Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Hủy bản án sơ thẩm hình sự từ thực tiễn tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.65 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM ANH QUÂN

HỦY BẢN ÁN SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỊA
ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM ANH QUÂN

HỦY BẢN ÁN SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỊA ÁN
NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN TẤT VIỄN

Hà Nội, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số


liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa được cơng bố trong
bất cứ cơng trình nào.
Người cam đoan

Phạm Anh Quân


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………...

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỦY
BẢN ÁN SƠ THẨM HÌNH SỰ……………………...………………………

7

Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của hủy bản án sơ thẩm hình sự……..…

7

1.1.

1.2. Các căn cứ hủy bản án sơ thẩm hình sự………….…………………....

11

1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hủy bản án sơ thẩm trong tố


tụng hình sự…………………………………………………………………..

18

Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH VỀ HỦY BẢN
ÁN SƠ THẨM HÌNH SỰ CỦA TỊA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH........................................................................................................ 32
2.1.

Tình hình hủy bản án sơ thẩm hình sự tại Tịa án nhân dân cấp cao

Thành phố Hồ Chí Minh………………………………………………………

32

2.2. Thực tiễn thi hành các quy định về căn cứ hủy bản án sơ thẩm tại Tòa
án nhân dân cấp cao Thành phố Hồ Chí Minh............................................................................ 35
Chương 3: NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG SAI SÓT, VI PHẠM
TRONG HỦY BẢN ÁN SƠ THẨM VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC

53

3.1. Nguyên nhân của những sai sót, vi phạm trong hủy bản án sơ thẩm
hình sự……………………………………………………………………….

53

3.2. Một số kiến nghị................................................................................................................................ 59
KẾT LUẬN.................................................................................................................................................. 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

ĐTV

Điều tra viên

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên

TAND

Tịa án nhân dân


TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TTHS

Tố tụng hình sự

VAHS

Vụ án hình sự

VKS

Viện kiểm sát


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đấu tranh phịng, chống tội phạm không chỉ dừng lại ở việc ban hành Bộ
luật Hình sự (BLHS) quy định hành vi nào là hành vi phạm tội, hình phạt và
trách nhiệm hình sự (TNHS) kèm theo mà còn thể hiện ở việc đưa tội phạm ra
xét xử theo các thủ tục do pháp luật quy định. Với tinh thần đó, các cơ quan tố
tụng nói chung và Tịa án các cấp nói riêng đã không ngừng nỗ lực, phấn đấu
trong công tác xét xử, qua đó đạt được những kết quả đáng ghi nhận, thể hiện

qua chất lượng của lĩnh vực điều tra, truy tố, xét xử với nhiều chuyển biến
tích cực; tình trạng bắt giữ người trái pháp luật, truy tố oan, sai được hạn chế
đến mức thấp nhất, công tác xét xử được thận trọng, hoạt động tranh tụng
được đề cao, tính dân chủ, cơng khai, khách quan của phiên tòa ngày càng
được phát huy.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được hoạt động xét xử các vụ án
hình sự vẫn chưa đạt được yêu cầu, mục tiêu đề ra vì trong thực tế nhiều bản
án của tịa án cấp dưới bị Tòa án cấp trên tuyên hủy, sửa theo thủ tục phúc
thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vẫn còn xảy ra. Khi Tòa án cấp trên quyết
định hủy bản án hay sửa bản án hình sự của Tịa án cấp dưới ít nhiều có ảnh
hưởng đến q trình giải quyết vụ án, tính chất mức độ hành vi vi phạm, cũng
như việc xác định lỗi của người bị kết tội. Chính vì vậy, hủy bản án có ý nghĩa
hết sức quan trọng. Nếu như việc hủy bản án của Tịa án cấp dưới chính là
việc Tịa án cấp trên không thể khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong q
trình áp dụng pháp luật của Tịa án cấp dưới hoặc do có những tình tiết mới
phát sinh liên quan đến việc giải quyết vụ án mà ở giai đoạn xét xử sơ thẩm
khơng có tình tiết đó thì việc hủy bản án (trừ trường hợp hủy và đình chỉ vụ
án) chủ yếu là nhằm tạo điều kiện để các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp

1


dưới khắc phục những vi phạm pháp luật nghiêm trọng để tiến hành điều tra,
xét xử lại hoặc chỉ để xét xử lại vụ án một cách khách quan và đúng đắn.
Nếu đánh giá sửa bản án hay hủy bản án hình sự ở góc độ liên hệ cùng
với hiệu lực thi hành của bản án thì bản án bị sửa có hiệu lực ngay cho dù
quyết định sửa đúng hay sai nhưng đối với bản án bị hủy thì phải quay trở lại
giai đoạn tố tụng trước đó, có thể phải điều tra lại hoặc xét xử lại. Do đó, việc
để nhiều vụ án phải xử lý lại, làm kéo dài thời hạn tố tụng không chỉ gây thiệt
hại lớn cho ngân sách của nhà nước, xã hội, mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi

của người tham gia tố tụng và nhất là làm mất lòng tin của nhân dân vào cơng
lý. Ngồi ra, mặc dù vấn đề hủy bản án hình sự là rất quan trọng nhưng quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 và một số văn bản
hướng dẫn thi hành Bộ luật đối với vấn đề này vẫn chưa thật sự chặt chẽ, chưa
đồng bộ, nhất là quy định hủy bản án trong một số trường hợp cụ thể nên đã
tạo ra khơng ít khó khăn, lúng túng cho Tịa án cấp trên khi áp dụng và trong
một số ít trường hợp là kẽ hở gây ra nhũng nhiễu, tiêu cực.
Chính vì vậy, việc tìm ra giải pháp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất có
thể các bản án hình sự bị hủy là yêu cầu đặt ra cấp thiết, có ý nghĩa rất quan
trọng, không chỉ giúp làm sáng tỏ về mặt khoa học mà còn là cơ sở để đánh
giá tính thực tiễn của pháp luật tố tụng hình sự (TTHS), hiệu quả về mặt xã
hội trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm. Tất cả những vấn đề nêu
trên là lý do mà học viên chọn đề tài “Hủy bản án sơ thẩm hình sự từ thực
tiễn Tịa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thực tế hiện nay, hủy bản án là một vấn đề được các cấp các ngành
hết sức quan tâm, cũng như những cán bộ làm cơng tác khoa học, trong đó
cũng có một số cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này như sau:

2


-

Về luận văn: Huỳnh Lập Thành (2001) Giai đoạn xét xử phúc thẩm

trong tố tụng hình sự Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn
thạc sỹ, Đại học Luật, Hà Nội; Nguyễn Đức Mai (2004), Luận án tiến sỹ Luật
học, Phúc thẩm trong tố tụng hình sự, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn

Quốc gia (nay là Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam); Nguyễn Văn
Huyên (2002) Thẩm quyền của Tòa án các cấp theo luật Tố tụng hình sự Việt
Nam, Luận án tiến sỹ, Đại học Luật, Hà Nội; Phan Thị Thanh Mai (2003)
Giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
-

Về bài báo khoa học: Đinh Văn Quế (2004) “Những trường hợp Hội

đồng giám đốc thẩm hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật
theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2003”, Tạp chí Tịa án, số 20; Đinh Văn Quế
(2004) “Những trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm”, Tạp
chí Tịa án số 17; Đỗ Đại Hữu (2006) “Xác định Tòa án xét xử lại, khi Tòa án
tối cao hủy bản án, quyết định của Tịa cấp dưới”, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 72; Phạm Thanh Hải (2007) “Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy bản án
sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án”, Tạp chí Tịa án, số 4; Vũ Gia Lâm (2012)
“Về quyền hủy bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại của Tịa
án cấp phúc thẩm”, Tạp chí Luật học, số 11; Đinh Văn Quế (2013) “Tòa án
cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại theo hướng có tội – những
vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Tịa án, số 8; Hồng Thị Liên (2005)
“Xử lý thế nào trong trường hợp tòa án cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm để
điều tra lại theo hướng nặng hơn đối với bị cáo”, Tạp chí dân chủ và Pháp
luật, số 5.
Tuy nhiên các tài liệu, bài báo khoa học, luận văn trên do phạm vi
nghiên cứu nên chỉ phân tích, bình luận, giải thích một số vấn đề về hủy bản
án mà chưa đi sâu phân tích làm rõ quá trình thực hiện hủy bản án sơ thẩm

3



như thế nào, cũng chưa có tài liệu nào đề cập đến hủy bản án sơ thẩm hình sự
từ thực tiễn Tòa án nhân dân (TAND) cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
(TPHCM). Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài là cần thiết và phù hợp với yêu cầu
nâng cao chất lượng xét xử án hình sự trong cải cách tư pháp hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hủy bản
án sơ thẩm, đánh giá việc hủy bản án sơ thẩm từ thực tiễn xét xử của Tòa án
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó đưa ra một số
kiến nghị nhằm hạn chế những sai sót của tịa án nhân dân cấp dưới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung vào các nhiệm vụ sau:
-

Làm rõ một số vấn đề lý luận về hủy bản án, mục đích, ý nghĩa của hủy

bản án; các nguyên tắc áp dụng đối với hủy bản án sơ thẩm hình sự.
-

Phân tích đánh giá từng trường hợp cụ thể về thẩm quyền hủy bản án sơ

thẩm hình sự. Nêu kết quả và những hạn chế trong hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử của tòa án nhân dân cấp dưới thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
-

Nêu một số kiến nghị nhằm hạn chế những sai sót của TAND cấp dưới

dẫn đến việc TAND cấp cao hủy bản án, bảo đảm tốt hơn chất lượng xét xử
của các tòa án cấp tỉnh và cấp huyện.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định của
pháp luật hình sự, tố tụng hình sự hiện hành về hủy bản án và thực tiễn áp
dụng ở Tòa án nhân dân cấp cao tại TPHCM.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

4


Về thời gian: Từ năm 2017 đến năm 2019.
Về không gian: Vấn đề hủy bản án sơ thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân
cấp cao tại TPHCM trên địa bàn 23 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp cao tại TPHCM.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp quyền. Các kiến nghị luận văn
đưa ra được nghiên cứu dựa trên các quan điểm định hướng chỉ đạo của Đảng
và nhà nước ta về cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai
đoạn hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình
sự như: phân tích, đối chiếu, tổng hợp. Luận văn tiến hành thu thập số liệu
thống kê về thực tiễn xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của TAND
cấp cao TPHCM trong các năm 2017, 2018, 2019.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ khái niệm, mục đích, ý nghĩa, các
nguyên tắc áp dụng đối với hủy bản án sơ thẩm hình sự. Từ đó làm rõ các căn

cứ, trình tự, thẩm quyền và thủ tục hủy bản án sơ thẩm hình sự của TAND cấp
cao TPHCM.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Qua việc phân tích các quy định của pháp luật TTHS, chỉ ra những bất
cập, tồn tại góp phần giải quyết những khó khăn vướng mắc phát sinh trong
thực tiễn công tác. Từ đó giúp các cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra nguyên

5


nhân để xảy ra tình trạng hủy bản án sơ thẩm hình sự và đưa ra kiến nghị
nhằm khắc phục tình trạng này trong thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Nội dung chính của luận văn được sắp xếp gồm các chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về hủy bản án sơ thẩm
hình sự.
Chương 2. Thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về hủy bản án sơ
thẩm hình sự của Tịa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3. Nguyên nhân của những sai sót, vi phạm trong hủy bản án sơ
thẩm và các giải pháp khắc phục.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỦY BẢN ÁN SƠ
THẨM HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của hủy bản án sơ thẩm hình sự
1.1.1. Khái niệm hủy bản án sơ thẩm hình sự
Trong từ điển Tiếng Việt có nêu khái niệm về “hủy” đó là làm cho khơng

cịn tồn tại hoặc khơng cịn có giá trị nữa. Tuy nhiên, với cách tiếp cận này
còn rất chung chung, chưa xác định được các căn cứ để thực hiện việc hủy
bản án, chưa quy định rõ phạm vi áp dụng cũng như chủ thể nào sẽ trực tiếp
được giao quyền hủy bản án?
Vì vậy, theo pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành “Hủy bản án” là việc
Tồ án cấp trên có thẩm quyển ra quyết định bằng văn bản nhằm chấm dứt
hiệu lực thi hành đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án cấp
dưới khi phát hiện bản án, quyết định đó có sai sót. Qua đó, có thể đưa ra khái
niệm hủy bản án trong TTHS như sau: “Hủy bản án là một trong những
quyền của Tòa án cấp trên đối với bản án quyết định của Tòa án cấp dưới khi
có kháng cáo, kháng nghị. Tịa án cấp trên xét thấy có căn cứ theo quy định
của pháp luật nhằm hủy bỏ một phần hay toàn bộ nội dung trong quyết định
của Tòa án cấp dưới để tiến hành điều tra, xét xử lại những nội dung trong vụ
án đó hoặc quyết định đình chỉ vụ án”.
Từ khái niệm trên, có thể đưa ra một số đặc điểm của hủy bản án trong
TTHS như sau:
Thứ nhất, Tòa án cấp trên có quyền hủy bản án của Tịa án cấp dưới để
xét xử lại khi bản án đó bị kháng cáo, kháng nghị.
Thủ tục phúc thẩm được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc hai cấp xét xử,
nội dung của nguyên tắc này là bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị phải

7


được xét xử lại ở cấp phúc thẩm, còn nếu không bị kháng cáo, kháng nghị
trong thời hạn pháp luật quy định thì có hiệu lực thi hành.
Thứ hai, quyền hủy bản án được thực hiện khi có các căn cứ theo luật
định, tức là phải tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc pháp chế trong tố tụng.
Như vậy, trong trường hợp vụ án đó có đầy đủ các căn cứ theo luật quy
định thì cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện quyền hủy bản án, tức phải

tuân thủ các quy định mà pháp luật tố tụng hình sự đã đặt ra, khơng được làm
sai hoặc cố tình vi phạm những quy định đó khi áp dụng.
1.1.2. Mục đích
Thứ nhất, việc hủy bản án trong TTHS nhằm mục đích giúp cho các cơ
quan tiến hành tố tụng cấp dưới trong quá trình giải quyết vụ án phát hiện ra
những sai phạm, thiếu sót của mình qua đó có cách thức khắc phục, tạo điều
kiện để đưa vụ án ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật. Đây được xem
là yếu tố quan trọng giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xác định được những
bản án có vi phạm, tính chất mức độ như thế nào, làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến các quyền lợi cơ bản của công dân ra sao để quyết định có tiếp tục
thi hành bản án hay hoãn thi hành bản án.
Thứ hai, Đối với trường hợp bị cáo, bị hại, đại diện pháp luật hay Viện
Kiểm sát (VKS) có kháng cáo, kháng nghị yêu cầu hủy bản án, sửa bản án
hay giữ nguyên bản án. Trong trường hợp này thì tịa án mới quyết định thủ
tục xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm để đảm bảo các quyền, lợi
ích hợp pháp của bị cáo, bị hại, đại diện pháp luật … cũng như nhằm xác định
các tình tiết cịn chưa đầy đủ trong vụ án, đảm bảo quá trình giải quyết vụ án
được đầy đủ, đúng đắn, khách quan và cơng bằng.
Thứ ba, Tịa án là cơ quan nhân danh Nhà nước để thực thi pháp luật, vì
vậy đây được xem là chủ thể quan trọng góp phần làm sáng tỏ vụ án, chứng
minh được các tình tiết trong vụ án đó, ai là người có hành vi vi phạm, tính

8


chất, mức độ thiệt hại cũng như hậu quả xảy ra từ những hành vi đó như thế
nào và tất nhiên hình phạt đưa ra phải tương xứng với hành vi vi phạm đó mà
pháp luật quy định. Như vậy rõ ràng Tòa án phải xác định được những kháng
cáo, kháng nghị đó có căn cứ và hợp pháp hay khơng để đưa ra quyết định có
hủy bản án theo đúng thẩm quyền nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ án,

đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội danh, đúng quy định của pháp luật.
Đồng thời, qua đó đảm bảo tính răn đe, giáo dục phịng ngừa chung trong xã
hội; tạo uy tín lịng tin của người dân vào các cơ quan thi hành pháp luật, nhất
là tòa án.
Như vậy, mục đích của hủy bản án chính là để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân, tổ chức; đồng thời phát hiện, xử lý kịp thời các vi
phạm không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, để bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, các lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân, của tổ chức.
1.1.3. Ý nghĩa
Hủy bản án, quyết định của Tòa án là một biện pháp quan trọng góp
phần hạn chế tình trạng oan, sai đối với các bản án, quyết định của Tịa án;
nhằm đảm bảo tính đúng đắn trong thực tiễn áp dụng pháp luật, phù hợp với
định hướng cải cách tư pháp ở nước ta và xu thế phát triển chung của thời đại
trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, hủy bản án có ý nghĩa hết sức quan trọng
trên các mặt sau:
-

Về mặt xã hội: Nếu như trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử của vụ

án có những sai sót thì việc hủy bản án sẽ góp phần khẳng định tính khách
quan, dân chủ của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như quyền lợi của
người tham gia tố tụng, trong việc chứng minh tính cơng bằng được xã hội
thừa nhận. Đồng thời qua đó góp phần làm sáng tỏ những vấn đề còn bất cập,
những tình tiết chưa rõ ràng của vụ án, đảm bảo sự tin tưởng của người dân

9


nói chung và những người đang trong q trình áp dụng các biện pháp nhằm

phục vụ quá trình điều tra xử lý án nói riêng an tâm vào chính sách đúng đắn
của Đảng, Nhà nước và đảm bảo tính cơng bằng về mặt xã hội được nêu cao.
Việc hủy bản án cũng góp phần khẳng định vai trị và đảm bảo uy tín của các
cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tịa án nói riêng, tránh để xảy ra tình
trạng oan sai hay bỏ lọt tội phạm.
-

Về mặt pháp lý: Việc hủy bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là căn cứ, cơ

sở pháp lý quan trọng để ghi nhận cũng như đảm bảo thực hiện một số nguyên
tắc cơ bản của luật TTHS, là cơ sở để hình thành nguyên tắc “Thực hiện chế
độ hai cấp xét xử”.
-

Về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức: Việc bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức luôn luôn được Đảng và Nhà
nước ta quan tâm. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay đây được xem là một
trong những mục tiêu quan trọng của Nhà nước ta nhằm xây dựng một xã hội
cơng bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, việc tôn trọng và bảo đảm quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức là một trong những
nhiệm vụ của pháp luật nói chung cũng như pháp luật TTHS nói riêng. Tại
Điều 8 BLTTHS năm 2015 [15, tr.4] quy định cụ thể và chi tiết trách nhiệm
của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc tôn trọng và bảo
vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Như
vậy, hủy bản án sẽ là căn cứ, điều kiện để các cơ quan thực thi pháp luật xem
xét, đánh giá lại tính chất vụ án, mức độ hành vi của bị can, khung hình
phạt… đã đúng, khách quan và chính xác chưa, qua đó nhằm bảo đảm các
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tăng cường dân chủ
trong TTHS. Đồng thời, nguyên tắc này cũng góp phần bảo đảm pháp chế xã

hội chủ nghĩa và bảo đảm việc xác định sự thật vụ án được khách quan, tồn
diện, chính xác và đầy đủ.

10


1.2. Các căn cứ hủy bản án sơ thẩm hình sự
Khoa học luật tố tụng hình sự phân chia các căn cứ hủy bản án sơ thẩm
thành hai nhóm: Các căn cứ của luật hình thức (do BLTTHS quy định) và các
căn cứ luật nội dung (do BLHS quy định)
1.2.1. Các căn cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
Thủ tục tố tụng thể hiện tính chặt chẽ của q trình điều tra, truy tố, xét
xử, tính dân chủ của hoạt động tư pháp. Vì vậy việc vi phạm thủ tục tố tụng ở
mức độ nghiêm trọng là căn cứ để hủy bản án.
Thứ nhất, người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết
định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật: Quyết định đình chỉ vụ án là quyết
định tố tụng do VKS đưa ra trong giai đoạn truy tố và do Tòa án quyết định
trong giai đoạn xét xử làm chấm dứt hoạt động tố tụng giải quyết vụ án.
Chính vì vậy, đối với những vụ án đã có quyết định đình chỉ vụ án của Tịa án
thì nghiễm nhiên quyết định đó đã có hiệu lực pháp luật và trong trường hợp
này các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không được khởi tố, điều
tra, truy tố hay xét xử đối với họ. Khi đã xác định được người mà hành vi
phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp
luật, thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khơng được khởi tố vụ án
hình sự (VAHS), trừ trường hợp họ thực hiện một hành vi khác mà luật hình
sự coi là tội phạm.
Thứ hai, tội phạm mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu
cầu khởi tố: Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là một trong những quy
định của pháp luật TTHS nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của bị hại. Tuy nhiên,
trong thực tiễn có những trường hợp việc khởi tố VAHS để truy cứu trách

nhiệm người thực hiện hành vi phạm tội có thể gây thêm những tổn thất khác
cho bị hại so với việc không khởi tố VAHS như gây thêm những tổn thất về
tinh thần, làm lộ bí mật đời tư của bị hại, phá vỡ sự tha thứ, hòa giải và thỏa

11


thuận bồi thường giữa các bên... Chính vì vậy, pháp luật TTHS quy định đối
với một số trường hợp tội phạm xâm phạm sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của
con người hoặc xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, không phải là tội rất nghiêm
trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội không phải là rất lớn hoặc đặc biệt lớn, khơng có tình tiết định khung tăng
nặng thì việc khởi tố vụ án chỉ có thể được thực hiện khi có yêu cầu khởi tố
của bị hại hoặc người đại diện của họ.
BLTTHS năm 2015 quy định có 10 tội phạm thuộc trường hợp chỉ được
khởi tố VAHS theo yêu cầu của bị hại, gồm khoản 1 các Điều 134, 135, 136,
138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của BLHS.
So với BLTTHS năm 2003, quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của
bị hại trong BLTTHS năm 2015 có nhiều điểm mới như: BLTTHS năm 2015
mở rộng phạm vi chủ thể có tư cách bị hại, đồng nghĩa với phạm vi chủ thể có
quyền yêu cầu khởi tố VAHS cũng được mở rộng. Ngoài ra, tại khoản 3 Điều
155 BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định “Bị hại hoặc người đại diện của bị
hại đã rút yêu cầu khởi tố thì khơng có quyền u cầu lại, trừ trường hợp rút
yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức” [15, tr.69]. Quy định của BLTTHS năm
2015 là hợp lý vì cả bị hại và người đại diện của họ đều là chủ thể của quyền
rút yêu cầu khởi tố, việc quy định cả hai chủ thể trên đều không được yêu cầu
khởi tố lại là phù hợp về kỹ thuật lập pháp.
Thứ ba, cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm: Có nhiều dạng bỏ lọt tội phạm khác
nhau, chẳng hạn VKS truy tố bị cáo ba tội nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xét
xử bị cáo hai tội; các chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy hành vi của bị can

(bị cáo) đã thực hiện cấu thành một tội hoặc nhiều tội khác nhưng VKS khơng
truy tố và Tịa án cấp sơ thẩm khơng thể xét xử các hành vi mà VKS không
truy tố… Đối với trường hợp bỏ lọt người phạm tội (có người đồng phạm
khác hoặc có người phạm tội khác liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi

12


tố bị can hoặc đã khởi tố bị can nhưng được đình chỉ điều tra…) việc giải
quyết của Tịa án cấp phúc thẩm cũng tương tự như đối với trường hợp bỏ lọt
tội phạm.
Như vậy có thể thấy, trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra (CQĐT)
đã điều tra không đầy đủ (vi phạm trong việc lập biên bản hiện trường, thu giữ
vật chứng, nhận định tội danh…), bỏ lọt tội phạm, quá trình kiểm sát điều tra,
Kiểm sát viên (KSV) thụ lý vụ án không phát hiện ra những sai sót, vi phạm
trên để khắc phục, Tồ án cấp sơ thẩm trước và trong khi xét xử cũng khơng
phát hiện, làm rõ. Những sai sót trong q trình điều tra, truy tố vụ án, dẫn tới
khi bản án bị kháng cáo, kháng nghị, cấp phúc thẩm phát hiện thấy những vi
phạm trên của bản án sơ thẩm; Quan điểm xử lý vụ án và mức hình phạt đối
với các bị cáo giữa hai ngành Kiểm sát và Toà án trong một số tình tiết của vụ
án vẫn chưa thống nhất.
Thứ tư, việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm
không thể bổ sung được: Tại điểm b, khoản 1, Điều 358 BLTTHS năm 2015
quy định về hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại như sau: “việc
điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm khơng thể bổ sung
được” [15, tr.141], điều đó cho thấy, người được Tịa án cấp sơ thẩm tun bố
khơng có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội thì Tịa án cấp
phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm hình sự để Tịa án cấp sơ thẩm xem
xét lại theo trình tự sơ thẩm kết án người đó phạm tội. Do đó, nếu VKS đã
truy tố một người về một tội quy định tại BLHS năm 2015 nhưng Tòa án cấp

sơ thẩm tuyên bố người đó khơng phạm tội, thì VKS mới có quyền kháng
nghị và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại.
Tuy nhiên, nếu một người đã bị khởi tố nhưng trong quá trình điều tra,
truy tố CQĐT hoặc VKS đã đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với người đó
mà khi xét xử sơ thẩm Tòa án cấp sơ thẩm cũng thấy có căn cứ xác định

13


người đó phạm tội thì VKS khơng được kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Nếu tại phiên tòa sơ thẩm, qua xét hỏi và tranh luận, VKS thấy việc đình chỉ
điều tra hoặc đình chỉ vụ án đối với một người rõ ràng là khơng đúng pháp
luật và Tịa án cấp sơ thẩm khơng có kiến nghị phục hồi điều tra thì sau khi
bản án có hiệu lực pháp luật VKS sẽ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
để hủy bản án sơ thẩm hoặc quyết định phục hồi điều tra để truy tố người mà
CQĐT hoặc VKS đã đình chỉ (nếu việc điều tra khơng ảnh hưởng đến các bị
cáo khác trong cùng vụ án).
Thứ năm, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử để xảy ra vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng: Ở đây các cơ quan tiến hành tố tụng đã không
thực hiện đúng hoặc thực hiện không đầy đủ yêu cầu của các bước trong q
trình giải quyết vụ án, cũng có thể vì thiếu các tài liệu chứng cứ mà đánh giá
sai các tình tiết vụ án dẫn đến việc xác định sai sự thật vụ án cũng như tính
khách quan và tồn diện của vụ án đó.
Theo Nghị quyết 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05-11-2004 của Hội đồng
Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn về xét xử sơ thẩm VAHS thì vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng là:
- Có hành vi khơng thực hiện những quy định bắt buộc trong BLTTHS khi
tiến hành tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng;
-


Có hành vi thực hiện nhưng thực hiện khơng đúng theo trình tự, thủ tục

đã quy định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng;
- Các hành vi trên phải xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của bị can,
bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự…;
-

Bỏ qua hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ thủ tục làm cho việc

giải quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện (như đối với các vụ án mà bị cáo
là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất
hoặc bị truy tố ở khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì trong quá

14


trình điều tra, truy tố, xét xử bắt buộc phải chỉ định Luật sư, nhưng bỏ qua
không thực hiện là xâm phạm nghiêm trọng đến quyền bào chữa của bị can, bị
cáo đã được pháp luật quy định).
Những vi phạm thuộc các trường hợp trên đều coi là vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng và phải được điều tra, truy tố lại hoặc xét xử lại nên Tòa
phúc thẩm phải hủy án sơ thẩm; cịn những vi phạm ngồi phạm vi khái niệm
này thì được coi là những vi phạm tố tụng không nghiêm trọng và chỉ thực
hiện việc kiến nghị sửa chữa, khắc phục như vi phạm về thời hạn điều tra,
thời hạn xét xử … cũng là vi phạm tố tụng nhưng không thuộc trường hợp vi
phạm nghiêm trọng.
1.2.2. Các căn cứ theo quy định của Bộ luật Hình sự
Thứ nhất, khơng có sự việc phạm tội: Khơng có sự việc phạm tội tức có
thể thơng tin về tội phạm là khơng chính xác, hồn tồn khơng có sự việc xảy
ra như thơng tin mà các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận

hoặc có sự việc xảy ra nhưng sự việc đó khơng có dấu hiệu của tội phạm. Ví
dụ như một người khơng thực hiện hành vi phạm tội, mà Tịa án cấp sơ thẩm
có sai lầm trong việc kết án người đó phạm tội, sai lầm này có thể do CQĐT
hoặc VKS trong q trình điều tra, cũng có thể do Tịa án. Việc VKS truy tố
khơng đúng người, đúng tội, nhưng q trình xét xử Hội đồng xét xử khơng
căn cứ vào kết quả thẩm vấn công khai tại phiên tòa để làm căn cứ kết án dẫn
đến làm oan người vô tội.
Thứ hai, hành vi không cấu thành tội phạm: Cấu thành tội phạm là tổng
hợp các dấu hiệu pháp lý đặc trưng cho một tội phạm cụ thể được quy định
trong BLHS. Hành vi không cấu thành tội phạm là hành vi của người hoặc
pháp nhân nào đó không thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý của một cấu thành tội
phạm cụ thể được quy định trong BLHS. Ví dụ như người thực hiện hành vi
gây thiệt hại, khơng có năng lực trách nhiệm hình sự, khơng có lỗi; người

15


thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do sự kiện bất ngờ, hành vi thực hiện
là hành vi phịng vệ chính đáng, là hành vi thực hiện trong tình thế cấp thiết…
Hành vi khơng cấu thành tội phạm là trường hợp người bị kết án có thực hiện
hành vi đã gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho xã hội, nhưng theo
quy định của pháp luật, thì hành vi của họ khơng bị xử lý bằng biện pháp hình
sự như: gây thiệt hại trong trường hợp khơng có năng lực chịu TNHS; chuẩn
bị phạm tội ít nghiêm trọng; sự kiện bất ngờ; phịng vệ chính đáng; tình thế
cấp thiết; cố ý gây thương tích nhưng tỷ lệ thương tật dưới 11%; vô ý gây
thiệt hại chưa nghiêm trọng đến tài sản; vô ý gây thương tích nhẹ và một số
loại tội địi hỏi người có hành vi phạm tội phải là người đã bị xử lý vi phạm
hành chính, xử lý kỷ luật hoặc đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm hoặc một số hành vi phải gây ra thiệt hại đáng kể (hậu quả
nghiêm trọng, thiệt hại nghiêm trọng) mới bị coi là tội phạm và một số trường

hợp chỉ được khởi tố theo yêu cầu của bị hại.
Thứ ba, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi
chịu trách nhiệm hình sự: Đối với tuổi chịu TNHS được quy định cụ thể tại
Điều 12 BLHS năm 2015 [17, tr.5].
Thứ tư, hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự: Thời hiệu truy cứu
TNHS là thời hạn do BLHS quy định cho phép cơ quan có thẩm quyền được
tiến hành các hoạt động truy cứu TNHS đối với người phạm tội, khi hết thời
hạn đó thì người phạm tội khơng bị truy cứu TNHS được quy định tại Điều 27
BLHS [17, tr.10]. Việc xác định được đã hết thời hiệu truy cứu TNHS là căn
cứ không khởi tố VAHS.
Thứ năm, tội phạm đã được đại xá: Đại xá là một biện pháp khoan hồng
đặc biệt của Nhà nước, do Quốc hội quyết định mà nội dung của nó là tha
hồn tồn đối với hàng loạt người phạm tội đã phạm một hoặc một số loại tội
phạm nhất định. Văn bản đại xá thường được ban hành khi có sự kiện chính

16


trị đặc biệt quan trọng của đất nước và có hiệu lực đối với những tội phạm xảy
ra trước và khi văn bản đại xá đó được ban hành. Tội phạm đã được đại xá là
căn cứ để không khởi tố VAHS.
Thứ sáu, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ
trường hợp cần tái thẩm đối với người khác: Mục đích của việc áp dụng
TNHS và hình phạt đối với người phạm tội là nhằm giáo dục họ ý thức tuân
theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Do
vậy, trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
mà xác định được người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết thì
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải ra quyết định không khởi tố
VAHS, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác.
1.2.3. Khi có vi phạm nghiêm trọng quy định của các ngành luật khác

BLTTHS năm 2015 bổ sung một trường hợp hủy bản án sơ thẩm để xét
xử lại là do “bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp
luật nhưng không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản
án…”, hay sửa đổi căn cứ hủy bản án để điều tra, xét xử lại là “Có sai lầm
nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật Hình sự” thành “Có sai lầm nghiêm
trọng trong việc áp dụng pháp luật”. Việc bổ sung vấn đề vi phạm pháp luật
nói chung hoặc thay thế từ “Bộ luật Hình sự” bằng từ “pháp luật” cho thấy
quan điểm của nhà làm luật là những sai lầm nghiêm trọng không chỉ đối với
BLTTHS hay BLHS mà còn đối với các quy định của pháp luật nói chung
gồm cả luật dân sự, luật hành chính, luật doanh nghiệp, luật giao thơng đường
bộ… Vì vậy, khi xét xử VAHS thì Tịa án cấp trên vừa phải căn cứ vào quy
định của BLHS, BLTTHS vừa phải căn cứ vào các ngành luật khác có liên
quan đến vụ án để xem xét đánh giá tính có căn cứ trong bản án của Tịa án
cấp dưới, nếu phát hiện có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật

17


hoặc có những tình tiết mới phát sinh thì buộc phải tuyên hủy bản án của Tòa
án cấp dưới.
1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hủy bản án sơ thẩm
trong tố tụng hình sự
1.3.1. Một số nguyên tắc chi phối khi tòa án cấp trên xét xử và hủy
bản án
Trong hệ thống các nguyên tắc của tố tụng hình sự, có một số ngun
tắc mang tính chi phối trong quá trình xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và
quyết định hủy bản án của Tòa án nhân dân cấp cao.
- Ngun tắc suy đốn vơ tội
Hiến pháp là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, là những quy phạm
pháp luật cơ bản và quan trọng nhất của hệ thống pháp luật quốc gia. Chính vì

vậy suy đốn vơ tội có ý nghĩa hết sức quan trọng và được quy định tại Điều
31 trong Hiến pháp năm 2013 [14]. Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, tại Điều
13 BLTTHS năm 2015 được xây dựng và thực hiện theo 27 nguyên tắc cơ bản
(từ Điều 7 đến Điều 33), bổ sung và quy định nguyên tắc suy đốn vơ tội:
“Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh
theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tịa án
đã có hiệu lực pháp luật…” [15, tr.5].
Ngun tắc suy đốn vơ tội cũng mang ý nghĩa định hướng cho việc xây
dựng và thực hiện pháp luật TTHS, tạo ra một hành lang pháp lý trong việc
điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể tố tụng, duy trì trật tự và tạo điều kiện
cho việc phát huy, bảo đảm các quyền cá nhân, sự cơng bằng, khách quan.
Ngun tắc suy đốn vơ tội bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự
và lợi ích chính đáng của người bị truy cứu TNHS, đặt ra yêu cầu cao hơn cho
những người tiến hành tố tụng trong việc chứng minh tội phạm: cơ quan tư
pháp, điều tra có trách nhiệm phải tìm được bằng chứng chứng minh vô tội

18


song song với việc tìm bằng chứng chứng minh có tội. Đề cao trách nhiệm
của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trước số phận chính
trị, danh dự, nhân phẩm và quyền lợi của cơng dân, ngun tắc suy đốn vơ
tội là “lá chắn thép” bảo vệ quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo,
phòng chống oan sai, được xem là yếu tố căn bản, thể hiện rõ nhất việc tôn
trọng và bảo vệ các giá trị cao quý của con người.
- Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
Điều 27 BLTTHS năm 2015 quy định về nguyên tắc chế độ xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm được bảo đảm trong TTHS [15, tr.7]. Xét xử hai cấp là một
nguyên tắc tiến bộ được áp dụng phổ biến trên thế giới và nhiều quốc gia.
Theo đó, bản án, quyết định sơ thẩm (xét xử lần thứ nhất) nếu có kháng cáo,

kháng nghị trong thời hạn luật định thì được chuyển lên Tịa án cấp trên trực
tiếp xét xử lại (xét xử lần thứ hai - phúc thẩm).
Thứ nhất, xét xử sơ thẩm là q trình xét xử vụ án đó về nội dung, là thủ
tục bắt buộc, theo đó Tịa án tổ chức phiên tòa, xem xét đánh giá chứng cứ,
kết quả tranh tụng tại phiên tòa và đưa ra bản án, quyết định. Trong thời gian
theo pháp luật quy định mà bản án đó khơng bị kháng cáo, kháng nghị thì có
hiệu lực thi hành và dĩ nhiên Tịa án sẽ khơng xét xử lại vụ án đó nữa (trừ
trường hợp xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu có căn cứ và
theo thủ tục đặc biệt).
Thứ hai, nếu bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị trong
thời hạn luật định thì trong trường hợp này bản án, quyết định đó chưa có hiệu
lực thi hành. Việc xét xử ở cấp tiếp theo là bắt buộc, đây được gọi là xét xử ở
cấp phúc thẩm.
Thứ ba, xét xử phúc thẩm có ý nghĩa đảm bảo cho bản án, quyết định của
Tòa án được phán quyết thận trọng, khách quan, chính xác, có căn cứ, đúng
pháp luật; đảm bảo cho Tòa án cấp trên giám sát hoạt động xét xử của Tòa án

19


cấp dưới, khắc phục sai lầm của Tòa án cấp dưới bảo đảm các quyền, lợi ích
hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, của cá nhân.
- Nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử
Nguyên tắc này thay thế cho ngun tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước
tồ án được quy định tại BLTTHS năm 2015 với những nội dung mới bảo
đảm tranh tụng trong xét xử, thực hiện yêu cầu của cải cách tư pháp.
Trên cơ sở bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, BLTTHS năm
2015 có các nội dung sửa đổi, bổ sung để cụ thể hóa nguyên tắc này, bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng đầy đủ sẽ bảo vệ các quyền của người bị buộc tội, nhất
là quyền tự bào chữa, quyền nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cụ thể:

“Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát
viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người
bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc
đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách
quan của vụ án” [Điều 16, tr.7]. Các quy định này có ý nghĩa rất quan trọng
nhằm bảo đảm quyền tự bào chữa, bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ,
tranh tụng tại phiên tịa của bị can, bị cáo. Bên cạnh đó, tại Điều 75 BLTTHS
năm 2015 quy định cụ thể về quyền lựa chọn người bào chữa, tạo thuận lợi về
thủ tục cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được tiếp cận với
người bào chữa, đồng thời cịn bổ sung quy định người thân thích của người
bị buộc tội có quyền lựa chọn người bào chữa [15, tr.36].
Để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, BLTTHS năm 2015 đã
bổ sung nhiều quy định, cụ thể: Tịa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho KSV,
bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ
quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tịa án; Quy
định trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu, đề nghị của KSV,
người tham gia tố tụng về việc cung cấp, bổ sung chứng cứ; sự có mặt của

20


×