Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại lý luận và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (991.93 KB, 61 trang )

Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2010 - 2014
ĐỀ TÀI:

BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI - LÝ LUẬN VÀ HƯỚNG HOÀN
THIỆN

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Tiến sĩ Cao Nhất Linh

Quách Minh Trí

Bộ môn:Luật kinh doanh, thương mại

MSSV: 5105925
Lớp: Luật Thương mại 1 – K36

Cần thơ, năm 2013

GVHD: TS. Cao Nhất Linh


1

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp “ Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại” như hôm nay, em xin gửi đến
Quý Thầy (Cô) Khoa Luật lời cảm ơn chân thành nhất với những kiến thức mà
Thầy cô đã dạy cho em trong suốt chương trình Cử nhân Luật. Đặc biệt, em xin
một lần nữa gửi lời cám ơn đến Tiến sĩ Cao Nhất Linh người đã hướng dẫn và
chỉ bảo em tận tình trong suốt quá trình làm luận văn tốt nghiệp để em có thể
hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp của mình. Bên cạnh đó, em cũng xin ghi nhận
và cám ơn những ý kiến đóng góp quý báo của Quý Thầy (Cô) để luận văn được
hoàn thiện hơn.
Trân Trọng !
Người viết

Quách Minh Trí

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

2

SVTH: Quách Minh Trí



Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện

Ý KIẾN NHẬN XÉT CỦA THẦY CÔ

.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................

Giảng viên

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

3

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


BPKCTT

Biện pháp khẩn cấp tạm thời

TTTM

Trọng tài thương mại

HĐTT

Hội đồng trọng tài

HĐXX

Hội đồng xét xử

TTDS

Tố tụng dân sự

BLDS

Bộ luật dân sự

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng Dân sự

LTTTM


Luật Trong tài thương mại

LTHA

Luật thi hành án

PLTTGQVADS

Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự

PLTTGQVAKT

Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

4

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN

i

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN


ii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

iii

MỤC LỤC

iv

LỜI NÓI ĐẦU Error! Bookmark not defined.
Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI
Error! Bookmark not defined.
1.1. Khái niệm về BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại Error! Bookmark not defined.
1.2. Đặc điểm của BPKCTT .............................................................. Error! Bookmark not defined.
1.2.1. Tính khẩn cấp .......................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.2.2. Tính tạm thời ........................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.3. Mục đích và ý nghĩa của BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại .. Error! Bookmark
not defined.
1.4. Lịch sử hình thành và phát triển của BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại trong hệ
thống pháp luật Việt Nam .................................................................. Error! Bookmark not defined.
1.4.1.

Từ ngày 01/01/1990 đến ngày 01/7/2003Error! Bookmark not defined.

1.4.2.

Từ ngày 01/7/2003 đến ngày 01/01/2005Error! Bookmark not defined.


1.4.3.

Từ ngày 01/01/2005 đến nay

Error! Bookmark not defined.

1.5. Các BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại............... Error! Bookmark not defined.
1.5.1.

Theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2004

Error! Bookmark not defined.

1.5.2.

Theo Luật Trọng tài thương mại 2010

Error! Bookmark not defined.

Chương 2 QUY ĐỊNH VỀ VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Error! Bookmark not defined.
2.1.
Quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại Error! Bookmark
not defined.
2.1.1. Cơ sở pháp lý của quyền yêu cầu ............................................ Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Chủ thể có quyền yêu cầu ........................................................ Error! Bookmark not defined.
2.1.2.1.... Chủ thể có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại tại
tòa án .............................................................................................. Error! Bookmark not defined.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

5

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện
2.1.2.2.
Chủ thể có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại
tại trọng tài thương mại
Error! Bookmark not defined.
2.2.

Thời điểm yêu cầu áp dụng BPKCTT

2.3.

Nội dung và căn cứ áp dụng của từng BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại
Error! Bookmark not defined.

2.4.
mại

Thẩm quyền áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương
Error! Bookmark not defined.

Error! Bookmark not defined.


2.4.1.
Thẩm quyền áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ BPKCTT trong giải quyết tranh chấp
thương mại tại tòa án Error! Bookmark not defined.
2.4.2.
Thẩm quyền áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ BPKCTT trong giải quyết tranh chấp
thương mại tại trọng tài thương mại
Error! Bookmark not defined.
2.5.

Thủ tục áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại
Error! Bookmark not defined.

2.5.1. Thủ tục áp dụng ....................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.5.2. Thủ tục thay đổi, bổ sung BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại tại tòa án và
trọng tài thương mại ........................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.5.3. Thủ tục hủy bỏ BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại tại tòa án và trọng tài
thương mại .............................................................................................................................................
Error! Bookmark not defined.
2.6.

Hiệu lực của quyết định về BPKCTT

Error! Bookmark not defined.

2.7.
Thi hành quyết định về BPKCTT của tòa án và trọng tài thương mại
not defined.
2.8.
Trách nhiệm bồi thường do áp dụng BPKCTT không đúng
defined.


Error! Bookmark

Error! Bookmark not

2.8.1. Trách nhiệm bồi thường của bên yêu cầu ................................ Error! Bookmark not defined.
2.8.2. Trách nhiệm của tòa án và trọng tài thương mại ..................... Error! Bookmark not defined.
2.8.2.1. Trách nhiệm của tòa án .................................................. Error! Bookmark not defined.
2.8.2.2. Trách nhiệm của Trọng tài thương mại .......................... Error! Bookmark not defined.
2.9.
Khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị BPKCTT Error! Bookmark not
defined.
Chương 3 NHỮNG HẠN CHẾ VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN CỦA VIỆC ÁP DỤNG BIỆN
PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Error! Bookmark not defined.
3.1.
Thời điểm yêu cầu áp dụng BPKCTT tại trọng tài thương mại chưa kịp thời
Bookmark not defined.
3.2.
Thẩm quyền áp dụng BPKCTT của Hội đồng trọng tài còn hạn chế
not defined.

Error!

Error! Bookmark

3.3.
Căn cứ và phạm vi áp dụng của một số BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại chưa
phù hợp

Error! Bookmark not defined.
3.4.

Hạn chế trong quy định về biện pháp bảo đảm Error! Bookmark not defined.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

6

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện
3.5.

Thời hạn ra quyết định áp dụng BPKCTT quá dài

3.6.

Thi hành BPKCTT còn chậm

3.7.

Căn cứ hủy bỏ BPKCTT chưa hợp lý

3.8.

Trách nhiện khi áp dụng BPKCTT không đúng Error! Bookmark not defined.


Error! Bookmark not defined.

Error! Bookmark not defined.
Error! Bookmark not defined.

3.8.1. Căn cứ xác định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp còn thiếu ........ Error!
Bookmark not defined.
3.8.2. Chưa quy định trách nhiệm của bên bị áp dụng BPKCTT ...... Error! Bookmark not defined.
3.9.
Những vấn đề chưa có giải pháp về quy định BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương
mại trong hệ thồng pháp luật Việt Nam Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN

Error! Bookmark not defined.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
v

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đã và đang tác động sâu sắc đến
tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội, đặc biệt là nền kinh tế. Kể từ khi gia nhập
WTO, nền kinh tế Việt Nam đã phát triển rực rỡ và vươn lên tầm cao mới. Tuy nhiên,
bên cạnh sự phát triển của các hoạt động thương mại thì những tranh chấp thương mại
cũng bắt đầu nảy mầm và ngày càng đa dạng, phức tạp hơn đòi hỏi phải có sự can
thiệp của Nhà nước bằng pháp luật để giải quyết.
Đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự là nguyên tắc cơ bản được đặt
lên hàng đầu trong giải quyết tranh chấp thương mại. Thế nhưng, tranh chấp thương
mại (hay tranh chấp kinh doanh – thương mại) vốn dĩ rất phức tạp và gắn liền với tài
sản có giá trị lớn nên khó tránh khỏi các bên đương sự có những hành vi tiêu cực làm

ảnh hưởng đến việc bảo vệ tính đúng đắn của vụ án và gây khó khăn công tác thi hành
án. Điều này đã dẫn đến trường hợp nhiều vụ án không thể giải quyết được vì chứng
cứ đã bị hủy hoặc đã giải quyết nhưng vẫn còn nằm trên giấy không thể thi hành án vì
đương sự đã tấu tán tài sản trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ.
Để giải quyết tranh chấp thương mại, Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 sửa đổi, bổ
sung 2011 (sau đây gọi chung là BLTTDS 2004) và Luật Trọng tài thương mại 2010
(sau đây gọi chung là LTTTM 2010) đã ra đời như một tất yếu khách quan. Với việc
quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT) đã khắc phục được những hạn
GVHD: TS. Cao Nhất Linh

7

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện

chế nêu trên, đáp ứng được những yêu cầu cấp thiết của các bên tranh chấp, giúp họ
bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của mình trong quá trình giải quyết tranh
chấp thương mại.
Tuy nhiên, trên thực tế những quy định về BPKCTT vẫn còn nhiều điều bất cập
tạo ra nhiều khó khăn cho người yêu cầu cũng như các cơ quan, tổ chức giải quyết
tranh chấp trong quá trình áp dụng BPKCTT, từ đó làm cho quá trình thực thi pháp
luật gặp nhiều khó khăn.
Nhận thấy được tầm quan trọng của BPKCTT trong việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên tranh chấp; người có quyền và nghĩa vụ liên quan (sau đây
gọi chung là đương sự), bảo vệ tính đúng đắn của vụ tranh chấp và đảm bảo khả năng
thi hành án trong giải quyết tranh chấp thương mại, người viết chọn lĩnh vực “Biện
pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng

hoàn thiện” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp cử nhân luật.
Đây là đề tài còn khá mới mẽ, tài liệu nghiên cứu chưa nhiều nên rất khó tránh
khỏi những thiếu soát. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và hướng dẫn quý báo
của quý Thầy (Cô) để luận văn tốt nghiệp được hoàn hiện hơn.
2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài “Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải
quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng hoàn thiện” người viết tập trung tìm
hiểu và phân tích các vấn đề liên quan đến quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT của
đương sự; thời điểm yêu cầu và thời hạn ra quyết áp dụng BPKCTT; thẩm quyền áp
dụng BPKCTT; trình tự, thủ tục áp dụng BPKCTT trong quá trình giải quyết tranh
chấp thương mại được quy định trong BLTTDS 2004, LTTTM 2010 và các văn bản
hướng dẫn về BPKCTT.
Ngoài các văn bản pháp luật nêu trên, người viết có sử dụng thêm Luật thương
mại 2005, Luật thi hành án 2008, Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
2011, Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế (đã hết hiệu lực), Pháp lệnh thủ tục
giải quyết vụ án dân sự (đã hết hiệu lực), Pháp lệnh về trọng tài thương mại 2003 (đã
hết hiệu lực),…
3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT; thẩm quyền áp dụng
BPKCTT; trình tự và thủ tục áp dụng BPKCTT.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

8

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện


Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu những quy định của pháp luật về quyền yêu
cầu áp dụng và quá trình thực hiện BPKCTT trên thực tế, những khó khăn gặp phải
trong quá trình thực thi pháp luật để đề xuất ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật về quy
định BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành tốt luận văn, người viết đã sử dụng tổng hợp các phương pháp đã
được học trong chương trình cử nhân luật như phương pháp phân tích luật viết để tìm
hiểu những quy định của pháp luật về BPKCTT. Thông qua đó kết hợp với phương
pháp so sánh, đối chiếu lẫn nhau giữa các quy định của pháp luật trong các văn bản
khác nhau để tìm ra những điểm tương đồng và khác nhau; đối chiếu giữa lý luận và
thực tiễn để tìm ra những bất cập đang hiện hữu. Bên cạnh những phương pháp trên,
người viết còn sưu tầm các tài liệu từ sách, báo, tạp chí và các trang web chuyên ngành
để bổ sung kiến thức đa chiều hỗ trợ tích cực cho việc hoàn thành luận văn.
5. Bố cục luận văn
Luận văn “Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại
– Lý luận và hướng hoàn thiện” gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần
kết luận.
Phần nội dung gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải
quyết tranh chấp thương mại
Chương này giúp người đọc hiểu được một cách khái quát về BPKCTT, đặc
điểm, ý nghĩa và lịch sử phát triển của BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương
mại.
Chương 2: Quy định về Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết
tranh chấp thương mại trong hệ thống pháp luật Việt Nam
Chương này giúp người đọc nắm được nội dung cơ bản về áp dụng BPKCTT
như: quyền yêu cầu, thời điểm yêu cầu, thẩm quyền và thời hạn ra quyết định, trình tự
và thủ tục áp dụng, biện pháp bảo đảm và thi hành BPKCTT trong giải quyết tranh
chấp thương mại.

Chương 3: Thực trạng và hướng hoàn thiện biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong giải quyết tranh chấp thương mại trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

9

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện

Chương này giúp người đọc biết được một số bất cập và hướng hoàn thiện về
BPKCTT áp dụng trong giải quyết tranh chấp thương mại trong hệ thống pháp luật
Việt Nam.

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
Biện pháp khẩn cấp tạm thời là một trong số các biện pháp được áp dụng trong
quá trình giải quyết tranh chấp thương mại để bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích của
đương sự trong trường hợp chứng cứ bị đe dọa, tài sản tranh chấp có nguy cơ bị tẩu
tán. Chương này người viết sẽ tập trung phân tích các vấn đề lý luận chung về
BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại để giúp người đọc hiểu rõ hơn về
những đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương
mại.
1.1. Khái niệm về BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại
Trong quá trình giải quyết tranh chấp dân sự cũng như tranh chấp thương mại,
việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự luôn được đặt lên hàng đầu. Để

thực thi điều này, cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp phải đảm bảo cho việc giải
quyết vụ tranh chấp được diễn ra khách quan và quá trình thi hành bản án hoặc phán
quyết (sau đây gọi chung là thi hành án) phải được đảm bảo theo đúng pháp luật. Tuy
nhiên, quá trình từ khi khởi kiện đến khi thụ lý, giải quyết, đưa ra bản án (hoặc phán
quyết) và thi hành án chiếm một khoản thời gian khá dài. Đặc biệt là đối với những
tranh chấp thương mại phức tạp và có giá trị tài sản lớn thì thời gian này còn có thể
GVHD: TS. Cao Nhất Linh

10

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện

kéo dài hơn thời gian giải quyết các tranh chấp thông thường. Trên thực tế, để giải
quyết được một vụ tranh chấp thương mại cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp
không thể đưa ra kết luận vội vàng mà phải trãi qua một trình tự, thủ tục theo luật định.
Trong khoản thời gian ấy, cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp cần phải nhận định,
đánh giá chứng cứ, lắng nghe lời tranh luận của các bên mới có thể đưa ra một bản án
(hoặc phán quyết) khách quan, đúng đắn. Vì thời gian để giải quyết một vụ tranh chấp
thương mại là quá dài nên có thể dẫn đến chứng cứ bị sai lệch, tài sản bị tẩu tán, quyền
và lợi ích của đương sự không được đảm bảo làm ảnh hưởng đến kết quả của giải
quyết tranh chấp và quá trình thi hành án.
Xuất phát từ xung đột lợi ích đương sự có thể thực hiện các hành vi tiêu cực
như hủy hoại chứng cứ, tẩu tán tài sản,….nhằm gây ra những khó khăn nhất định cho
bên còn lại và cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp. Khi ấy, không chỉ quyền và lợi
ích của đương sự bị xâm phạm mà việc giải quyết vụ tranh chấp cũng gặp không ít khó
khăn. Do đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra là cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp phải đưa

ra các biện pháp ngăn chặn kịp thời các hành vi tiêu cực này nhằm bảo đảm cho vụ
tranh chấp được giải quyết một cách khách quan, bảo vệ quyền lợi của đương sự, đảm
bảo cho thi hành án. Biện pháp này được gọi là biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Như vậy, nếu nhìn một cách tổng thể trong tố tụng dân sự (TTDS) có thể định
nghĩa: “Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp tòa án quyết định áp dụng trước khi
thụ lý hoặc trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách
của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tài sản tránh gây thiệt hại không thể khắc
phục được và đảm bảo cho việc thi hành án”1. Tuy nhiên, nếu nhìn ở khía cạnh áp
dụng BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại thì có thể thấy rằng, ngoài tòa
án, trọng tài thương mại cũng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại nên
Hội đồng trọng tài cũng có quyền áp dụng BPKCTT trong giải quyết tranh chấp
thương mại theo quy định của LTTTM 2010. Do đó, có thể khái niệm:
Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại là biện
pháp Thẩm phán, Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng trước khi thụ lý hoặc trong
qúa trình giải quyết tranh chấp thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của các
đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tài sản tránh gây thiệt hại không thể khắc phục
được và đảm bảo cho thi hành án.

1

Tưởng Duy Lượng, Pháp luật TTDS và thực tiễn xét xử, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2009, tr 225.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

11

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng

hoàn thiện

Ở đây chúng ta cần phải xác định được các tranh chấp thương mại thuộc thẩm
quyền giải quyết của tòa án và các tranh chấp thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết
của trọng tài thương mại (TTTM).2
Về tính chất, có thể xem BPKCTT là một biện pháp mang tính chất tình thế,
tạm thời giúp cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp có thể can thiệp một cách kịp thời
vào vụ tranh chấp, giúp quá trình giải quyết vụ tranh chấp được diễn ra khách quan,
thông qua đó bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự, bảo toàn tài sản thi hành án.
Tuy nhiên, nếu xét về khía cạnh thủ tục tố tụng có thể hiểu BPKCTT chỉ là một
công đoạn tố tụng rút ngắn, giản đơn nhằm giúp cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp
can thiệp kịp thời và nhanh chóng vào những tranh chấp. Quy trình áp dụng BPKCTT
chỉ là một phần phụ phái sinh, có tính chất bổ trợ cho một thủ tục tố tụng chính sẽ và
đang được cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp thụ lý, giải quyết. Vì vậy, việc áp
dụng hay không áp dụng BPKCTT không làm ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng của
việc giải quyết tranh chấp thương mại.3
1.2. Đặc điểm của BPKCTT
BPKCTT chỉ là một trong những biện pháp có thể được áp dụng trong quá trình
tố tụng nhằm đảm bảo cho quá trình giải quyết tranh chấp thương mại được diễn ra
khách quan và không gặp trở ngại. Do đó, để phân biệt giữa BPKCTT với các biện
pháp khác trong tố tụng chúng ta phải dựa vào những đặc điểm đặc trưng riêng biệt để
nhận biết. Đó là tính khẩn cấp và tính tạm thời.
1.2.1. Tính khẩn cấp
BPKCTT dù nhìn ở bất kỳ góc độ nào thì cũng có đặc điểm cơ bản nhất đó là
tính khẩn cấp. Tính khẩn cấp của BPKCTT được thể hiện ở những phương diện sau:
Thứ nhất, BPKCTT chỉ được áp dụng khi vụ tranh chấp kinh doanh, thương
mại đang có sự khẩn cấp.
Can thiệp nhanh chóng, xử lý nhanh và hiệu quả tức thì là những ưu điểm mà
BPKCTT mang lại đối với những vụ tranh chấp thương mại đặt ra những yêu cầu cấp
bách. Như một giải pháp tình thế tạm thời, BPKCTT được cơ quan, tổ chức giải quyết

tranh chấp kinh doanh, thương mại sử dụng để đáp ứng yêu cầu cấp thiết của vụ án,
bảo vệ ngay tức thời những chứng cứ có thể bị hủy hoại, tài sản và quyền lợi của các
2

Xem Điều 29 BLTTDS 2004 và Điều 2 LTTTM 2010
PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa, Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài, tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
số 23/2010;
3

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

12

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện

bên tranh chấp. Chính vì thế mà không phải lúc nào cơ quan, tổ chức giải quyết tranh
chấp cũng có thể áp dụng BPKCTT một cách tùy tiện, mà nó chỉ được áp dụng khi và
chỉ khi vụ tranh chấp đang có tính khẩn cấp. Một khi sự khẩn cấp không còn thì
BPKCTT sẽ bị hủy bỏ.
Một vụ tranh chấp được xem là có sự khẩn cấp khi vụ tranh chấp đã thụ lý hoặc
đang giải quyết phát sinh những sự kiện pháp lý cấp bách đòi hỏi cơ quan, tổ chức giải
quyết tranh chấp phải can thiệp ngay lập tức, nếu không quyền và lợi ích của các bên
tranh chấp không được đảm bảo, chứng cứ bị đe dọa dẫn đến quá trình giải quyết vụ
tranh chấp gặp trở ngại. Thế nhưng, để đánh giá một sự kiện pháp lý như thế nào để vụ
án được xem là cấp bách thì pháp luật vẫn chưa có bất kì ghi nhận nào cụ thể. Vì thế
việc đánh giá sự khẩn cấp chỉ dựa vào yếu tố chủ quan của chủ thể phát sinh nhu cầu

áp dụng BPKCTT. Chẳng hạn, trong vụ tranh chấp về thanh toán tiền hàng giữa hai
công ty X và Y. Với ý định tẩu tán số hàng đã mua công ty X đã rao bán số hàng này.
Trong trường hợp này rõ ràng tài sản tranh chấp đang có nguy cơ bị tẩu tán, vụ tranh
chấp đang khẩn cấp nhưng vì luật chưa ghi nhận sự việc như thế nào được gọi là khẩn
cấp nên nếu nhận thấy sự cấp bách cần ngăn chặn ngay hành vi của công ty X thì công
ty Y có thể gửi đơn yêu cầu được áp dụng BPKCTT. Tóm lại, dù nhìn nhận ở khía
cạnh nào thì BPKCTT cũng chỉ được áp dụng khi vụ án có sự khẩn cấp.
Thứ hai, thời hạn ra quyết định áp dụng BPKCTT rất nhanh chóng
Cần khẳng định lại rằng BPKCTT chỉ là một phần phụ - một thủ tục phái sinh
trong một trình tự thủ tục tố tụng chung giải quyết tranh chấp. Cơ quan, tổ chức giải
quyết tranh chấp ra quyết định áp dụng BPKCTT trên cơ sở vụ tranh chấp đang có sự
khẩn cấp. Vì thế, thủ tục áp dụng BPKCTT không thể nào giống như thủ tục giải quyết
vụ án được, bởi sẽ tốn rất nhiều thời gian làm mất đi tác dụng của BPKCTT. Do đó,
việc ra quyết định áp dụng BPKCTT phải được thực hiện trong một thủ tục nhanh
chóng và rấp rút, nếu không việc áp dụng BPKCTT sẽ không còn ý nghĩa trên thực tế.
Mặc dù vậy, cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp cũng không thể quá rấp rút, lơ là
trong việc cho áp dụng BPKCTT. Một khi BPKCTT được áp dụng nó sẽ có tác dụng
ngay tức khắc, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên nên phải hết sức cân nhắc, không
thể áp dụng BPKCTT chỉ trên cơ sở đơn yêu cầu của các bên tranh chấp mà phải trãi
qua sự xem xét kỹ lưỡng. Đó là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp
đóng vai trò là “trọng tài” cần phải bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tranh chấp
nhưng cần lưu ý thời gian quyết định BPKCTT cũng không nên quá lâu.
Thứ ba, BPKCTT được thi hành rất nhanh
GVHD: TS. Cao Nhất Linh

13

SVTH: Quách Minh Trí



Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện

Một vụ tranh chấp thương mại được xem là đã giải quyết xong không chỉ dừng
lại ở bản án (hoặc phán quyết) mà cần phải thực hiện xong quá trình thi hành án. Khi
đó, quyền lợi của đương sự mới xem là được đảm bảo. Nếu thi hành án không được thì
việc giải quyết vụ tranh chấp chỉ dừng lại trên “giấy”. Đối với BPKCTT cũng vậy, khi
có nhu cầu cấp bách thì đương sự mới yêu cầu áp dụng hoặc cơ quan, tổ chức giải
quyết tranh chấp nhận thấy vụ tranh chấp có sự cấp bách nên cho áp dụng BPKCTT để
bảo vệ ngay quyền lợi của các bên tranh chấp. Nếu việc thi hành án không được hay
chậm trễ thì mặc nhiên việc áp dụng BPKCTT sẽ trở nên vô nghĩa, trái lại còn có thể
gây “tác dụng phụ”. Nói cách khác, BPKCTTT được áp dụng khi khẩn cấp thì việc thi
hành án cũng phải được đảm bảo và nhanh chóng. Việc đảm bảo phải được thực hiện
bằng việc cưỡng chế nhà nước nếu bên chấp hành BPKCTT không thực hiện. Có như
thế BPKCTT mới phát huy tối đa tính khẩn cấp của nó.
1.2.2. Tính tạm thời
Tính tạm thời là thuộc tính thứ hai của BPKCTT phái sinh từ tính khẩn cấp.
Tạm thời có thể hiểu là tồn tại trong một thời gian ngắn, có thể thay đổi hoặc mất đi, vì
vụ tranh chấp đang khẩn cấp nên những quyết định áp dụng BPKCTT của cơ quan, tổ
chức giải quyết tranh chấp chỉ mang tính chất tình thế tạm thời đáp ứng nhu cầu cấp
bách của vụ tranh chấp đang đặt ra tránh những thiệt hại không thể khắc phục đươc.
Thông thường sự khẩn cấp sẽ không tồn tại lâu trên thực tế, một khi sự khẩn cấp đó
qua đi thì BPKCTT cũng sẽ bị hủy bỏ hoặc thay đổi cho phù hợp nếu có sự khẩn cấp
mới. Chẳng hạn trong vụ tranh chấp về thanh toán tiền mua nhà giữa công ty bất động
sản A và bên mua nhà B, khi nhận thấy B có dấu hiệu muốn bán căn nhà thì công ty
bất động sản A đã yêu cầu được áp dụng BPKCTT để cấm chuyển dịch quyền về phía
căn nhà. Lúc này, việc yêu cầu áp dụng BPKCTT của A là hoàn toàn có căn cứ, tuy
nhiên ngay sau đó B đã dùng số tiền tương đương với nghĩa vụ để cam kết thực hiện
nghĩa vụ khi thua kiện. Như vậy, thời điểm hiện tại sự khẩn cấp đã không còn vì khả
năng thi hành án đã được đảm bảo. Mặt khác của tính tạm thời là những quyết định về

BPKCTT chỉ là thủ tục tố tụng rút ngắn tạm thời mang tính chất bổ trợ cho thủ tục tố
tụng giải quyết tranh chấp kinh thương mại đang diễn ra nên việc cho hay không cho
áp dụng BPKCTT sẽ không ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng của quá trình giải quyết
tranh chấp.
Như vậy, Tính khẩn cấp và tính tạm thời là hai đặc điểm quan trọng để nhận
biết BPKCTT với các biện pháp khác của quá giải quyết tranh chấp thương mại.
1.3. Mục đích và ý nghĩa của BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại
GVHD: TS. Cao Nhất Linh

14

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện

Bảo vệ quyền và lợi ích của hợp pháp của đương sự là một trong những nguyên
tắc cơ bản của tố tụng dân sự và tố tụng trọng tài. Trên thực tế, vì xung đột về lợi ích
nên có những trường hợp đương sự thực hiện việc tẩu tán tài sản, hủy bỏ chứng
cứ,…nhằm gây khó khăn cho bên còn lại trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ và tạo ra các trở ngại cho cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp. Đặc biệt, đối
với các tranh chấp thương mại phức tạp, có giá trị tài sản lớn thì những hành vi này rất
dễ xảy ra, nhanh hơn và tinh vi hơn. Vì thế, việc áp dụng BPKCTT trong giải quyết
tranh chấp thương mại nhằm mục đích giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo
toàn tình trạng tài sản tranh chấp, bảo vệ chứng cứ. Từ đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự và đảm bảo thi hành án. Không chỉ thế, BPKCTT còn mang nhiều
ý nghĩa đối với việc giải quyết tranh chấp thương mại:
Thứ nhất, giúp cho việc giải quyết vụ tranh chấp được chính xác, chống lại các
hành vi gây trở ngại trong quá trình giải quyết.

Điều này khẳng định sự quan trọng của BPKCTT trong giải quyết tranh chấp
thương mại. Nếu không có BPKCTT thì trong những trường hợp cấp bách như chứng
cứ bị “đe dọa”, đương sự đang có hành vi tiêu cực làm ảnh hưởng đến tính chất đúng
đắn của vụ tranh chấp thì cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp sẽ rơi vào tình thế bị
động vì không có biện pháp để can thiệp kịp thời và hữu hiệu. Khi đó tính chất vụ
tranh chấp sẽ bị thay đổi, dẫn đến việc giải quyết không đúng với tính chất ban đầu của
nó và như thế mục đích của hoạt động tố tụng thương mại xem như chưa đạt được.
Thứ hai, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự cũng
như những người phụ thuộc vào họ sớm ổn định cuộc sống.
Khi nhận thấy vụ tranh chấp có sự cấp bách thì đương sự có thể yêu cầu áp
dụng BPKCTT để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đây là ý nghĩa to lớn
mà BPKCTT mang lại. Nó không chỉ cho phép cá nhân, tổ chức có thể tự bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình mà còn giúp bảo toàn tài sản để thi hành án. Điều
này giúp cho tổ chức sớm ổn định hoạt động, giúp cá nhân và gia đình họ sớm ổn định
cuộc sống. Tránh trường hợp có bản án (hoặc phán quyết) nhưng không thể thi hành án
vì tài sản bị tẩu tán, khi ấy đương sự rơi vào tình trạng khó khăn khi quyền lợi vẫn
chưa thể được đảm bảo.
Ví dụ: Công ty A và công ty B tranh chấp về nghĩa vụ thanh toán tiền cho một
lô hàng có giá trị lớn. Việc công ty A không thanh toán tiền hàng đã làm cho công ty B
gặp rất nhiều khó khăn có thể dẫn đến nguy cơ vỡ nợ. Về phía công ty A họ đã bán hết
lô hàng chuyển vào tài khoản của công ty và đang có dấu hiệu rút hết tiền để thực hiện
GVHD: TS. Cao Nhất Linh

15

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện


hợp đồng khác. Trong trường hợp này nếu công ty B không kịp thời yêu cầu áp dụng
BPKCTT thì dù thắng kiện công ty B cũng khó thu hồi nợ và có thể dẫn đến vỡ nợ.
Tuy nhiên nếu áp dụng BPKCTT phong tỏa tài khoản của công ty A kịp thời thì khả
năng thu hồi nợ của công ty B sẽ được đảm bảo, giúp công ty B tránh được nguy cơ vỡ
nợ và sớm ổn định hoạt động.
Thứ ba, giúp nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật từ sự áp dụng linh hoạt
BPKCTT
BPKCTT chỉ áp dụng khi vụ án đang có sự khẩn cấp. Khi có những nhu cầu
cấp bách thì đương sự mới có thể yêu cầu áp dụng BPKCTT. Điều này tránh sự tùy
tiện trong việc áp dụng BPKCTT. Mặt khác, Nếu BPKCTT đã được áp dụng mà sau
một thời gian sự khẩn cấp ấy đã không còn thì cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp
cũng sẽ hủy bỏ việc áp dụng BPKCTT. Sự linh hoạt này giúp hạn chế tối đa tình trạng
đương sự lạm dụng BPKCTT để gây khó khăn, trở ngại cho bên còn lại, ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Từ đó nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của
công dân.
1.4. Lịch sử hình thành và phát triển của BPKCTT trong giải quyết tranh chấp
thương mại trong hệ thống pháp luật Việt Nam
1.4.1. Từ ngày 01/01/1990 đến ngày 01/7/2003
Ngày 01/01/1990 Pháp lệnh giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQVADS) bắt
đầu có hiệu lực, đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật TTDS ở Việt Nam. Đây
cũng được xem là văn bản pháp luật đầu tiên ghi nhận BPKCTT trong giải quyết vụ
án. Tại pháp lệnh này, BPKCTT được quy định tại chương VIII gồm 2 điều: 41 và 42.
Theo đó, để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự hoặc để bảo vệ chứng
cứ thì tòa án tự mình áp dụng, viện kiểm sát hoặc đương sự có thể yêu cầu áp dụng các
BPKCTT sau đây:
1. Buộc một bên phải thực hiện việc cấp dưỡng;
2. Giao người chưa thành niên cho cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức chăm
nom;
3.

4.
5.
6.
7.

Trả tiền lương hoặc tiền công lao động;
Kê biên tài sản đang tranh chấp để tránh việc tẩu tán;
Cấm chuyển dịch tài sản đang tranh chấp;
Cho thu hoạch và bảo quản sản vật đang tranh chấp;
Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện một số hành vi nhất định.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

16

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện

Thời điểm để đương sự có thể gửi đơn, Viện kiểm sát gửi văn bản cho Tòa án
để yêu cầu áp dụng BPKCTT là trước khi mở phiên tòa. Việc Tòa án cho áp dụng hay
không BPKCTT sẽ dựa trên lời trình bày của người có quyền và nghĩa vụ liên quan
đến biện pháp đang được xem xét. Trong trường hợp Tòa án nhận thấy vụ án đang có
sự khẩn cấp và việc áp dụng BPKCTT là cần thiết thì Tòa án có thể tự mình cho áp
dụng BPKCTT để can thiệp nhanh chóng và kịp thời. Quyết định về BPKCTT sẽ được
thi hành ngay. Đương sự được quyền khiếu nại, Viện kiểm sát được quyền kiện nghị
đến Chánh án của Tòa án đang giải quyết và Chánh án phải xem xét, trả lời khiếu nại,
kiến nghị trong 03 ngày kể từ ngày nhận được đơn.

Có thể nói, lần đầu tiên BPKCTT được ghi nhận trong một chương riêng của
Pháp lệnh đã cho thấy được tầm quan trọng của BPKCTT trong quá trình giải quyết vụ
án. Tuy nhiên, vì lần đầu được ghi nhận nên vẫn còn nhiều thiếu soát, hạn chế như
không thể thay đổi BPKCTT, không quy định về biện pháp đảm bảo, thời hạn xem xét
ra quyết định áp dụng BPKCTT và trách nhiệm bồi thường khi áp dụng không đúng.
Mặc dù vậy, việc quy định BPKCTT đã phần nào đáp ứng được nhu cầu cấp bách thực
tế của đương sự trong việc giải quyết vụ án lúc bấy giờ.
Tiếp theo PLTTGQVADS, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
(PLTTGQVAKT) có hiệu lực ngày 01/7/1994 tiếp tục ghi nhận về BPKCTT tại
chương VIII từ Điều 41 đến Điều 44 bao gồm các BPKCTT sau đây:
1.
2.
vi nhất định;
3.
4.

Kê biên tài sản đang tranh chấp, phong tỏa tài khoản;
Cấm hoặc buộc đương sự, tổ chức, cá nhân khác thực hiện một số hành
Cho thu hoạch và bảo quản sản vật có liên quan đến tranh chấp;
Cho bán sản phẩm, hàng hóa dễ hư hỏng.

Nhìn chung PLTTGQVAKT cũng quy định tương tự như PLTTGQVADS về
chủ thể, thời điểm yêu cầu, cách thức yêu cầu, thời điểm thi hành BPKCTT, khiếu nại
và giải quyết khiếu nại về việc áp dụng BPKCTT. Tuy nhiên, so với PLTTGQVADS
thì PLTTGQVAKT đã có một số điểm mới tích cực đáng ghi nhận như:
- Quy định thời hạn xem xét ra quyết định áp dụng BPKCTT của Tòa án là 03
ngày;
- Có thể thay đổi BPKCTT đã được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án;
- Lần đầu tiên trách nhiệm bồi thường của bên yêu cầu, áp dụng BPKCTT được
ghi nhận.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

17

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện

Những thay đổi trên đã khắc phục một phần những hạn chế của
PLTTGQVADS. Việc quy định thời hạn quyết định áp dụng BPKCTT đã tránh tình
trạng chậm trễ của Tòa án; Sự linh hoạt của BPKCTT đã được thể hiện bằng việc có
thể thay đổi, hủy bỏ BPKCTT và trách nhiệm bồi thường được đặt ra để nâng cao ý
thức tuân thủ pháp luật, tránh tình trạng áp dụng BPKCTT một cách tùy tiện.
Tóm lại, trong giai đoạn này BPKCTT bước đầu được ghi nhận trong các văn
bản TTDS của nước ta nhưng lại nằm tản mạn ở các văn bản pháp luật về giải quyết
các vụ án thuộc các lĩnh vực khác nhau. Hầu hết các văn bản này chỉ ghi nhận một
cách khái quát chưa thật sự đầy đủ về BPKCTT, từ đó chưa thật sự phát huy hết vai
trò, hiệu quả của BPKCTT trong quá trình giải quyết vụ án.
1.4.2. Từ ngày 01/7/2003 đến ngày 01/01/2005
Giai đoạn này đánh dấu bước phát triển mới của BPKCTT khi được quy định áp
dụng trong giải quyết tranh chấp tại trọng tài thương mại. Pháp lệnh về Trọng tài
thương mại có hiệu lực ngày 01/7/2003 đã dành 4 điều (từ Điều 33 đến Điều 36) để
ghi nhận BPKCTT. Theo đó, các bên đương sự không trực tiếp yêu cầu HĐTT áp
dụng BPKCTT mà thông qua Tòa án cấp tỉnh nơi HĐTT thụ lý tranh chấp. Các
BPKCTT được ghi nhận bao gồm:
1. Bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy hoặc có
nguy cơ bị tiêu hủy;
2. Kê biên tài sản tranh chấp;

3. Cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp;
4. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp;
5. Kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ;
6. Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng.
Nhìn chung những quy định về BPKCTT cũng tương tự với những Pháp lệnh ở
giai đoạn trước nhưng có một số điểm mới sau đây:
- Bên yêu cầu áp dụng BPKCTT phải cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu
cầu của mình là có căn cứ.
- Biện pháp bảo đảm được đặt ra đối với bên yêu cầu áp dụng BPKCTT để tránh
tình trạng lạm dụng BPKCTT gây thiệt hại cho phía đương sự bên kia.
- Thời hạn để Thẩm phán được phân công phải xem xét và ra quyết định áp dụng
BPKCTT là 05 ngày kể từ ngày nhận được giao.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

18

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện

Như vậy, có thể nói trong giai đoạn này BPKCTT đã được quy định khá hoàn
chỉnh, là tiền đề để các văn bản pháp luật về Tố tụng trọng tài ở giai đoạn sau hoàn
thiện hơn.
1.4.3. Từ ngày 01/01/2005 đến nay
Trong giai đoạn này tư duy lập pháp của nước ta có sự thay đổi theo chiều
hướng mới tích cực hơn. Thay vì phân chia thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh
tế, lao động ra nhỏ lẽ để quy định trong từng văn bản tố tụng khác nhau thì nay chúng

ta đã tổng hợp chung lại trong một văn bản thống nhất, đó là BLTTDS 2004 có hiệu
lực ngày 01/01/2005. Điều này đã đánh dấu một thành tựu vượt bậc của hoạt động lập
pháp ở nước ta nói chung và lĩnh vực TTDS nói riêng. Kể từ đây BPKCTT cũng có
những thay đổi cho phù hợp hơn với BLTTDS 2004 và tình hình phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Những quy định về BPKCTT trong các pháp lệnh trước đó đã được
tổng hợp lại quy định chung trong chương VIII (từ Điều 99 đến Điều 126) của
BLTTDS 2004, khắc phục được tình trạng nằm tản mạn, rải rác ở các Pháp lệnh trước
đó. Theo đó các BPKCTT bao gồm 12 biện pháp và 1 điều khoản dự phòng:
1. Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục;
2. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng;
3. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính
mạng, sức khỏe bị xâm phạm;
4. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi
thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động;
5. Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao động;
6. Kê biên tài sản đang tranh chấp;
7. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp;
8. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp;
9. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm hàng hóa khác;
10. Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà
nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ;
11. Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ;
12. Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định;
13. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định.
Chủ thể có quyền yêu cầu được mở rộng hơn so với các Pháp lệnh trước đó khi
cho phép người đại hiện hợp pháp của đương sự, các cơ quan, tổ chức khởi kiện vì
GVHD: TS. Cao Nhất Linh

19


SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện

quyền và lợi ích của người khác được yêu cầu áp dụng BPKCTT. Tuy nhiên, lại không
quy định Viện kiểm sát có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT. Cũng như các Pháp lệnh
trước, Tòa án cũng có thể tự áp dụng BPKCTT nếu xét thấy cần thiết nhưng chỉ trong
một số trường hợp luật định.
Thời điểm yêu cầu áp dụng: Trước khi thụ lý vụ án cùng thời điểm nộp đơn
khởi kiện hoặc trong quá trình giải quyết vụ án. Thay đổi này giúp bảo vệ quyền và lợi
ích của đương sự kịp thời.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do áp dụng không đúng BPKCTT được quy
định rõ ràng hơn và bổ sung căn cứ hủy bỏ BPKCTT để tránh tình trạng thực hiện theo
cảm tính và việc lợi dụng BPKCTT để gây khó khăn cho đương sự bên kia.
Trình tự, thủ tục áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT được quy định rõ ràng hơn
tạo điều kiện cho công dân dễ dàng tiếp cận quy định pháp luật để tự bảo vệ quyền và
lợi ích của mình khi cần thiết.
Có thể nói BLTTDS 2004 là văn bản ghi nhận một cách đầy đủ nhất về
BPKCTT trong giải quyết vụ án dân sự nói chung ở nước ta. Những điểm mới của
BLTTDS 2004 đã phát huy được hiệu quả quan trọng của BPKCTT trong quá trình
giải quyết vụ án.
Một văn bản pháp luật tiêu biểu khác quy định về BPKCTT trong giai đoạn này
là Luật Trọng tài thương mại 2010 có hiệu lực ngày 01/01/2011. Kế thừa và phát huy
những quy định về BPKCTT trong Pháp lệnh TTTM 2003, LTTTM 2010 tiếp tục ghi
nhận BPKCTT trong phương thức giải quyết tranh chấp tại TTTM. Những điểm mới
đáng chú ý:
Các BPKCTT có sự thay đổi cho phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của

đất nước, bao gồm các biện pháp sau đây:
1. Cấm thay đổi hiện đang tài sản đang tranh chấp;
2. Cấm hoặc buộc bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một số
hành vi nhất định nhằm ngăn ngừa các hành vi làm ảnh hưởng đến quá trình tố tụng
tại trọng tài;
3. Kê biên tài sản đang tranh chấp;
4. Yêu cầu bảo tồn, cất giữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của một
hoặc các bên tranh chấp;
5. Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên;
6. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
GVHD: TS. Cao Nhất Linh

20

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện

Thẩm quyền áp dụng BPKCTT của HĐTT: Nếu như Pháp lệnh về Trọng tài
thương mại 2003 trước đó không ghi nhận quyền áp dụng BPKCTT của HĐTT thì
đến LTTTM 2010, HĐTT đã có quyền áp dụng BPKCTT.
Tóm lại, giai đoạn này BPKCTT trong hệ thống pháp luật Việt Nam đã và đang
được hoàn thiện rất tích cực ngày càng phát huy sự linh hoạt và hiệu quả của nó trong
quá trình giải quyết vụ án. Từ đó, đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích của đương sự.
1.5. Các BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại
1.5.1. Theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2004
Điều 102 BLTTDS 2004 đã xác định các BPKCTT được áp dụng trong quá trình
giải quyết tranh chấp tại tòa án bao gồm 12 biện pháp và 1 điều khoản dự phòng. Các

biện pháp này được quy định chung cho giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân gia
đình, lao động và thương mại. Mỗi biện pháp điều có những đặc tính riêng của nó nên
tùy vào các quan hệ tranh chấp mà áp dụng các biện pháp phù hợp. Có những biện
pháp phù hợp với các loại tranh chấp nhưng cũng có những biện pháp chỉ thích hợp
với một loại tranh chấp nhất định. Trong phạm vi đề tài người viết chỉ đề cập tới các
biện pháp có thể áp dụng trong giải quyết tranh chấp thương mại, một loại tranh chấp
vốn đa dạng và có các đặc trưng riêng về chủ thể và lợi ích tranh chấp nên không thể
áp dụng hết các biện pháp nêu trên mà chỉ có thể áp dụng các biện pháp sau đây:
1. Kê biên tài sản đang tranh chấp;
2. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp;
3. Cấm thay đổi hiện trạng đang tranh chấp;
4. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác;
5. Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, các tổ chức tính dụng khác, kho bạc
nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ;
6. Phong tỏa tài khoản của người có nghĩa vụ;
7. Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định;
8. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định.
1.5.2. Theo Luật Trọng tài thương mại 2010
Các BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại tại TTTM được quy định
tại khoản 2 Điều 49 LTTTM 2010 bao gồm 6 biện pháp:
1. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp;

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

21

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng

hoàn thiện

2. Cấm hoặc buộc bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một số
hành vi nhất định nhằm ngăn ngừa các hành vi làm ảnh hưởng đến quá trình tố tụng
tại trọng tài;
3. Kê biên tài sản đang tranh chấp;
4. Yêu cầu bảo tồn, cất giữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của một
hoặc các bên tranh chấp;
5. Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên;
6. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
Như vậy, từ các BPKCTT quy định trong BLTTDS 2004 và LTTTM 2010 ta có
thể tổng hợp các BPKCTT có thể được áp dụng trong giải quyết tranh chấp thương
mại bao gồm các biện pháp sau:
 Kê biên tài sản đang tranh chấp;
 Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp;
 Cấm thay đổi hiện trạng đang tranh chấp;
 Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác;
 Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, các tổ chức tính dụng khác, kho bạc
nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ;
 Phong tỏa tài khoản của người có nghĩa vụ;
 Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định;
 Yêu cầu bảo tồn, cất giữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của một
hoặc các bên tranh chấp
 Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên;
 Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

22


SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện

CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH VỀ VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI TRONG HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT VIỆT NAM
Trong giải quyết tranh chấp thương mại, BPKCTT là giải pháp hữu hiệu để bảo
vệ chứng cứ và tài sản tranh chấp trong những trường hợp cấp bách. Để BPKCTT phát
huy tốt hiệu quả, pháp luật cần thiết phải có những quy định thật cụ thể và rõ ràng về
quyền và thời điểm yêu cầu cũng như trình tự, thủ tục để áp dụng BPKCTT trong các
giai đoạn giải quyết tranh chấp thương mại.
2.1. Quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại
2.1.1. Cơ sở pháp lý của quyền yêu cầu
Điều 2 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định “ Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…”. Vì thế mọi công dân đều phải sống và
làm việc theo đúng pháp luật, nghĩa là công dân chỉ được làm những gì mà pháp luật
không cấm và cho phép. Để công dân biết và làm theo đúng pháp luật thì luật phải quy
GVHD: TS. Cao Nhất Linh

23

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng

hoàn thiện

định những quyền và nghĩa vụ của công dân trong từng trường hợp cụ thể. Nói cách
khác, pháp luật phải tạo điều kiện cho họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình cũng
như cách thức để họ tự bảo vệ mình khi quyền và lợi ích đó bị xâm phạm.
Việc cho phép công dân được yêu cầu cơ quan thẩm quyền áp dụng BPKCTT là
một trong những cách thức để công dân tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
mình khi nó có nguy cơ bị xâm phạm trong quá trình giải quyết tranh chấp nói chung
và tranh chấp thương mại nói riêng. Theo đó, Điều 99 BLTTDS 2004 ghi nhận trong
tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiệm trọng
có thể xảy ra thì đương sự có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định áp dụng BPKCTT.
Bên cạnh đó, trong tố tụng trọng tài thì khoản 1 Điều 48 LTTTM 2010 cho phép các
bên tranh chấp có quyền yêu cầu HĐTT, Tòa áp dụng BPKCTT trong giải quyết tranh
chấp.
Như vậy, từ những quy định trên công dân có thể chủ động trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2.1.2. Chủ thể có quyền yêu cầu
Việc yêu cầu áp dụng BPKCTT xuất phát từ nhu cầu cấp bách của người yêu
cầu nên hơn ai hết chính họ là người nhận biết được sự cấp bách đó. Cơ quan thẩm
quyền ít khi tự mình cho áp dụng BPKCTT mà hầu hết dựa trên cơ sở đơn yêu cầu.
Tuy nhiên, vì BPKCTT có tác động không nhỏ đến các bên tranh chấp nên không phải
ai cũng có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT mà pháp luật sẽ giới hạn lại và chỉ ghi
nhận quyền yêu cầu của một số chủ thể nhất định.
2.1.2.1. Chủ thể có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT trong giải quyết
tranh chấp thương mại tại tòa án
Theo khoản 1 Điều 99 BLTTDS 2004 các chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án áp
dụng BPKCTT bao gồm: đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ
quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích của người khác. Mặt khác, trong
trường hợp nhận thấy sự khẩn cấp của vụ án đang thụ lý và giải quyết thì Tòa án cũng
có thể tự mình cho áp dụng các BPKCTT tại khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 102 BLTTDS

2004. Tuy nhiên, đề tài chỉ đề cập đến hai chủ thể là đương sự và người đại diện hợp
pháp của đương sự.
Thứ nhất, đương sự
Là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và
nghĩa vụ liên quan thỏa mãn năng lực pháp luật TTDS (khả năng có các quyền và
GVHD: TS. Cao Nhất Linh

24

SVTH: Quách Minh Trí


Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại – Lý luận và hướng
hoàn thiện

nghĩa vụ trong TTDS) và năng lực hành vi TTDS (khả năng tự mình thực hiện quyền,
nghĩa vụ hoặc ủy quyền cho người đại diện)4.
Ví dụ: A (15 tuổi) vay của B (30 tuổi) 50 triệu, đến hạn A không thể trả cho B
lúc này B có quyền khởi kiện và yêu cầu A phải trả tiền đã vay khi đó ta nói B đã thỏa
mãn năng lực pháp luật TTDS. Về năng lực hành vi TTDS thì trong trường hợp này
đã hơn 18 tuổi và không thuộc trường hợp mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự
nên B đã thỏa mãn năng lực hành vi TTDS theo quy định tại khoản 3 Điều 57 của
BLTTDS 2004. Riêng đối với A chưa đủ 18 tuổi nên chưa thỏa mãn năng lực hành vi
TTDS, mặt khác vì A chưa đủ 16 tuổi nên việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của A
phải thông qua người đại diện theo quy định tại khoản 4 Điều 57 BLTTDS 2004.
Thứ hai, người đại diện hợp pháp của đương sự
Là người thay mặt đương sự tham gia tố tụng và thực hiện thay các quyền và
nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng. Trong TTDS nói chung, sự có mặt của người đại
diện có ý nghĩa rất lớn trong những trường hợp đương sự không thể tự mình thực hiện
quyền và nghĩa vụ. Người đại diện hợp pháp theo trong TTDS bao gồm: người đại

diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền.
-

Người đại diện theo pháp luật trong TTDS

Là người được thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS thay cho đương sự mà
mình đại diện trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án. Người đại diện theo
pháp luật trong Bộ luật dân sự (BLDS 2005) cũng là người đại diện theo pháp luật
trong TTDS.
Theo Điều 73 BLTTDS 2004 và 141 BLDS 2005 thì những người đại diện theo
pháp luật bao gồm: Cha, mẹ đối với con chưa thành niên; người giám hộ đối với người
được giám hộ; người được tòa án chỉ định; người đứng đầu pháp nhân đối với pháp
nhân; chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình và tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác.
Tuy nhiên, cần lưu ý đối với trường hợp không được làm người đại diện theo pháp luật
theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 75 BLTTDS 2004.
-

Người đại diện theo ủy quyền trong TTDS

Là người được thực hiện các quyền và nghĩa vụ thay cho đương sự trong TTDS
theo nội dung văn bản ủy quyền. Người đại diện theo ủy quyền trong BLDS 2005 cũng
là người đại diện theo ủy quyền trong TTDS.

4

Xem thêm Điều 57 BLTTDS 2004

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

25


SVTH: Quách Minh Trí


×