng giáo thì thuyết hiện sinh xuất
phát từ tuyệt vọng nguyên thủy. Thuyết hiện sinh thực sự không phải là một thuyết

vô thần theo nghĩa nó tận lực chứng minh rằng Thượng đế khơng hiện hữu. Đúng
hơn, nó tuyên bố rằng: cho dù thượng đế có hiện hữu thì cũng chẳng có gì thay đổi
cả; đấy là quan điểm của chúng tôi. Không phải chúng tôi tin Thượng đế hiện hữu,
mà chúng tôi cho rằng vấn đề không phải sự hiện hữu của ngài. Con người cần tìm
lại chính mình và tin chắc rằng khơng có gì có thể cứu nổi con người ra khỏi bản
thân mình, đó có phải là một chứng cứ có hiệu lực về sự hiện hữu của Thượng đế?
Theo nghĩa này, thuyết hiện sinh là một thuyết lạc quan, một thuyết hành động”
(Đinh Hồng Phúc, 2016).
Trên đây, chúng tôi vừa điểm qua một số cơng trình nghiên cứu có tính chất
tiên phong và nổi bật về chủ nghĩa hiện sinh. Chúng tôi nhận thấy bên cạnh các
chuyên luận nghiên cứu công phu và chuyên sâu về chủ nghĩa hiện sinh, cịn có rất
nhiều cơng trình nghiên cứu về hiện sinh và dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh ở dạng


6

các bài viết, bài nghiên cứu độc lập. Một điều đáng chú ý là việc nghiên cứu về biểu
hiện của chủ nghĩa hiện sinh trong văn học ngày càng được nhiều người quan tâm.
Nó trở thành đề tài hấp dẫn cho nhiều cơng trình nghiên cứu cho các khóa luận tốt
nghiệp, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Trong khuôn khổ giới hạn của đề tài này
chúng tôi xin mạn phép khơng đề cập đến.
Tìm hiểu những cơng trình trên, chúng tơi lấy đó làm tiền đề để tiến hành
nghiên cứu và thực hiện đề tài “Dấu ấn hiện sinh trong truyện ngắn và tiểu thuyết
Nguyễn Danh Lam” của mình.
2.2. Những nghiên cứu về sáng tác của Nguyễn Danh Lam
Trong những năm gần đây, Nguyễn Danh Lam nổi lên như một gương mặt
độc đáo của làng văn. Tuy là một gương mặt trẻ, sáng tác với số lượng không nhiều
nhưng mỗi tác phẩm của nhà văn khi trình làng đều có giá trị về nội dung, nghệ thuật
cao và được đơng đảo cơng chúng đón nhận, kể cả những độc giả khó tính. Chính vì
điều đó ngày càng có nhiều bài viết và cơng trình nghiên cứu về sáng tác của anh.

Bài viết “Bến vô thường” - thế giới những người không mặt của nhà văn
Nguyễn Vĩnh Nguyên đã đưa ra những nhận xét sắc bén về nội dung của tác phẩm:
“Khó có thể đi tìm một tuyến nhân vật rõ ràng, một nhân vật chính hay một câu
chuyện đầu xuôi đuôi lọt trong cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Danh Lam. Đọc lại lần
nữa, lại thấy nó khơng có nhân vật, nói cách khác, nhân vật lại khơng có mặt người
mà biểu hiện rõ nhất trong mớ hỗn độn, tù túng, ngổn ngang kia là một thế giới
người không mặt, không tên” bởi “họ mang những cái tên chợ đời, mà tác giả như
người chủ nợ, ghi chúng vào trang sách theo cách “bắt thần”: thằng câm, chị mặt rỗ,
cơ tóc tém, thằng mắt híp, thằng “chữ ký”, lão toét, lão cóc? Cuốn sách được cấu
thành bởi những đoạn rời rạc. Rồi từ những đoạn rời rạc đó, ta lần tìm một thứ dây
mơ rễ má để thấy, hình như chúng phi lý khi đứng cạnh nhau. Dù rằng chúng vẫn có
một sự gắn kết đặc biệt, một thứ logic phi logic. Với cái cấu trúc xếp đặt ngẫu hứng
ấy, Nguyễn Danh Lam thả vào trong những mảnh rời ba không gian xã hội của cộng
đồng con người sống ở những xóm ga” (Nguyễn Vĩnh Nguyên, 2005).
Cũng với Bến vô thường, nhà báo Song Phạm trong bài viết Cuối năm gặp 2
tác giả trẻ “Mười ba trong một bến vô thường!” đã đưa lời nhận xét nhấn mạnh về
khả năng viết ở Nguyễn Danh Lam của nhà văn Hồ Anh Thái: “Những nhà ga, trong


7

ký ức và cả trong suy tưởng; Những hành trình tưởng đâu sẽ đến miền đất hứa; Cái
bến đời vô thường bao nhiêu ngộ nhận, bao nhiêu hy vọng, bao nhiêu điều ân oán.
Nhiều mảng đời lạ hoặc được lạ hóa. Yếu tố huyền ảo được sử dụng vừa phải, tạo
được ấn tượng mộng mị liêu traituy đôi chỗ gây cảm tưởng phóng tay tùy hứng.
Nguyễn Danh Lam chứng tỏ một tay nghề tiểu thuyết có ý thức mang đến cho độc
giả đôi điều mới lạ” (Song Phạm, 2005).
Những nhận xét trên chứng tỏ Nguyễn Danh Lam luôn nổ lực đưa ra những
thể nghiệm mới trong việc chuyển tải những nội dung về những vấn đề của đời sống
đương đại cũng như kỹ thuật viết tiểu thuyết. Chính vì vậy, anh được xem như một

hiện tượng của văn học thời kỳ đổi mới.
Nhà phê bình Hồi Nam trong bài ““Giữa vòng vây trần gian” dệt bằng biểu
tượng và huyền thoại” nhận xét: “Giữa vòng vây trần gian của Nguyễn Danh Lam
không đem lại cho ta sự phản chiếu đời sống, có chăng, đó chỉ là sự phản chiếu cách
nghĩ của tác giả về đời sống, nó đan dệt bằng những biểu tượng, những huyền thoại,
nhưng cũng chính vì thế mà nó tạo ra sự ám ảnh và buộc ta phải nghĩ về đời sống
mà mình đang sống” (Hồi Nam, 2006). Tác giả viết: “Với tơi, cuốn tiểu thuyết Giữa
vịng vây trần gian của Nguyễn Danh Lam thuộc vào loại thứ hai, một cuốn sách
không đem lại cho ta sự phản chiếu đời sống, có chăng, đó chỉ là sự phản chiếu cách
nghĩ của tác giả về đời sống, nó đan dệt bằng những biểu tượng, những huyền thoại,
nhưng cũng chính vì thế mà nó tạo ra sự ám ảnh và buộc ta phải nghĩ về đời sống
mà mình đang sống” (Hồi Nam, 2006). Cùng có lời đánh giá về tiểu thuyết này, nhà
văn Hồ Anh Thái lại đưa ra ý kiến: “Đi hết một cuốn sách không dễ đọc, độc giả yêu
văn chương và cả nghĩ được đền bù cho sự kiên nhẫn của mình bằng một cuốn sách
đáng đọc... nghệ thuật tối giản đạt đến những nét phác họa, đến những nét vạc, nét
rạch, nét khắc – gọn, sắc, rành rành in dấu” (Nguyễn Danh Lam, 2005). Chúng tôi
thấy rằng, Giữa vòng vây trần gian của Nguyễn Danh Lam đón nhận hai luồng ý
kiến khen chê trái chiều nhau. Tuy nhiên, người đọc nhận ra ở đó những thể nghiệm
mới về nghệ thuật của tác giả trong việc đi vào khám phá sâu hơn những góc khuất
trong đời sống con người. Đây quả là một quyển tiểu thuyết “đáng đọc” mặc dù hơi
khó đọc vì những vấn đề q phức tạp và rối rắm.
Đến với tiểu thuyết Giữa dòng chảy lạc, Hoài Nam trong bài viết Viết văn,


8

việc không chỉ của nhà văn đã nhấn mạnh sự chuyển biến rất “khác” của Nguyễn
Danh Lam từ hai tiểu thuyết đầu Bến vơ thường và Giữa vịng vây trần gian đến tiểu
thuyết thứ ba Giữa dòng chảy lạc. Nếu như trong hai tiểu thuyết đầu tiên tác giả
“thách thức” người đọc với lối viết “tối mù”, đặc kín những biểu tượng và huyền

thoại khiến cho “người đọc dường như bị rơi vào một mê cung “tối mù” của chữ
nghĩa và những biểu tượng đan dệt từ ngôn ngữ, nhân vật chẳng bao giờ có danh
tính, khơng gian mơ hồ thì đến tiểu thuyết Giữa dịng chảy lạc, Nguyễn Danh Lam
dường như đơn giản hoá khi lấy bối cảnh và nhân vật từ cuộc sống đời thường cho
nên nó mang đến những tín hiệu tốt. Cuốn tiểu thuyết “đã trả người đọc lại với đời
thường bằng những chất liệu của đời thường, những câu chuyện của đời thường và
cách kể chuyện đời thường. Thường đến hết mức có thể. Thế giới nhân vật trong
Giữa dòng chảy lạc là thế giới của một thứ mẫu số chung tầm thường tạo thành xã
hội. Những con người ấy, nếu không gánh chịu số phận bi kịch thì cũng là những
cuộc đời thất bại theo một cách nào đấy” (Hoài Nam, 2012).
Cũng là Nguyễn Hoài Nam nhận xét về nghệ thuật kết cấu truyện mang đậm
nét của văn xuôi đương đại trong tập truyện ngắn Hợp đồng của quỷ: “Không cốt
truyện lớp lang chặt chẽ, không biến cố mang giá trị thắt nút mở nút, khơng nhân vật
được khắc họa diện mạo và tính cách hoàn chỉnh, tác giả dẫn người đọc theo chiều
dọc văn bản, tìm kiếm một cái gì đó, để rồi cuối cùng cái tìm được thấy dường như
chỉ là những điều hết sức vặt vãnh, thậm chí trống rỗng, trong tồn tại nhân sinh”
(Nguyễn Danh Lam, 2016).
Năm 2013, luận văn của thạc sỹ Trần Thị Thúy nghiên cứu về Đặc điểm tiểu
thuyết Nguyễn Danh Lam. Tác giả đã khái quát về nội dung và nghệ thuật trong tiểu
thuyết Nguyễn Danh Lam ở ba tác phẩm: Bến vơ thường,Giữa vịng vây trần gian,
Giữa dòng chảy lạc.Về phương diện nhân vật, người viết đã tập trung phân loại các
loại hìnhnhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam. Đó là những “lạc thể” của
cuộc đời, những con người thống khổ bươn bả với khát vọng làm người, khát vọng
hạnh phúc và những con người luẩn quẩn. Về phương diện nghệ thuật, tác giả tập
trung khai thác cốt truyện với kiểu mờ hóa cốt truyện và cốt truyện phân mảnh, kết
cấu tác phẩm với sự tham gia của các yếu tố kì ảo (hoặc ít nhiều chứa các yếu tố kì
ảo) và sự đa dạng giọng điệu (sắc lạnh, trung tính, trữ tình lãng mạn, suy tưtriết lý,


9


các cung độ của sự hài hước giễu nhại).
Tựu trung lại, mặc dù có sự khác biệt trong các ý kiến đánh giá nhưng các nhà
nghiên cứu đều thừa nhận Nguyễn Danh Lam là một cây bút có sức sáng tạo dồi dào
và viết rất khỏe. Các sáng tác của anh sẽ là miền đất hứa chờ đợi những công trình
nghiên cứu chuyên sâu từ độc giả cùng những nhà phê bình.
2.3. Những nghiên cứu về dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh trong sáng
tác của Nguyễn Danh Lam
Trước hết có thể khẳng định rằng, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một
cách toàn diện về chủ nghĩa hiện sinh trong sáng tác của Nguyễn Danh Lam. Người
đọc có thể gặp đây đó trên các báo hay các luận văn những bài giới thiệu, phê bình
nhận xét có thể được xem là những gợi mở đắt giá cho việc tiến hành nghiên cứu về
cảm quan hiện sinh trong sáng tác của nhà văn trẻ tài năng này.
Nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên trong bài viết “Bến vô thường” - thế giới
những người khơng mặt đã nhận xét về hành trình đơn độc đi tìm ý nghĩa cuộc sống
cũng như hạnh phúc của các nhân vật: “Những con người thống khổ vẫn bươn bả
trong khát vọng làm người, khát vọng hạnh phúc. Cái khát vọng ấy như những nốt
lặng nhiều dằn vặt trước áp lực và sự mâu thuẫn với hoàn cảnh. Trong cõi chật hẹp
nhân sinh, trong cuộc hành trình dài ngày kiếm tìm hạnh phúc, trong nỗi khát khao
làm người ấy, những nhân vật có cảm giác cứ lạc mất nhau. Mà ngăn cách, chẳng gì
khác, vẫn những ích kỷ, nhỏ nhen, miệt thị, mặc cảm, thù hằn?” (Nguyễn Vĩnh
Nguyên, 2005). Nhận xét trên tuy chỉ giới thiệu về nội dung tiểu thuyết Bến vơ
thường, khơng có ý bàn về cảm thức hiện sinh trong tác phẩm nhưng đây đó trong
các bài viết cũng đã bắt đầu điểm diện những gợi mở cho sự hiện diện của chủ nghĩa
hiện sinh trong sáng tác của Nguyễn Danh Lam dưới dạng ý kiến, nhận định.
Ở bài viết Sự đền bù cho một ý thức (viết lời tựa cho quyển tiểu thuyết Giữa

vòng vây trần gian), nhà văn Hồ Anh Thái đánh giá Giữa vòng vây trần gian là “một
cuốn sách đáng đọc” vì ở đó Nguyễn Danh Lam đã thể hiện những tìm tịi và có
những thành cơng nhất định để đem đến cho độc giả “một món ăn lạ”: “Cái hành

trình luẩn quẩn loanh quanh mà ta phải theo đi, theo đến sốt ruột, theo đến mệt mỏi
rã rời, rốt cục sẽ kết thúc ở một sự bừng ngộ. Sự bừng ngộ đi đến tận cùng của nó
cũng là cõi mê. Mỗi sinh linh là con kiến bò miệng chén. Thế gian kia là một cái làng


10

tưởng chừng chen chúc hỗn độn mà chỉ là chốn vắng. Vũ trụ kia chỉ là một cái hố
đen hư vơ. Một thiên tai qt qua là xóa sổ, sau cơn qt xóa có ai đặt câu hỏi cái gì
cịn lại? Các nhân vật đều không tên. Riêng nhân vật chính lại có tên. Tác giả chủ ý
đặt một dấu ngã đè lên cái tên nhân vật: Thữc. Tên vận vào người. Thữc là tỉnh thức
là giác ngộ. Nhưng lại có dấu ngã đè lên. Thữc. Tỉnh thức như vậy là vẫn chưa thốt
được cái tự ngã, vẫn cịn lâu lắm phải loay hoay trong chốn trần ai. Không gian
không xác định. Một dịng sơng, một bãi vắng, một làng nhỏ vắng lặng, một cái rẫy
cũng vắng. Người đâu? Không có người nhưng bao giờ cũng thường trực một nỗi
phấp phổng, rồi trở thành nỗi lo ngay ngáy, người sẽ trở về bất cứ lúc nào. Người đọc
cũng lây nỗi phất phổng, lây nỗi lo,thoát khỏi cuốn sách rồi, nỗi lo vẫn ở lại. Thời
gian cũng khơng xác định. Hình như là trước lúc sáng thế. Hình như là sau khi thế
gian tận diệt. Chuyện có thể xảy ra ở đây, cũng có thể là ở kia, ở nơi ấy nơi nọ. Bất
cứ một nơi nào trong cõi người” (Nguyễn Danh Lam, 2005).
Tác giả Việt Quỳnh trong bài viết Nhà văn Nguyễn Danh Lam và tiểu thuyết
Cuộc đời ngoài cửa: Nhặt nhạnh những mảnh đời bình dị đã giới thiệu về nhà văn
Nguyễn Danh Lam với các tiểu thuyết Giữa vịng vây trần gian, Giữa dịng chảy lạc
cũng có lời nhận xét về tiểu thuyết Giữa vòng vây trần gian cũng như sự thừa nhận
tài năng của nhà văn trẻ: “Đọc Giữa vòng vây trần gian của Nguyễn Danh Lam hồi
đó, ám ảnh nhiều nhất trong tâm trí tơi đến lúc này vẫn là sự lạc lõng cô đơn cùng
cực của con người giữa biển nhân sinh và bất trắc cuộc đời. Tiểu thuyết mang nặng
bao chiêm nghiệm về ý nghĩa tồn tại của kiếp sống ln bị vây kín trong vịng xốy
trần gian. Cách kể trong cuốn sách cũng lạ, cứ miên man theo tâm thức mà không
cần một bộ khung cốt dẫn dắt. Bảo tóm tắt lại truyện thì khơng thể, tác phẩm ám ảnh

người đọc bằng khơng gian tâm tưởng của tác giả qua từng con chữ. Mà thế là đủ
cho một văn tài” (Việt Quỳnh, 2014).
Các bài viết giúp độc giả nhận ra một thế giới mà ở đó con người ln chỉ có
một mình đối diện với nỗi cô đơn và sự lo âu truyền kiếp. Tất cả được thể hiện trong
kỹ thuật nghệ thuật tiểu thuyết đương đại đã làm nên thành công cho quyển tiểu
thuyết mặc dù đây vẫn có những ý kiến khen chê trái chiều nhau. Đây cũng là một
hướng mở cho việc nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh trong sáng tác của nhà văn bởi
chúng tôi bắt gặp trong tác phẩm những phạm trù mang dấu ấn hiện sinh về cái “phi


11

lí”, “cơ đơn”, “lo âu”.
Tác giả Bùi Cơng Thuấn trong bài viết Giữa dòng chảy lạc – giữa dòng hiện
sinh nhận xét: “Giữa dòng chảy lạc là câu chuyện của một gã tâm thần đơn độc với
tuổi già phía trước. Vợ mới cưới được ba tháng đã bỏ đi. Người bạn họa sĩ tâm giao
cũng chết đột ngột không rõ nguồn cơn. Người bạn thời sinh viên, sau tai nạn phải
sống thực vật cũng đã ra đi. Mấy lần đi xin việc rồi phải bỏ việc. Nhiều lần lên cơn
điên hiện sinh tưởng đã chia lìa cõi đời phù du này. Chỉ còn lại một con người đơn
độc, bất lực, vô vọng, không biết về đâu, không chốn nương thân giữa dịng chảy
cuộc đời” (Bùi Cơng Thuấn, 2012). Đi sâu vào nghệ thuật của tiểu thuyết, tác giả
nhận xét: “Ngòi bút Nguyễn Danh Lam miêu tả tuyệt hay chuyện tình của nhân vật
Anh, dựng những cảnh đối thoại chàng và nàng sinh động và trí tuệ đến khơng ngờ,
thâm nhập rất sâu vào tâm thức nhân vật để phát hiện những trạng thái hiện sinh mê
cuồng. Nguyễn Danh Lam cũng có những chi tiết miêu tả chân thật đến độ sững sờ.
Một giọng văn đôn hậu ấm áp và một cách viết hấp dẫn đến những dịng cuối cùng”
(Bùi Cơng Thuấn, 2012).
Theo nhà phê bình Nguyễn Hồi Nam: “Thế giới nhân vật trong Giữa dòng
chảy lạc của Nguyễn Danh Lam là một thế giới vô danh, thế giới của những bước lỡ,
bước chệch quỹ đạo thông thường, thế giới của những thân phận người bị bắn ra và

chìm xuống dưới cái mẫu số chung tầm thường tạo thành xã hội… Được thể hiện ở
mức cao nhất của sự nhạt nhòa hóa, sự vơ danh hóa, sự tầm thường hóa phải là nhân
vật anh – một phản nhân vật, một phản anh hùng đích thực…” (Nguyễn Danh Lam,
2010).
Về tiểu thuyết Cuộc đời ngoài cửa, cũng trong bài viết Nhà văn Nguyễn Danh
Lam và tiểu thuyết Cuộc đời ngoài cửa: Nhặt nhạnh những mảnh đời bình dị (đăng
trên thethaovanhoa.vn) Việt Quỳnh đã đặc biệt giới thiệu về cuốn tiểu thuyết Cuộc
đời ngoài cửa của Nguyễn Danh Lam. Với Cuộc đời ngoài cửa, người đọc có thể
cảm nhận được những nỗi cơ đơn từ tiền kiếp của con người: “Về hành trình của một
cựu giáo viên bỏ nghề chỉ có thể nhắm mắt ngủ khi vùi say trong men bia, để lại
đằng sau một gia đình tan nát, lang thang trên nẻo đường khám phá vùng miền cùng
cơ con gái lầm lũi, ít nói, ít muốn chia sẻ, niềm thích thú duy nhất là cái điện thoại để
tán gẫu với bạn (kể cả người bạn mà cơ bé chẳng ưa gì), lướt web hay chơi game”


12

(Việt Quỳnh, 2014) nhưng hãy cứ thản nhiên đón nhận mà tìm về bến vơ thường
trong tâm trí thì mọi thứ sẽ được bình n: “Thì cứ kệ dịng đời chảy, bởi con người
khi đã sinh ra luôn mang sự cô đơn từ tiền kiếp, nên cứ buông bỏ mặc kệ kể cả khi
trong lúc bão bùn vây khốn không biết neo đậu vào đâu, thì hãy cứ tìm bến vơ
thường trong tâm trí. Đừng để lạc mất nó. Mọi sự sẽ an ổn thôi” (Việt Quỳnh, 2014).
Bài viết Cuộc đời ngoài cửa: Cuốn tiểu thuyết đáng đọc và suy ngẫm của Lê
Hương nhận xét: “Nếu như ở hai cuốn tiểu thuyết đầu tay, bút pháp huyền thoại được
Nguyễn Danh Lam sử dụng như là công cụ nghệ thuật chủ đạo để đi vào khai thác
thế giới nhân vật, thì đến tiểu thuyết Giữa dòng chảy lạc và Cuộc đời ngoài cửa dấu
vết của chủ nghĩa hiện sinh được biểu hiện khá rõ nét” (Lê Hương, 2014). Ngoài ra
bài viết đã đánh giá về cái hay của cuốn tiểu thuyết đồng thời rút ra những ý nghĩa
mà cuốn tiểu thuyết đã mang đến cho độc giả: “Cuộc đời ngoài cửa là cuốn tiểu
thuyết đề cấp đến nhiều vấn đề nhức nhối, đáng quan tâm và lo ngại trong thời đại

hiện nay: bạo lực trong học đường; tác hại của game và internet đối với giới trẻ; sự
thiếu trách nhiệm của gia đình và nhà trường trong việc dạy bảo – quản lý con em;
mối đe dọa của tai nạn giao thơng; sự đổ vỡ của tình u trong hơn nhân... Tất cả
những vấn đề ấy được Nguyễn Danh Lam khắc họa một cách chân thực và thấu đáo
nhất” (Lê Hương, 2014).
Các tiểu thuyết của Nguyễn Danh Lam càng về sau đều được tác giả của các
bài viết nhìn thấy ở đó sự biểu hiện của chủ nghĩa hiện sinh. Tuy nhiên, nó chỉ dừng
lại ở mức độ nhận xét chung chung mà chưa có một cơng trình nào đi sâu vào khai
thác một cách toàn diện và bao quát những biểu hiện của cảm thức hiện sinh trong
toàn bộ sáng tác của nhà văn “mê chữ" này.
Bên cạnh đó, ở tập truyện ngắn Hợp đồng của quỷ, nhà văn Nguyễn Ngọc
Thuần cịn đề cập đến sự phi lý: “Mơ típ chủ đạo là những tình trạng phi lí trong đời
sống. Những địa danh mịt mờ, những con người không rõ tình thế, khơng rõ khát
vọng, họ đều mang trong mình một biến cố cá nhân nào đó và tức tốc lên đường. Gặp
gỡ, trải nghiệm hoặc biến đổi; nhưng sau những biến đổi đó lịng hồi nghi khơng
những khơng mất đi mà cịn bành trướng hơn, rơi vào tình trạng phi lí hơn. Song đó
cũng là những trải nghiệm chung nhất, ở bất cứ đâu về cách thức mà con người tồn
tại như một vật thể đính kèm với những phi lý trong đời sống hiện thực của tinh thần


13

vậy” (Nguyễn Danh Lam, 2016).
Sáng tác của Nguyễn Danh Lam cũng là đối tượng nghiên cứu của sinh viên,
học viên cao học trong các trường đại học. Năm 2014, luận văn thạc sỹ của Mai Thị
Bình nghiên cứu về Các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn xuôi Việt Nam đương
đại đã phát hiện ra kiểu nhân vật cô đơn từ bản thể trong sáng tác của Nguyễn Danh
Lam. Năm 2016, luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Ngọc Thanh nghiên cứu về Dấu
ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam và Vũ Đình Giang đã đề cập đến
kiểu con người nổi loạn trong tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam.

Từ những điều đã trình bày, chúng tơi nhận thấy rằng, dấu ấn của chủ nghĩa
hiện sinh thể hiện khá rõ nét trong các sáng tác của Nguyễn Danh Lam. Đồng thời
qua khảo sát chúng tôi cũng nhận thấy vấn đề đó chưa được sự quan tâm nghiên cứu
đúng mực. Người đọc chỉ bắt gặp đó đây các bài giới thiệu, phê bình có tính chất
điểm diện trên báo Sài Gịn tiếp thị, Thể thao và văn hóa, Tạp chí... Cịn các luận văn
trước đó cũng chưa đề cập tới vấn đề này mặc dù cũng có một vài nội dung liên quan
đến phạm trù của chủ nghĩa hiện sinh như kiểu con người “cô đơn”, “nổi loạn”...
Mặc khác, do các điều kiện khách quan, các luận văn cũng chưa khảo sát đầy đủ các
sáng tác của tác giả ở hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Chưa có một cơng trình
nghiên cứu hệ thống về “Dấu ấn hiện sinh trong truyện ngắn và tiểu thuyết Nguyễn
Danh Lam”. Vì những lí do trên, người viết nhận thấy cần triển khai vấn đề thành
một cơng trình nghiên cứu độc lập nhằm khẳng định được tính thời sự, khoa học và
cấp thiết theo nhu cầu của thời đại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Như tên đề tài đã xác định rõ, đối tượng nghiên cứu của luận văn là các
phương diện mang dấu ấn hiện sinh trong truyện ngắn và tiểu thuyết Nguyễn Danh
Lam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là dấu ấn hiện sinh trong truyện ngắn và tiểu
thuyết Nguyễn Danh Lam nhìn từ phương diện nội dung và nghệ thuật.
3.3. Phạm vi tư liệu khảo sát
Phục vụ cho việc tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát


14

dấu ấn hiện sinh thể hiện trong truyện ngắn và tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam, cụ thể
qua các tác phẩm sau:

-Truyện ngắn: Mưa tháng mười một, Hợp đồng của quỷ.
-Tiểu thuyết: Bến vơ thường, Giữa vịng vây trần gian, Giữa dịng chảy lạc,
Cuộc đời ngồi cửa.
4. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở tiếp cận, phân tích sáu tác phẩm của tác giả Nguyễn Danh Lam
nhằm làm rõ dấu ấn hiện sinh trong sáng tác của nhà văn, chúng tôi sử dụng các
phương pháp sau:
4.1. Phương pháp cấu trúc, hệ thống: chúng tôi đặt các sáng tác của Nguyễn
Danh Lam như một chỉnh thể thống nhất trong diện mạo chung của văn xi Việt
Nam thời kì đổi mới. Đồng thời, khi tiếp cận từng tác phẩm cụ thể, chúng tôi cũng
quan tâm đến tính chỉnh thể trong cấu trúc của nó.
Phương pháp cấu trúc hệ thống cũng hỗ trợ đắc lực cho chúng tơi trong việc
triển khai các bình diện nghiên cứu của đề tài một cách logic và chặt chẽ.
4.2. Phương pháp lịch sử: được vận dụng để khảo sát sự hình thành của triết
học hiện sinh cũng như những biểu hiện cụ thể của trào lưu triết học này trên bình
diện văn hóa, tư tưởng và cuối cùng là trong văn học.
4.3. Phương pháp thống kê, phân loại: hỗ trợ cho việc hình thành các luận
điểm chính của luận văn, giúp xác định tần số lặp lại của các hình tượng, chi tiết
nghệ thuật, các motif hiện sinh trong từng tác phẩm cụ thể.
5. Đóng góp của luận văn

Luận văn khi hồn thành, sẽ có những đóng góp nhất định trên các phương
diện sau:
Thứ nhất, luận văn là công trình khoa học đầu tiên tìm hiểu một cách có hệ
thống dấu ấn chủ nghĩa hiện sinh trong sáng tác của Nguyễn Danh Lam từ phương
diện nội dung và nghệ thuật. Qua đó, khẳng định đóng góp độc đáo của nhà văn vào
dòng chảy chung của khuynh hướng hiện sinh trong văn xuôi Việt Nam đương đại.
Thứ hai, qua việc nghiên cứu dấu ấn chủ nghĩa hiện sinh biểu hiện trong mảng
sáng tác Nguyễn Danh Lam, người thực hiện đề tài mong muốn đem đến cho người

đọc một cái nhìn mới về tác giả.


15

Thứ ba, cơng trình này có thể dùng như một tài liệu tham khảo hữu ích, dành
cho những người muốn nghiên cứu, tìm hiểu thêm về nhà văn Nguyễn Danh Lam.
6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung của luận văn bao
gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát về chủ nghĩa hiện sinh và nhà văn Nguyễn Danh Lam
Với việc dẫn ra những phạm trù lí thuyết cơ bản nhất, chương này có ý nghĩa
như một tiền đề lí thuyết - lí luận cho đề tài. Chủ nghĩa hiện sinh được soi chiếu từ
góc nhìn cơ bản đến góc nhìn kết hợp, chuyển hóa. Đây là cơ sở xác tín để đề tài
hướng tới định vị được sự tiếp biến chủ nghĩa hiện sinh trong văn xuôi Việt Nam sau
1986.
Cụ thể, trong phần “Giới thuyết về chủ nghĩa hiện sinh”, chúng tôi sẽ triển
khai các ý sau: Khái niệm chủ nghĩa hiện sinh, Điều kiện ra đời của chủ nghĩa hiện
sinh, Những tư tưởng chính của chủ nghĩa hiện sinh, Sự biểu hiện của khuynh hướng
hiện sinh trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ sau Đổi mới (Các tiền đề cho sự trở lại
của khuynh hướng hiện sinh trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ sau Đổi mới, Những
biểu hiện của khuynh hướng hiện sinh trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ sau Đổi
mới).
Trong phần “Nhà văn Nguyễn Danh Lam và những sáng tác mang dấu ấn
hiện sinh”, chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu: Cuộc đời và tác phẩm, Điều kiện tiếp biến
chủ nghĩa hiện sinh trong sáng tác của Nguyễn Danh Lam.
Chương 2: Dấu ấn hiện sinh trong truyện ngắn và tiểu thuyết Nguyễn Danh
Lam nhìn từ cảm quan về hiện thực, con người.
Chương này hướng trọng tâm vào việc minh giải các biểu hiện cơ bản trong

cảm quan hiện thực và con người mang dấu ấn hiện sinh qua sáu tác phẩm Nguyễn
Danh Lam. Đó là hiện thực mang màu sắc phi lí, kì ảo, hiện thực tiềm ẩn nhiều bất
trắc. Các dạng thức cảm quan hiện thực này chính là mơi trường nghiệm sinh cho
con người. Đó là cảm quan về con người mang phẩm tính hiện sinh phổ biến trên cơ
sở lí thuyết đã dẫn ở chương trước: kiểu con người cô đơn - bản thể, cô đơn – lạc
loài; kiểu con người lo âu về cuộc sống, về cái chết, kiểu con người nổi loạn trong
suy nghĩ, hành động, kiểu con người tha hóa trong suy nghĩ,trong hành động.


16

Chương 3: Dấu ấn chủ nghĩa hiện sinh trong sáng tác Nguyễn Danh Lam nhìn
từ phương thức thể hiện.
Thực chất, cảm quan hiện sinh có ảnh hưởng đến mọi mặt nghệ thuật tiểu
thuyết. Chương này giải quyết các vấn đề về nghệ thuật thể hiện như: Cốt truyện
phân mảnh, Kết cấu mở; Giọng điệu triết lí, vơ âm sắc; Các motif hiện sinh như
motif hành trình, motif cuộc đời phi lí.
Xét trong chỉnh thể cấu trúc, Chương 2 và Chương 3 có mối quan hệ chặt chẽ
theo hướng bổ trợ cho nhau, góp phần thể hiện đóng góp mới của luận văn.


17

Chương 1.
KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN SINH
VÀ NHÀ VĂN NGUYỄN DANH LAM
Trong chương này, người nghiên cứu sẽ đề cập đến lý thuyết của chủ nghĩa
hiện sinh, những tiền đề cho sự trở lại cũng như những biểu hiện của khuynh hướng
hiện sinh trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ sau đổi mới và đôi nét về Nguyễn Danh
Lam cùng với những điều kiện giúp nhà văn tiếp biến chủ nghĩa hiện sinh trong sáng

tác của mình. Đây là cơ sở cho việc phân tích những dấu ấn hiện sinh trong truyện
ngắn và tiểu thuyết của nhà văn ở các chương tiếp theo.
1.1. Giới thuyết về chủ nghĩa hiện sinh
1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa hiện sinh
Thuật ngữ “chủ nghĩa hiện sinh” (tiếng Anh là Existentialism, tiếng Pháp là
Existentialisme, tiếng Đức là Dasein) xuất phát từ tiếng Latinh “existentia” - có
nghĩa là “tồn tại”. Cho nên “chủ nghĩa hiện sinh” còn được gọi là Thuyết Sinh tồn,
Thuyết Hiện sinh, Triết Hiện sinh. Nó là đại diện chính của trào lưu tư tưởng nhân
bản chủ nghĩa trong triết học phương Tây hiện đại. Chủ nghĩa hiện sinh xuất hiện
đầu tiên ở Đức vào cuối những năm 20-30 của thế kỷ XX với những tên tuổi tiêu
biểu như M. Heidegger, K. Jaspers. Sau đó, triết thuyết này được J.P Sartre, A.
Camus, G. Marcel... đưa vào Pháp và nhanh chóng lan rộng ra khắp thế giới.Theo
các nhà nghiên cứu, sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh đã phá vỡ bầu khơng khí sinh
hoạt trầm buồn của châu Âu những năm đầu thế kỷ XX. “Triết hiện sinh đã xuất hiện
rầm rộ, gần như một tiếng sấm vang động cả đất trời, lay động xã hội Tây phương
một cách mạnh mẽ như chưa từng thấy trong lịch sử” (Trần Thái Đỉnh, 2015).
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “chủ nghĩa hiện sinh” là “một trào lưu văn
học xuất hiện ở châu Âu, trước hết là ở Pháp, vào những năm trước và sau Chiến
tranh thế giới thứ hai và tiếp đó, lan rộng nhanh chóng sang một số nước trên thế
giới. Đây là một trào lưu khá rộng lớn và phức tạp. Ngay trong tư tưởng triết học của
họ cũng khơng hồn tồn đồng nhất. Có người hữu thần, có người vơ thần, song họ


18

giống nhau ở tư tưởng bi quan sâu sắc đối với con người và cuộc sống. Các nhà tư
tưởng chủ nghĩa hiện sinh cho rằng trong thế giới ngày nay mọi giá trị tinh thần đang
mất hết ý nghĩa mà khơng thể bù đắp lại được. Điều đó sẽ dẫn đến một thảm kịch
truyền kiếp “thân phận con người” mà nhà triết học Đan Mạch Kierkegaard từ thế kỷ
XIX, đã có nói đến trong các thuyết về tội lỗi của con người ở một “thời đại mất

Chúa” (thực chất là sự quan niệm về sự mất ý nghĩa của cuộc sống). Theo họ, con
người đang bị bỏ rơi trong nỗi cô đơn giữa cái hiện hữu thù nghịch, cho nên cuộc đời
chỉ là một sự vô nghĩa, “sự vô nghĩa sinh ra từ sự đối chiếu giữa lời kêu gọi của con
người và sự im lặng của cuộc đời” (A. Camus). Để khắc phục tình trạng ấy, xuất phát
từ một quan điểm duy tâm về bản chất con người, trong mệnh đề triết học khá tiêu
biểu của họ “cái hiện sinh có trước bản chất”, các nhà hiện sinh chủ nghĩa kêu gọi
con người quay về với cá nhân của mình, “dựa vào cái mình có để nâng cao mình
lên”, để “tự do sáng tạo mình bằng mỗi hành động của mình, tự do mang đến sự sinh
tồn của mình một ý nghĩa và để trở thành cái mà trước đây mình khơng phải như thế”
(J-P Sartre )” (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi,2007). “Ở chủ nghĩa hiện
sinh, triết học được khảo sát như một lĩnh vực nhận thức gần với sáng tác nghệ thuật
và khác với khoa học. Theo quan điểm của chủ nghĩa hiện sinh: nhận thức duy lý là
bất cập đối với hiện sinh (existentia) của con người; nhưng hiện sinh lại có thể được
khám phá bằng sự trải nghiệm trực tiếp; bởi vậy có thể miêu tả nó gần với cung cách
miêu tả nghệ thuật. (...) Trung tâm chú ý của các nhà hiện sinh là vấn đề cá nhân và
các quan hệ của nó với thế giới, với những người khác và với chúa trời. Giọng điệu
chung thể hiện tâm trạng bi quan, bi đát” (Lại Nguyên Ân, 2017).
Trong cuốn sách Những chủ đề triết học hiện sinh, tác giả E. Mounier cho
rằng: “Nói một cách khái qt thì trào lưu tư tưởng này (triết học hiện sinh) là một
phản ứng của con người, chống lại sự thái quá của triết thuyết duy tâm và triết lý về
vạn vật. Trào lưu đó khơng lấy cuộc sống nói chung, nhưng lấy cuộc sống của con
người nói riêng là vấn đề đầu tiên của triết học” ( E. Mounier, 1970).
Từ những khái niệm trên ta có thể hiểu, chủ nghĩa hiện sinh là từ dùng để nói
về nghiên cứu của một nhóm các triết gia cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX như
Kierkegaard, Nietzsche, Jaspers, Heidegger, J-P Sartre, Marcel, Camus...-những
người mà tuy khác nhau về quan niệm nhưng đều có chung niềm tin rằng tư duy triết


19


học xuất phát từ chủ thể con người. Chủ nghĩa hiện sinh là sự phản ứng lại, đối lập
lại chủ nghĩa duy lý mà xuất phát điểm của cá nhân được đặc tả bởi cái từng được
gọi là "thái độ hiện sinh" hay một tình trạng mất định hướng và bối rối khi đứng
trước một thế giới có vẻ như vô nghĩa và phi lý. Chủ nghĩa hiện sinh đã phát triển
mạnh mẽ ở châu Âu trong những năm 1940 – 1960 của thế kỷ XX. Từ cuối những
năm 1960 đầu những năm 1970, chủ nghĩa hiện sinh mặc dù đi vào suy thối nhưng
tư tưởng của nó vẫn tiếp tục ảnh hưởngvà thấm sâu vào lòng thời đại ở phương thức
tư duy và cách nhìn thấm đẫm tinh thần nhân văn về bản thể cũng như sự hiện tồn
của con người.
1.1.2. Điều kiện ra đời của chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh là một trường phái triết học lớn trong trào lưu chủ nghĩa
nhân bản phi duy lý ở phương Tây thế kỷ XX. Ngay từ khi ra đời, những tư tưởng
của nó khơng chỉ phát triển mạnh mẽ ở châu Âu mà cịn nhanh chóng lan tỏa và gây
ảnh hưởng sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới. Cũng như các trào lưu khác, chủ
nghĩa hiện sinh được hình thành dựa trên các điều kiện cơ bản như: lịch sử xã hội,
nhận thức và tư tưởng.
Xét về mặt lịch sử xã hội, chủ nghĩa hiện sinh ra đời là hệ quả tất yếu của các
cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc mà cụ thể là Thế chiến thứ I và Thế chiến thứ II.
Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra ở Đức. Kết thúc bốn năm máu chảy thịt,
trước bối cảnh một nước Đức thất trận và bị tàn phá nặng nề, tinh thần người dân
dường như rơi vào ngõ cụt bởi họ không cịn tìm thấy niềm tin, sự lạc quan, hi vọng
mà thay vào đó đó là những hồi nghi, ưu tư, lo lắng. Cho nên con người tìm đến chủ
nghĩa hiện sinh như tìm đến một chiếc phao cứu sinh để xoa dịu nỗi đau tinh thần và
thích ứng dần với những bi kịch mà họ đang gánh chịu. Như vậy, sau chiến tranh thế
giới lần thứ nhất, chủ nghĩa hiện sinh chính thức hình thành ở Đức. Tuy nhiên vết
thương chiến tranh một lần nữa chảy máu và hành hạ con người châu Âu bởi họ lại
phải đối mặtvới những ngày tháng khủng khiếp khi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai
tiếp tục nổ ra ở Pháp. Sau cuộc chiến, một châu Âu điêu tàn, đổ nát hiện ra trước mắt
họ. Cùng với đó là những đổ vỡ khơng gì cứu vãn nổi của hàng loạt giá trị. Tất cả
chúng khiến con người kinh hoàng, đau đớn và hoàn toàn rơi vào tuyệt vọng. Đến

lúc này, làn sóng của chủ nghĩa hiện sinh một lần nữa trỗi lên mạnh mẽ ở Pháp.


×