Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Pháp luật về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại tại tòa án nhân dân thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.11 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
NGUYỄN VIỆT HÙNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

LUẬT KINH T

PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG IỆN H
TR NG GIẢI
TẠI T

U

T

VỤ N

N NH N

H N Ấ TẠ

INH

NH THƯ NG

N TH NH HỒ H NỘI

NGUYỄN VIỆT HÙNG

2018 - 2020



HÀ NỘI - 2020

THỜI
ẠI


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG IỆN H
TR NG GIẢI
TẠI T

U

T

VỤ N

N NH N

INH

H N Ấ TẠ

NH THƯ NG


N TH NH HỒ H NỘI

NGUYỄN VIỆT HÙNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌ : TS. ĐẶNG THỊ TH

HÀ NỘI - 2020

THỜI
ẠI


LỜI

Đ

N

Tôi là: Nguyễn Việt Hùng, học viên lớp Thạc sĩ luật 18A, khóa 20182020 xin cam đoan đây là cơng trình độc lập của riêng tơi mà khơng sao chép
bất kỳ nguồn tài liệu nào đã được công bố. Các tài liệu, số liệu được sử dụng
phân tích trong luận văn đều có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ, có
xác nhận của cơ quan cung cấp số liệu. Các kết quả nghiên cứu trong luận
văn là kết quả nghiên cứu của tôi được thực hiện một cách khoa học, trung
thực, khách quan.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của các nguồn số
liệu cũng như các thơng tin sử dụng trong cơng trình nghiên cứu của mình.
NGƯỜI CAM ĐOAN


NGU ỄN VIỆT HÙNG


NH



TỪ VI T TẮT

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

BPKCTT

Biện pháp khẩn cấp tạm thời

KDTM

Kinh doanh thương mại

TAND

Tòa án nhân dân

HĐXX

Hội đồng xét xử


HĐTP TANDTC

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................ 1
HƯ NG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP KH N CẤP
TẠM THỜI TRONG GIẢI QUY T CÁC VỤ N INH
NH THƯ NG
MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN………………………………….……...………………….….. . …..8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại, ý nghĩa của biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân……… ........ …….8
1.2. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải
quyết các vụ án kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân ………… .... ……….14
HƯ NG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUÂT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG IỆN
H

H N Ấ TẠ THỜI TR NG GIẢI U
NH THƯ NG
ẠI TẠI T
N NH N

T
VỤ ÁN KINH
N THÀNH PHỐ H

NỘI…………………………………………………….......................................... …………………………..33
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết

các vụ án kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân…………………............ …33
2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội ………………………………… ........................................... ……………...42
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng iện pháp
khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại…… ...... …..57
HƯ NG 3: KI N NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP KH N
CẤP TẠM THỜI TRONG GIẢI QUY T CÁC VỤ ÁN KINH DOANH,
THƯ NG

ẠI …………………………………………………… ............................. ……….…….…..60

3.1. Hoàn thiện pháp luật về các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết vụ án
kinh doanh, thương mại……………………………… ................................... ….....60
3.2. Nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại theo pháp luật Việt Nam . ................... 69
K T LUẬN …………………………………………………… .................................. …………………...75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của ề t i
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội thì các tranh chấp kinh kế hay nói
cách khác là tranh chấp kinh doanh, thương mại cũng gia tăng về số lượng, với
tính chất ngày càng phức tạp. Khi xảy ra tranh chấp, các ên liên quan đều mong
muốn giải quyết nhanh chóng để ổn định sản xuất, kinh doanh, hạn chế đến mức
thấp nhất thiệt hại ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của mình. Giải quyết tốt các
tranh chấp cũng là trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước
nhằm lập lại trật tự pháp luật, bảo đảm cho các quan hệ sản xuất, kinh doanh

phát triển, ổn định nền kinh tế, phát triển đất nước. Tuy nhiên, việc giải quyết
tranh chấp cần phải tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ theo quy định của pháp
luật, mà để có được bản án, quyết định (phán quyết) của cơ quan có thẩm quyền
thì cần phải có thời gian nhất định. Trong thời gian đó, có thể phát sinh những
hoạt động, sự kiện do chủ quan hoặc khách quan, ảnh hưởng đến quá trình giải
quyết vụ án kinh doanh, thương mại (Ví dụ: tẩu tán tài sản, hủy hoại chứng cứ).
Những tình huống đó được gọi là tình thế khẩn cấp, địi hỏi phải có biện pháp tố
tụng phù hợp để giải quyết nhu cầu khẩn cấp, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
các bên tranh chấp và người có liên quan, bảo tồn tài sản tranh chấp, thu thập,
bảo vệ chứng cứ, bảo đảm thi hành án. Biện pháp này gọi là biện pháp khẩn cấp
tạm thời.
Pháp luật nhiều quốc gia đều quy định chế định biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại (bằng con đường
Tòa án hay Trọng tài), nhằm ngăn cản những hành vi có thể gây phương hại đến
tính mạng, tài sản của người có quyền, lợi ích của các bên tranh chấp hoặc bên
thứ ba, bảo đảm sự công bằng trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại.
Ở Việt Nam, các biện pháp khẩn cấp tạm thời lần đầu tiên được quy định
trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994, với 04
1


biện pháp được quy định tại Chương VIII, từ Điều 41 đến Điều 44. Cùng với
q trình xây dựng, hồn thiện hệ thống pháp luật, trên cơ sở kế thừa, phát huy
những mặt tích cực và sửa đổi, bổ sung những mặt còn hạn chế, Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2004 đã ổ sung thêm 04 biện pháp khẩn cấp tạm thời, nâng tổng
số biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án kinh doanh, thương
mại lên 08 biện pháp (Điều 102). Quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004 thể hiện sự tiến bộ về trình độ cũng như kỹ thuật lập pháp, giúp cho q
trình giải quyết của Tịa án được nhanh chóng, khách quan, bảo vệ kịp thời

quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. BLTTDS năm 2015 có hiệu lực ngày
01/01/2017 bổ sung thêm 04 BPKCTT, đánh dấu một thành tựu mới trong hoạt
động lập pháp của nước ta, đáp ứng được những thay đổi về kinh tế, xã hội
trong thời kỳ đổi mới.
So với quy định trước đây, pháp luật về các BPKCTT hiện nay đã được
sửa đổi, bổ sung cơ ản. Ngoài quy định chung, mỗi BPKCTT cụ thể đều được
quy định riêng bằng một điều luật về căn cứ và điều kiện áp dụng, giúp cho
đương sự cũng như cơ quan có thẩm quyền thuận lợi hơn trong việc vận dụng,
áp dụng để lựa chọn biện pháp khẩn cấp tạm thời phù hợp, đồng thời để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự được tốt hơn.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu việc áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 trong quá trình giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại
tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho thấy, số lượng vụ án kinh doanh,
thương mại gia tăng hàng năm, trong khi số vụ có áp dụng BPKCTT chiếm tỷ
lệ nhỏ (Số liệu thống kê từ năm 2015-2019 cho thấy tỷ lệ hàng năm đều dưới
1%. Xem biểu 2.1 Trang 42); một số quy định của pháp luật về BPKCTT chưa
cụ thể, rõ ràng, dẫn đến việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn gặp khó khăn,
lúng túng, làm cho hiệu quả áp dụng pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời
còn hạn chế, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cá nhân.

2


Từ những vấn đề về lý luận và thực tiễn đó địi hỏi phải có sự nghiên
cứu, đánh giá tổng thể, toàn diện các quy định pháp luật về BPKCTT nhằm
tìm ra các giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế, hoàn thiện pháp luật,
giúp nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết các vụ án kinh doanh, thương
mại, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do đó, tác giả đã chọn đề
tài “Pháp luật về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các

vụ án kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội” làm
đề tài Luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan ến ề t i
Nghiên cứu để nâng cao hiệu quả và hoàn thiện quy định pháp luật về các
BPKCTT trong giải quyết các vụ án KDTM theo pháp luật Việt Nam luôn là
một đề tài được nhiều nhà nghiên cứu, đặc biệt là các nhà nghiên cứu khoa học
pháp lý quan tâm. Có thể kể đến một số cơng trình, bài viết có giá trị liên quan
trực tiếp đến đề tài như:
Nhóm cơng trình liên quan đến các vấn đề lý luận về BPKCTT trong giải
quyết tranh chấp thương mại của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa (2010) iện pháp khẩn
cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài… Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 23 [21];
Nguyễn Thị Thu Thủy, Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh
chấp thương mại theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Tiến sĩ.
Nhóm cơng trình liên quan đến việc thực thi pháp luật về BPKCTT
trong giải quyết tranh chấp thương mại như: Ths.Vũ Đức Hồng (2010) Một
số khó khăn khi áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án; TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
(2010) Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp về
kinh doanh, thương mại tại Tòa án: những vấn đề đặt ra cho việc hoàn thiện
Bộ luật tố tụng dân sự; TS. Đặng Thị Thơm (2020), Các biện pháp khẩn cấp
tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại theo pháp luật Việt Nam tại
3


TAND, Đề tài cấp bộ, TAND tối cao; Các đề tài, bài viết của các tác giả đã đề
cập ít nhiều đến tìm hiểu các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, nhiều cơng trình tập trung nghiên cứu đối
tượng là các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của BLTTDS 2004,
sửa đổi, bổ sung năm 2011 hoặc các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải
quyết các vụ án dân sự nói chung hoặc theo thủ tục riêng mà chưa nghiên cứu,

đề cập sâu đến việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết
các vụ án kinh doanh, thương mại theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015 hoặc theo các thủ tục tố tụng khác.
Do vậy, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài “Pháp luật về áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại
tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội” với các quy định của BLTTDS năm
2015 hoàn tồn khơng bị trùng lắp với nội dung nghiên cứu của các cơng trình
đã cơng ố.
3.

ục ích v nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu nhằm làm rõ các vấn đề lý luận cơ ản và đánh giá
thực trạng áp dụng pháp luật về BPKCTT trong giải quyết các vụ án KDTM tại
TAND thành phố Hà Nội, từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị giải pháp hoàn
thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về áp dụng
BPKCTT trong giải quyết các vụ án KDTM ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
- Nghiên cứu, làm rõ khái niệm, bản chất pháp lý của BPKCTT trong
giải quyết vụ án KDTM.
- Nghiên cứu, phân tích thực trạng các quy định của pháp luật về các
BPKCTT trong giải quyết vụ án KDTM.
- Khảo sát, nghiên cứu về thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hiện
hành về BPKCTT trong giải quyết vụ án KDTM tại TAND thành phố Hà Nội
để tìm ra nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc.
4


- Nghiên cứu, đề xuất những giải pháp về hoàn thiện quy định pháp luật
về biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật

trong giải quyết các vụ án KDTM tại TAND nói chung, TAND thành phố Hà
Nội nói riêng.
4. Đối tượng v phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quan điểm, tư tưởng luật học về
BPKCTT trong giải quyết vụ án KDTM; các văn ản pháp luật thực định của
Việt Nam về BPKCTT trong giải quyết vụ án KDTM; thực tiễn áp dụng pháp
luật về BPKCTT trong giải quyết vụ án KDTM tại TAND thành phố Hà Nội.
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về BPKCTT trong
giải quyết các vụ án KDTM tại Tòa án; các quy định pháp luật về BPKCTT
trong giải quyết các vụ án KDTM theo BLTTDS năm 2015 và thực trạng áp
dụng pháp luật về BPKCTT trong giải quyết các vụ án KDTM thông qua hoạt
động xét xử của TAND thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2015 - 2019.
5. Phương pháp luận v phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở của phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các quan điểm
của Đảng, Nhà nước Việt Nam về cải cách tư pháp, bảo đảm quyền công dân,
quyền tự do kinh doanh cũng là phương pháp luận nghiên cứu của đề tài. Bên
cạnh đó, đề tài cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp, cụ thể là
các phương pháp:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Được sử dụng xuyên suốt đề tài
với mục đích tìm hiểu, trình bày các hiện tượng, các quan điểm pháp luật về
BPKCTT trong giải quyết vụ án KDTM, khái quát lại để phân tích, đánh giá
những cái thuộc về bản chất của các hiện tượng, các quan điểm, quy định và
thực tiễn áp dụng của BPKCTT trong giải quyết vụ án KDTM. Từ đó rút ra
các đánh giá, kết luận, kiến nghị và giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về BPKCTT trong giải quyết các vụ án KDTM.
5


- Phương pháp so sánh: Được vận dụng trong việc tham khảo các BPKCTT

trong giải quyết các vụ án KDTM của TAND thành phố Hà Nội theo các năm.
Ngoài ra, Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác nhau
như phương pháp thống kê, hệ thống… để làm sáng tỏ những vấn đề cần
nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận v thực tiễn của ề t i
Về mặt lý luận, Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và quy
định của pháp luật về BPKCTT trong giải quyết các vụ án KDTM tại Tòa án.
Về mặt thực tiễn, Luận văn phân tích nội dung các quy định của pháp
luật về BPKCTT trong việc giải quyết các vụ án KDTM qua thực tiễn áp
dụng BLTTDS trong những năm gần đây, chỉ rõ những vướng mắc, bất cập
và nguyên nhân. Qua đó đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện quy
định pháp luật về vấn đề này.
Ngoài ra, nội dung và kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm
tài liệu tham khảo hữu ích phục vụ cơng tác giảng dạy và nghiên cứu trong
các cơ quan, các trường đại học khoa học pháp lý, viện nghiên cứu.
7.

ết cấu của luận văn

Luận văn được bố cục gồm: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục.
Phần nội dung bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời trong giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội.

6



Chương 3: Kiến nghị và giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về iện pháp khẩn cấp tạm thời trong
giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân.

7


hương 1
ỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ IỆN H
TR NG GIẢI

U

H N Ấ TẠ

T CÁC VỤ N KINH DOANH, THƯ NG

THỜI
ẠI

TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

1.1.

hái niệm

ặc iểm phân loại ý nghĩa của biện pháp khẩn cấp

tạm thời

1.1.1. Khái niệm về biện pháp khẩn cấp tạm thời
Hiện có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời.
- Có quan điểm cho rằng, BPKCTT được xác định là biện pháp được yêu
cầu áp dụng để duy trì hiện trạng, bảo vệ một số quyền để các ên có cơ hội
thảo luận về các yêu cầu của mình theo nội dung vụ án.
- Các nghiên cứu trong nước cũng đã chỉ ra rằng BPKCTT là “một
công đoạn tố tụng r t ng n và giản đơn nh m gi p cơ quan tài phán can
thiệp nhanh chóng, kịp thời nh m bảo vệ chứng cứ, tài sản đang tranh chấp
hoặc các bảo đảm khác thiết yếu cho việc thi hành các nghĩa vụ, trong khi
phiên tranh tụng chính chưa kết th c” [21] hoặc "biện pháp khẩn cấp tạm
thời là những biện pháp khẩn cấp, được ghi nhận trong pháp luật do Tòa án
chủ động hoặc theo yêu cầu của đương sự áp dụng mang tính tạm thời trước
và trong quá trình giải quyết vụ án nh m bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho các bên đương sự hoặc bảo vệ chứng cứ của vụ án" [19].
Theo từ điển tiếng Việt (tác giả Thái Xuân Đệ-Lê Dân, nhà xuất bản Văn
hóa-Thơng tin), “ iện pháp” là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể;
“khẩn cấp” là gấp rút, cần kíp; “tạm thời” là chỉ có tính chất trong một thời
gian ngắn trước mắt.
Mặc dù Bộ luật tố tụng dân sự không đưa ra khái niệm cụ thể, rõ ràng về
BPKCTT. Song căn cứ các quy định của pháp luật tố tụng về quá trình giải
quyết vụ án dân sự nói chung, vụ án KDTM nói riêng và quy định về các biện
8


pháp khẩn cấp tạm thời trong chương VIII BLTTDS năm 2015, có thể nhận
thấy, q trình giải quyết vụ án KDTM phải tuân thủ quy trình, thủ tục chặt chẽ
gồm nhiều cơng đoạn để có thể ra phán quyết quyết cuối cùng về giải quyết vụ
án. Q trình Tịa án xem xét, giải quyết và ra phán quyết giải quyết về nội
dung vụ án phải mất một thời gian nhất định. Trong khi chưa có bản án, quyết
định giải quyết nội dung vụ án, nhưng xuất hiện các tình huống (sự kiện pháp

lý) đòi hỏi phải tiến hành ngay những biện pháp nhất định theo quy định của
pháp luật để kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các bên
tranh chấp hoặc bên thứ ba có liên quan, tránh cho đương sự khỏi bị thiệt hại
hoặc để bảo vệ ngay các chứng cứ dùng để giải quyết vụ án, nếu khơng chứng
cứ đó sẽ bị hủy hoại, không thể thu thập được hoặc cần phải bảo toàn tài sản
của đương sự để đảm bảo cho việc thi hành án, thì Tịa án quyết định áp
dụng một hoặc một số cách làm, cách giải quyết (giải pháp) nhằm tạm thời đáp
ứng nhu cầu cấp bách trước mắt của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài
sản. Những giải pháp này chính là các BPKCTT.
BPKCTT khơng phải là biện pháp giải quyết vụ án KDTM mà chỉ là hỗ trợ
cho việc giải quyết nội dung chính của vụ án. Trong một số trường hợp, biện pháp
này được Tòa án sử dụng kết hợp với một số biện pháp khác để phục vụ việc giải
quyết vụ án như hịa giải, chứng minh...
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong giải quyết các vụ án KDTM như sau: Biện pháp khẩn cấp tạm thời
là biện pháp tố tụng do T a án quyết định áp dụng trong quá trình giải quyết
vụ án kinh doanh, thương mại nh m giải quyết nhu cầu cấp bách của đương
sự, bảo tồn tình trạng tài sản, bảo vệ chứng cứ hoặc bảo đảm thi hành án.
1.1.2. Đặc điểm của biện pháp khẩn cấp tạm thời
So với các biện pháp khác trong tố tụng dân sự như iện pháp hòa giải,
biện pháp chứng minh… mà Tòa án áp dụng để giải quyết vụ án, BPKCTT là
một biện pháp quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ trên thực tế
9


quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, BPKCTT có những đặc
điểm đặc trưng mà các iện pháp khác khơng có, đó là tính khẩn cấp, tính tạm
thời, tính bảo đảm và tính cưỡng chế.
1.1.2.1. Tính khẩn cấp
Tính khẩn cấp là đặc tính nổi bật của BPKCTT. Trong giải quyết các vụ

án KDTM, nếu Tòa án giải quyết theo trình tự, thủ tục thơng thường đơi khi sẽ
là quá chậm để kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, trong khi
đương sự có nhu cầu rất cấp bách, chứng cứ đang ị đe dọa hủy hoại, tài sản
tranh chấp, tài sản để thực hiện nghĩa vụ đang có nguy cơ ị tẩu tán… địi hỏi
Tòa án phải can thiệp ngay bằng giải pháp khẩn cấp, trước mắt nhằm kịp thời
bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự. Sau khi đã có đủ thời gian để xem xét kỹ
lưỡng về chứng cứ, Tòa án sẽ ra bản án, quyết định chính thức giải quyết vụ án.
Cơ sở pháp lý để Tòa án ra quyết định áp dụng BPKCTT chính là yêu cầu khẩn
cấp của chủ thể có quyền u cầu.
Tính khẩn cấp thể hiện đậm nét trong quá trình giải quyết các vụ án
KDTM, vì trong các vụ án này, các tài sản tranh chấp là đối tượng có khả
năng sinh lợi cao (tài sản của các ên thường là vốn kinh doanh được đưa vào
lưu thơng địi hỏi khả năng quay vịng vốn, thu hồi nhanh), nên việc bảo vệ
kịp thời quyền và lợi ích của đương sự càng trở nên cấp ách hơn. Tính chất
khẩn cấp cịn được thể hiện thơng qua BPKCTT được Tịa án quyết định áp
dụng rất nhanh chóng. Thời gian để Tòa án xem xét, ra quyết định áp dụng
BPKCTT là rất ngắn (tính bằng ngày, thậm chí bằng giờ).
Ngồi ra, tính khẩn cấp của BPKCTT cịn thể hiện ở việc thi hành quyết
định áp dụng BPKCTT một cách khẩn trương, nhanh chóng. Quyết định áp
dụng BPKCTT có hiệu lực thi hành ngay. Tòa án phải chuyển giao ngay Quyết
định áp dụng BPKCTT cho Cơ quan thi hành án dân sự để thi hành Quyết định
đó. Thủ tục thi hành Quyết định áp dụng BPKCTT cũng rất đơn giản, khẩn
trương.
10


1.1.2.2. Tính tạm thời
Quyết định áp dụng BPKCTT chỉ có tính tạm thời, bởi vì vụ án vẫn chưa
được giải quyết một cách triệt để, là một giải pháp tình thế để ngăn chặn hành
vi vi phạm, bảo vệ tài sản tranh chấp, bảo tồn hiện trạng tài sản tranh chấp

đang trong quá trình chờ các phán quyết cuối cùng của Tòa án, chưa xác định
tài sản tranh chấp thuộc về ai. Vì thế quyết định áp dụng BPKCTT của Tịa án
mặc dù có hiệu lực thi hành ngay nhưng chỉ là quyết định tạm thời, khơng có
hiệu lực vĩnh viễn. Việc xử lý BPKCTT sẽ phụ thuộc vào nội dung bản án,
quyết định giải quyết vụ án của Tòa án và quyết định áp dụng BPKCTT cũng
sẽ hết hiệu lực. Khi lý do của việc áp dụng BPKCTT không cịn nữa thì quyết
định áp dụng BPKCTT sẽ bị hủy bỏ.
1.1.2.3. Tính bảo đảm
BPKCTT là biện pháp mà Tịa án sử dụng để bảo đảm hiệu quả của việc
giải quyết vụ án và thi hành án. Tính bảo đảm của BPKCTT được thể hiện cụ
thể thơng qua mục đích của BPKCTT là nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của
đương sự để bảo đảm không gây ra thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, danh dự,
nhân phẩm của họ; bảo vệ chứng cứ khỏi bị hủy hoại để đảm bảo giải quyết vụ
án; bảo toàn tài sản để bảo đảm cho việc thi hành án. Như vậy, BPKCTT chính
là biện pháp bảo đảm cho việc bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích của đương sự.
1.1.2.4. Tính có hiệu lực thi hành ngay
Quyết định áp dụng BPKCTT có hiệu lực thi hành ngay sau khi được Tòa án
áp dụng và được bảo đảm thi hành bởi cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước (tính
cưỡng chế). Bởi vì, Quyết định áp dụng BPKCTT chỉ do Tòa án là cơ quan quyền
lực nhà nước ban hành. Tính hiệu lực của quyết định áp dụng BPKCTT so với
bản án có hiệu lực thi hành có tính tương đồng vì đều được đảm bảo thi hành trên
thực tế bằng bộ máy cưỡng chế của nhà nước. Điều đó có nghĩa nếu chủ thể có
nghĩa vụ thi hành mà khơng tự nguyện thực hiện thì sẽ bị áp dụng biện pháp

11


cưỡng chế thi hành. BPKCTT khi đã được Tòa án quyết định áp dụng thì mọi chủ
thể liên quan đều phải tuyệt đối chấp hành.
Quyết định áp dụng BPKCTT là quyết định không bị kháng cáo, kháng

nghị theo thủ tục phúc thẩm. Các đương sự chỉ có thể khiếu nại, Viện kiểm sát
chỉ có thể kiến nghị về quyết định áp dụng BPKCTT của Tòa án.
1.1.3. Phân loại biện pháp khẩn cấp tạm thời
1.1.3.1. Dựa trên tiêu chí yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền
yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT.
- BPKCTT do Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng trong trường hợp
khơng có yêu cầu của của cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền u cầu Tịa án
áp dụng BPKCTT theo Điều 135 BLTTDS năm 2015. Đây là trường hợp
trong quá trình giải quyết vụ án, khơng có u cầu của đương sự, nhưng Tòa
án thấy cần thiết và quyết định áp dụng BPKCTT để bảo đảm việc giải quyết
vụ án. Khi tự mình áp dụng BPKCTT cụ thể, ngồi việc phải thực hiện đúng
quy định tại điều luật tương ứng của BLTTDS năm 2015, Tòa án phải căn cứ
vào các quy định của pháp luật liên quan để có quyết định đúng.
Các BPKCTT loại này chủ yếu là các biện pháp được áp dụng trong việc
giải quyết các vụ án dân sự, hơn nhân gia đình, lao động mà khơng phải là
biện pháp áp dụng trong việc giải quyết các vụ án KDTM, bao gồm 05 biện
pháp quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 114 BLTTDS năm 2015.
- BPKCTT do Tòa án áp dụng bắt buộc phải có yêu cầu của cá nhân, cơ
quan, tổ chức có quyền u cầu Tịa án áp dụng BPKCTT.
Nhóm biện pháp này bao gồm các biện pháp từ khoản 6 đến khoản 16 Điều
114 BLTTDS năm 2015. Cơ sở của quyền này xuất phát từ quyền quyết định và
tự định đoạt của đương được ghi nhận tại Điều 5 BLTTDS năm 2015. Đương sự
có quyền tự mình quyết định có u cầu Tịa án áp dụng BPKCTT hay khơng.
Tịa án sẽ chỉ áp dụng BPKCTT khi có yêu cầu hợp pháp của đương sự và Tịa
án có trách nhiệm áp dụng đúng iện pháp, đúng yêu cầu của đương sự.
12


Người yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT phải gửi đơn đến Tịa án có
thẩm quyền và cung cấp cho Toà án chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết

phải áp dụng BPKCTT đó theo quy định tại Điều 133 BLTTDS năm 2015.
1.1.3.2. Dựa trên tiêu chí về biện pháp bảo đảm
- Các BPKCTT áp dụng ngay mà không bắt buộc phải thực hiện biện
pháp bảo đảm quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 9, 12, 13, 14 và 17 Điều
114 BLTTDS năm 2015 (gồm 10 biện pháp, hầu như không liên quan đến tài
sản tranh chấp).
- Các BPKCTT chỉ được áp dụng khi người yêu cầu thực hiện biện pháp
bảo đảm quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10, 11, 15 và 16 Điều 114 BLTTDS
2015 (gồm 7 biện pháp, chủ yếu có liên quan đến tài sản tranh chấp).
Để dụng các BPKCTT này, ngoài việc phải đáp ứng các điều kiện áp
dụng riêng đối với từng biện pháp thì đương sự cịn phải thực hiện biện pháp
bảo đảm quy định tại Điều 136 BLTTDS năm 2015. Tòa án chỉ ra quyết định
áp dụng BPKCTT khi người yêu cầu áp dụng BPKCTT đã thực hiện xong
biện pháp bảo đảm theo quy định.
1.1.4. Ý nghĩa của biện pháp khẩn cấp tạm thời
Chế định pháp luật về BPKCTT mang nhiều ý nghĩa khơng những đối với
Tịa án trong việc giải quyết vụ án KDTM mà cả đối với đương sự trong việc
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; cụ thể:
- Chế định pháp luật về BPKCTT tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án có thẩm
quyền áp dụng trong q trình giải quyết vụ án KDTM, bảo đảm giải quyết vụ
án theo đúng quy định của pháp luật, bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp
của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án.
- BPKCTT đáp ứng kịp thời nhu cầu cấp bách của đương sự, tạo điều
kiện cho đương sự ổn định sản xuất, kinh doanh và đời sống của họ và gia
đình. Trên cơ sở đó, đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

13


- Ngăn chặn các hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản, bảo tồn tình trạng tài

sản, tránh việc gây thiệt hại không thể khắc phục được, bảo đảm cho việc thi
hành bản án, quyết định của Tòa án.
- Ngăn chặn các hành vi xâm phạm, tiêu hủy chứng cứ,… nhằm giữ nguyên
giá trị chứng minh của chứng cứ, tránh làm sai lệch hồ sơ vụ án, bảo đảm việc
giải quyết vụ án được đúng đắn.
- BPKCTT là công cụ pháp lý để các đương sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình khi tham gia vào các giao dịch KDTM.
1.2. Nội dung iều chỉnh của pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời
1.2.1. Nguyên tắc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Việc áp dụng các BPKCTT phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định,
đảm bảo việc giải quyết vụ án, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Nếu không tuân thủ các nguyên tắc, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
sẽ không phát huy được hiệu quả, thậm chí có thể bị hủy bỏ bởi không đúng
pháp luật. Các nguyên tắc áp dụng BPKCTT được chia thành hai nhóm:
nguyên tắc chung và nguyên tắc riêng (nguyên tắc áp dụng đối với từng
BPKCTT cụ thể):
1.2.1.1. Nguyên tắc chung
Là nguyên tắc cơ ản, xuyên suốt của BLTTDS được áp dụng trong quá
trình giải quyết vụ án KDTM có áp dụng BPKCTT.
a. Nguyên t c nhanh chóng, kịp thời
Xuất phát từ bản chất, đặc điểm của các giao dịch KDTM và việc giải
quyết vụ án KDTM địi hỏi phải đáp ứng u cầu nhanh chóng, kịp thời. Do
đó, đặc điểm nổi bật của các BPKCTT trong việc giải quyết vụ án KDTM
là tính khẩn cấp và tạm thời. Tòa án phải áp dụng BPKCTT một cách
nhanh chóng thì mới kịp thời bảo vệ được quyền, lợi ích của đương sự trong
vụ án. Nội dung nguyên tắc này thể hiện như sau:

14



- Trên cơ sở nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự, các chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp như đương sự, người đại diện
hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của
người khác (Ví dụ: Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng; Cơ quan quản lý nhà nước
về gia đình; Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ Việt
Nam; Tổ chức đại diện tập thể người lao động - Cơng đồn) có quyền u cầu
Tịa án áp dụng BPKCTT vào bất cứ thời điểm nào trong quá trình giải quyết
vụ án khi thấy cần thiết (khoản 1 Điều 111 BLTTDS năm 2015). Tịa án phải
tơn trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho những chủ thể có quyền yêu cầu Tòa
án áp dụng BPKCTT được nộp đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT, kể cả khi chưa
thụ lý vụ án. Thơng thường, những chủ thể này u cầu Tịa án áp dụng
BPKCTT sau khi đã khởi kiện và vụ án đó đã được Tịa án thụ lý. Về ngun
tắc, Tòa án cũng chỉ can thiệp để bảo vệ quyền, lợi ích cho các chủ thể khi vụ
án đã được Tòa án thụ lý để giải quyết. Đối với yêu cầu cấp bách (khoản 2
Điều 111 BLTTDS năm 2015) đương sự có thể nộp đơn u cầu Tịa án áp
dụng BPKCTT cùng với nộp đơn khởi kiện (vụ án chưa được thụ lý). Để việc
áp dụng BPKCTT đảm bảo nhanh chóng, kịp thời, Tịa án phải tạo điều kiện
thuận lợi cho các chủ thể nộp đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT, thủ tục nhận đơn
yêu cầu cũng phải được quy định một cách đơn giản nhất và với thời gian ngắn
nhất.
- Nguyên tắc nhanh chóng, kịp thời chỉ được đảm bảo khi trong thời gian
rất ngắn, Tòa án phải ra quyết định chấp nhận hay không chấp nhận đơn yêu
cầu áp dụng BPKCTT của người yêu cầu. Vì nếu chậm ra quyết định thì rất có
thể quyền, lợi ích của đương sự sẽ không bảo vệ được nữa và như vậy đương
sự sẽ bị thiệt hại. Theo quy định tại Điều 133 BLTTDS năm 2015, Thẩm phán
được phân công giải quyết vụ án có thời hạn tối đa 03 ngày để ra quyết định áp
dụng BPKCTT nếu đương sự không phải thực hiện nghĩa vụ ảo đảm theo quy
định tại Điều 136 BLTTDS năm 2015. Nếu tại phiên tòa mà đương sự có u
cầu Tịa án áp dụng BPKCTT thì HĐXX phải ra ngay quyết định áp dụng
15



BPKCTT hoặc ngay sau khi người yêu cầu đã thực hiện xong biện pháp ảo
đảm. Trường hợp người yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT đưa ra yêu cầu vào
thời điểm nộp đơn khởi kiện thì thời gian Tịa án ra quyết định áp dụng
BPKCTT ngắn hơn, Chánh án Tòa án phải chỉ định ngay một Thẩm phán thụ
lý giải quyết yêu cầu và thời hạn tối đa mà Thẩm phán ra quyết định áp dụng
BPKCTT chỉ trong 48 giờ.
- Quyết định áp dụng BPKCTT ngay sau khi được ban hành phải được
nhanh chóng thi hành, bởi quyết định áp dụng BPKCTT của Tịa án là quyết
định có hiệu lực thi hành ngay, không thể bị kháng cáo, kháng nghị.
b. Nguyên t c đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự
Trong tố tụng dân sự, đương sự có quyền quyết định và tự định đoạt. Khi
nhận thấy quyền, lợi ích của mình bị người khác xâm phạm, cần có biện pháp
can thiệp ngay, họ có quyền tự quyết định làm đơn hay khơng làm đơn u
cầu Tịa án áp dụng BPKCTT. Khi họ có đơn u cầu Tịa án áp dụng
BPKCTT thì Tịa án mới có cơ sở pháp lý để áp dụng BPKCTT.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 111 và Điều 135 BLTTDS năm 2015 thì
Tịa án có thể tự mình ra quyết định áp dụng BPKCTT mà khơng cần có đơn
u cầu của đương sự (khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 114 BLTTDS năm 2015).
Quy định này không thể xem là vi phạm nguyên tắc trên, mà trái lại quy định
này đã thể hiện sự chủ động của Tòa án đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích của
những người cần được bảo vệ. Tuy nhiên, pháp luật cũng giới hạn thẩm quyền
của Tòa án trong trường hợp tự mình ra quyết định áp dụng BPKCTT chỉ đối
với 05 trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 135 BLTTDS
năm 2015). Ngồi các trường hợp này, Tịa án khơng được tự mình quyết định
áp dụng các BPKCTT.
c. Nguyên t c bảo vệ quyền, lợi ích của các bên đương sự và người liên
quan


16


Xuất phát từ việc đương sự có quyền quyết định và tự định đoạt có khởi
kiện hoặc khơng khởi kiện tại Tịa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình. Do vậy, mục đích chính Tịa án thụ lý, giải quyết vụ án là để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, tạo lập sự ổn định của trật tự pháp luật
đã ị xáo trộn do hành vi trái pháp luật (vi phạm pháp luật, vi phạm thỏa
thuận) của một trong các ên đương sự gây ra.
Do vậy, việc Tòa án áp dụng BPKCTT trước hết là để đáp ứng nhu cầu
cấp bách của ên đương sự có u cầu Tịa án áp dụng BPKCTT, đồng thời
cũng là nhằm bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích cho ên đương sự đó. Tuy nhiên,
việc áp dụng BPKCTT của Tịa án khơng phải chỉ để bảo vệ duy nhất quyền,
lợi ích của một ên đương sự trong vụ án mà Tịa án ln phải đảm bảo
ngun tắc bình đẳng giữa các ên đương sự. Đây là nguyên tắc cơ ản của
pháp luật tố tụng dân sự. Ngoài ra, việc Tòa án áp dụng BPKCTT cũng còn
cần phải đảm bảo quyền, lợi ích của những chủ thể khác khơng phải là đương
sự nhưng có liên quan đến việc áp dụng BPKCTT.
d. Nguyên t c bảo đảm sự tương xứng với u cầu của người có quyền
u cầu Tịa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
BPKCTT được Tòa án quyết định áp dụng dựa trên cơ sở yêu cầu của chủ
thể có quyền yêu cầu. Họ có quyền lựa chọn BPKCTT phù hợp với nhu cầu
của họ. Tòa án phải tạo điều kiện cho đương sự trong việc lựa chọn BPKCTT
phù hợp, đồng thời phải bảo đảm BPKCTT do đương sự lựa chọn phải tương
xứng với mức độ nghĩa vụ phải thi hành. Trường hợp Tòa án áp dụng BPKCTT
khơng đúng với u cầu của đương sự thì Tòa án phải bồi thường nếu xảy ra
thiệt hại cho đương sự. Điều 113 BLTTDS năm 2015 quy định Tòa án phải bồi
thường nếu như quyết định áp dụng BPKCTT không đúng do áp dụng biện
pháp khác so với biện pháp đã được yêu cầu hoặc vượt quá yêu cầu của chủ thể
yêu cầu. Do vậy, cùng với việc đương sự có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT


17


cụ thể mà họ lựa chọn thì Tịa án cần phải xem xét để có quyết định áp dụng
BPKCTT tương xứng với mức độ thi hành nghĩa vụ của họ.
1.2.1.2. Nguyên tắc riêng
Trong giao dịch KDTM, mục đích chủ yếu của các ên đương sự là tìm
kiếm lợi nhuận, nên đương sự trong tranh chấp KDTM chủ yếu nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích liên quan đến tài sản, phù hợp với chủ thể có quyền u cầu
Tịa án áp dụng các BPKCTT chỉ có thể là đương sự, người đại diện hợp pháp
của đương sự. Trừ trường hợp quy định tại Điều 187 BLTTDS năm 2015 quy
định về quyền khởi kiện vụ án dân sự để ảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác, lợi ích cơng cộng và lợi ích của Nhà nước thì chủ thể có thể
là cơ quan, tổ chức. Ngồi ra, theo quy định tại Điều 135 BLTTDS năm 2015
thì: “Tịa án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy
định tại các khoản 1,2,3,4 và 5 Điều 114 của Bộ luật này trong trường hợp
đương sự không có yêu cầu áp dụng các PKCTT”. Các BPKCTT được quy
định tại khoản 1,2,3,4 và 5 Điều 114 BLTTDS năm 2015 không phải là
BPKCTT được áp dụng trong giải quyết các vụ án KDTM mà đa phần áp
dụng trong vụ việc dân sự, hơn nhân gia đình, ồi thường tính mạng, sức khỏe
bị xâm phạm hay vụ án lao động, nên có thể khẳng định Tịa án khơng thể tự
mình ra quyết định áp dụng BPKCTT trong vụ án KDTM mà phải dựa trên
yếu tố tự định đoạt của đương sự. Xuất phát từ sự tôn trọng quyền tự định
đoạt của đương sự trong tranh chấp về KDTM mà đương sự có quyền u cầu
hoặc khơng u cầu Tịa án áp dụng BPKCTT. Thực tế hầu như khơng có
trường hợp nào Tòa án áp dụng BPKCTT trong giải quyết các vụ án KDTM
mà khơng có u cầu của đương sự.
1.2.2. Điều kiện áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
1.2.2.1. Điều kiện về đơn khởi kiện

Điều kiện khởi kiện vụ án cũng là điều kiện để áp dụng BPKCTT. Nếu
người khởi kiện khơng có quyền khởi kiện thì cũng đồng nghĩa với việc họ
18


khơng có quyền u cầu áp dụng BPKCTT hoặc tranh chấp khơng thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tịa án (theo vụ việc, theo cấp xét xử, theo lãnh thổ) thì
Tịa án cũng khơng có quyền áp dụng BPKCTT. Người u cầu áp dụng
BPKCTT phải có đơn yêu cầu. Đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT và các tài liệu,
chứng cứ kèm theo là cơ sở xác định quyền và trách nhiệm giữa người yêu
cầu, Tòa án, người bị áp dụng BPKCTT hoặc người thứ ba có liên quan. Nội
dung đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT được quy định tại Điều 133 BLTTDS
năm 2015. Đơn khởi kiện phải được làm đúng theo quy định tại Điều 189
BLTTDS năm 2015.
1.2.2.2. Điều kiện về tính khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 111
BLTTDS năm 2015
Mục tiêu của việc áp dụng BPKCTT là để ảo toàn tài sản, chứng cứ hoặc
để giải quyết yêu cầu cấp ách của đương sự, nên đồng thời với việc xem xét
điều kiện khởi kiện vụ án, để đảm ảo cho việc áp dụng BPKCTT được chính
xác, đúng pháp luật, Tòa án còn phải xem xét điều kiện được quy định tại
khoản 2 Điều 111 BLTTDS năm 2015. Đó là điều kiện về tình thế khẩn cấp,
cần phải ảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra.
Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27-4-2005 của HĐTP TANDTC
đã hướng dẫn, chỉ khi có đầy đủ các điều kiện sau đây, đồng thời với việc nộp
đơn khởi kiện, cá nhân, cơ quan, tổ chức mới có quyền u cầu Tịa án có
thẩm quyền ra quyết định áp dụng BPKCTT quy định tại Điều 102 BLTTDS
năm 2004 (nay là Điều 114 BLTTDS năm 2015):
a) Do tình thế khẩn cấp, tức là cần phải được giải quyết ngay, không
chậm trễ.
b) Cần phải bảo vệ ngay bằng chứng trong trường hợp nguồn chứng cứ

đang ị tiêu hủy, có nguy cơ ị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được.
c) Ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra (có thể là hậu quả về
vật chất hoặc phi vật chất).
19


(Tiểu mục 2.1 mục 2 Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP).
1.2.2.3. Điều kiện thực hiện biện pháp bảo đảm
Đương sự có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT khi quyền và lợi ích hợp
pháp của mình đang ị đe dọa hoặc trong tình thế cấp bách cần được bảo vệ
ngay. Tuy nhiên, việc yêu cầu áp dụng BPKCTT của đương sự không phải lúc
nào cũng chính xác, nhất là trong điều kiện tình thế khẩn cấp, đương sự khơng
thể có đủ điều kiện về thời gian, kiến thức, … để đưa ra nhận định và quyết
định sáng suốt. Trong những trường hợp này hồn tồn có thể gây thiệt hại
đến quyền, lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng BPKCTT hoặc người thứ
a có liên quan. Do đó, để tránh những sai sót khi ra quyết định áp dụng
BPKCTT và hạn chế tình trạng lạm quyền của người có quyền u cầu,
BLTTDS quy định buộc người yêu cầu phải thực hiện biện pháp bảo đảm khi
đưa ra yêu cầu áp dụng BPKCTT. Theo quy định tại khoản 1 Điều 136
BLTTDS năm 2015, người yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT quy định tại các
khoản 6, 7, 8, 10, 11, 15 và 16 của BLTTDS phải thực hiện biện pháp bảo
đảm. Nghĩa là người yêu cầu áp dụng BPKCTT phải thực hiện bảo đảm tài
chính để thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho người bị áp dụng
BPKCTT khi yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng gây thiệt hại cho người
bị áp dụng. Quy định này nhằm đảm bảo nguyên tắc ình đẳng giữa các
đương sự trong tố tụng dân sự.
1.2.3. Chủ thể có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Khoản 1 Điều 111 BLTTDS năm 2015 quy định các chủ thể sau đây có
quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT:
- Đương sự;

- Người đại diện hợp pháp của đương sự
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án quy định tại Điều 187 của
BTTDS năm 2015.

20


×