Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phân tích những thuận lợi, khó khăn và đề xuất giải pháp để phát triển sản xuất hoa cây cảnh tại địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.23 KB, 13 trang )

1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

TIỂU LUẬN MÔN CÂY CÔNG NGHỆ HOA
VÀ CÂY CẢNH

Họ và tên: Trần Minh Tấn
Lớp KHCT K24


2
Phú Thọ – 2016


3

Đề tài: Anh, chị phân tích những thuận lợi, khó khăn và đề
xuất giải pháp để phát triển sản xuất hoa-cây cảnh tại địa
phương anh chị?
I. Tình hình phát triển hoa – cây cảnh trên thế giới
Bước vào thế kỷ 21, người tiêu thụ trên thế giới đã có những
địi hỏi mới về chất lượng cuộc sống: Ngon với thức ăn bổ
dưỡng hơn, đẹp với những tiện nghi vật chất và tinh thần phong
phú hơn. Vì yêu cầu ăn ngon, sống đẹp ngày càng được xem trọng
cho nên Hoa - Cây cảnh đã trở nên một nhu cầu không thể thiếu
trong mọi sinh hoạt: hoa sinh nhật, hoa thăm hỏi, hoa tiệc cưới,
hoa trang trí văn phịng, hoa tơn vinh lễ hội, hoa cho ngày Cha
Mẹ. Và hoa theo cả con người cho tận đến khi kết thúc cuộc đời
của mỗi người.
Chính vì vậy mà u cầu về hoa tăng rất nhanh và có một thị


trường rất lớn, kim ngạch lên đến gần 102 tỷ Mỹ kim (2003) với
mức tăng trưởng 6% mỗi năm, cao gấp nhiều lần so với thị trường
các loại nông sản khác vốn được xem trọng như gạo, cà phê, chè
(Bảng 1).
Bảng 1. Thị trường nhập khẩu thế giới và một số mặt hàng nông
sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào năm 2007.
(Nguồn: FAO, />Thị trường
nhập
khẩu thế
giới
Rau & Quả
Hoa – Cây
cảnh
Gạo
Cà phê
Cao su

Trị giá thị trường
nhập khẩu, USD
97.900.226.000
101.840.000.000

1)

9.249.026.000
7.548.041.000
7.488.707.000

Chè
3


Xuất khẩu Việt Nam
Thị
USD
phần
%
0,
300.000.000
3
10.000.000

0

1.489.970.000

16

1.911.463.000

25

1.400.000.000

19

130.833.000

4



4
3.059.002.000
Hạt điều
Hồ tiêu

1.569.312.000
511.307.000

653.863.000

41

271.011.000

53

8.300.000.000

Thế giới

1,2
669.063.000.000
Note:1) www.theflowerexpert.com/content/flowerbusiness/floralindustry
Tuy nhiên tình hình sản xuất Hoa - cây cảnh trên thế giới
ngày nay đã có nhiều chuyển biến. Những nước sản xuất hoa cây cảnh vốn nổi tiếng như Hà Lan, Pháp nay đã trở thành những
nước nhập khẩu và cũng là thị trường tiêu thụ. Thay vào đấy,
những nước đang phát triển, nơi lao động đang còn rẻ và giá trị
đất chưa cao như Trung Quốc, Malaysia, Nam Phi, Do Thái, Ấn Độ,
Colombia, Kenya, Ethiopia và Ecuador lại trở thành những nước
sản xuất và xuất khẩu. Về mặt địa lý, có thể nói Nam Phi, Kenya

và Zimbabwe là những đại gia xuất khẩu hoa - cây cảnh sang Âu
châu trong khi Colombia là nước chủ chốt xuất khẩu sang Hoa kỳ.
Ở Á châu, Malaysia, Đài Loan, Thái Lan, và gần đây Trung Quốc là
những nước xuất khẩu, phần lớn sang Nhật Bản. Nhìn chung, thị
trường nhập khẩu hoa - cây cảnh trên thế giới được phân phối như
sau: Đức với 22 tỷ đô la Mỹ, chiếm 22%; Hoa kỳ với 15 tỷ đô la
Mỹ, chiếm 15%; Pháp và Anh với 10 tỷ đô la, chiếm 10%; Hà Lan
với 9 tỷ đô la, chiếm 9%; Nhật Bản với 6 tỷ đô la, chiếm 6%; Ý và
Thuỵ Sĩ với 5 tỷ đô la, chiếm 5%. Giới chun gia cịn cho rằng các
nước thuộc khối Đơng Âu cũ cũng sẽ trở thành nơi sản xuất hoa cây cảnh trong tương lai. Ngành hoa - cây cảnh được phát triển
tốt nhờ chất lượng hoa ngày càng được cải thiện, công nghệ sau
thu hoạch ngày càng cao, và giao thơng ngày càng tiện lợi. Điều
này có được do có sự thành hình của các khu, trung tâm nơng
nghiệp cơng nghệ cao, (còn gọi là Trung tâm Xuất sắc - Centre of
Excellence), nơi mà các giống hoa - cây cảnh được nghiên cứu
theo dạng công nghệ cao, hội tụ các công nghệ nông nghiệp tiên
tiến của thời đại như công nghệ sinh học, cơng nghệ nhà kính,
cơng nghệ thủy canh và bán thủy canh, công nghệ thông tin,
công nghệ sử dụng hiệu quả nước,… do chuyên gia của nhiều bộ
môn khác nhau tập trung cùng làm việc theo một quy chế thống
nhất nhưng đơn giản, giải quyết dứt điểm nhưng vẫn mang tính
bền vững những vấn đề nổi cộm của ngành hoa - cây cảnh.
Hoa – cây cảnh tại Việt Nam chỉ mới được sản xuất trên một
diện tích rất nhỏ, khoảng 15.000 ha so với 4,5 triệu ha trồng lúa,
4


5
gần 1 triệu ha trồng cây công nghiệp và 1,4 triệu ha trồng rau
quả. Hoa sản xuất ở Việt Nam chủ yếu tập trung 3 vùng: miền bắc

(Hà Nội, Vĩnh Phúc, Lào Cai, Quảng Ninh), ngoại thành thành phố
Hồ Chí Minh (Hóc Mơn, Củ Chi) và Lâm Đồng (Đà Lạt). Hoa sản
xuất ở miền bắc chỉ mới cung cấp cho thị trường Hà Nội khoảng
65%. Chưa xuất khẩu. Hoa sản xuất ở Đà Lạt cung cấp thị trường
thành phố Hồ Chí Minh và xuất khẩu ra nước ngồi như Nhật Bản,
Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore với kim ngạch khoảng 10 triệu
Mỹ kim (2005). Như vậy tuy ngành hoa Việt Nam đã có phát triển
nhưng diện tích, số lượng và chủng loại vẫn cịn ít, chất lượng
chưa cao và chưa đáp ứng được ngay cả với yêu cầu thị trường
trong nước, chưa nói đến thị trường nước ngồi. Việc xuất khẩu có
được là nhờ các cơng ty nước ngồi (Hasfarm) thực hiện. Về công
nghệ cao ứng dụng trong ngành hoa – cây cảnh, Việt Nam cũng
đã xây dựng một số mô hình nơng nghiệp cơng nghệ cao ở Hà
Nội, Hải Phịng và Lâm Đồng.
Tại Hà Nội: Khu nông nghiệp công nghệ cao khởi cơng
tháng 4/2002 đã hồn thành và đi vào hoạt động tháng 9/2004.
Vốn đầu tư 24 tỷ đồng (1,5 triệu USD), trong đó 50% vốn ngân
sách thành phố và 50% vốn cơ quan chủ quản – Công ty TNHH
Nhà nước một thành viên Đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Nội.
Khu được xây dựng trên diện tích 7,5 ha với 5.500 m 2 trồng dưa
chuột, cà chua, ớt ngọt; 2.000 m 2 trồng hoa, các giống đều được
nhập từ Do Thái. Với các tiến bộ mới về giống, quy trình chăm
bón, hệ thống dinh dưỡng khống tự động, ánh sáng và nhiệt độ
được điều chỉnh, năng suất cây trồng ở đây đạt khá cao và việc
sản xuất bước đầu được xem là hiệu quả.
Tại Hải Phòng: Dự án được thực hiện tại xã Mỹ Đức huyện
An Lão với tổng đầu tư 22,5 tỷ đồng. Cơ quan chủ trì là Trung tâm
phát triển Lâm nghiệp Hải Phịng. Khu nơng – lâm nghiệp cơng
nghệ cao Hải phịng đã xây dựng các khu chức năng như: khu bảo
tồn cây ăn quả đầu dòng và vườn ươm cây giống; khu sản xuất

giá thể; khu nhà ni cấy mơ tế bào; khu nhà kính, khu nhà lưới
sản xuất rau an toàn chất lượng cao; khu nhà lưới sản xuất cây
cảnh. Hiện nay, các khu nhà lưới, nhà kính sản xuất rau và hoa đã
hoạt động và cho sản phẩm được 2-3 vụ. Năng suất cà chua, dưa
chuột đạt 200-250 tấn/ha/năm, hoa hồng cũng đạt 200-300
bông/m2.
Tại Lâm Đồng: Từ đầu năm 2004 đã khởi động các chương
trình trọng điểm trong đó có chương trình nơng nghiệp công nghệ
cao. Trong kế hoạch phát triển từ 2004-2010 Lâm Đồng dự kiến
xây dựng một số khu nông nghiệp công nghệ cao với quy mô
15.000 ha. Các họat động chính ở các khu này là sản xuất rau,
5


6
hoa, dâu tây và chè. Tổng số vốn đầu tư là 2.700 tỷ đồng, trong
đó vốn hỗ trợ của nhà nước là 38 tỷ đồng.
Qua các mơ hình nơng nghiệp công nghệ cao được triển khai
ở Việt Nam, chúng ta thấy rằng ba khu nông nghiệp công nghệ
cao được xây dựng đều do các địa phương chủ trì xây dựng và
giao cho các doanh nghiệp làm chủ đầu tư. Việc tiếp nhận và đưa
công nghệ cao vào sản xuất phải được đầu tư lớn (xấp xỉ 0,5 triệu
đô la Mỹ). Đây là những khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao
thực sự, nhất là của Hà Nội và Hải Phòng vì có sử dụng các cơng
nghệ mới, hiện đại và năng suất đạt được cũng rất cao. Tuy nhiên
đối tượng chính của hai nơi này là rau hơn là hoa. Và nếu so sánh
cách làm công nghệ của Đà Lạt, Lâm Đồng (trên diện tích 500 ha
trồng rau, hoa trong nhà mái che) hiệu quả của Hà Nội và Hải
Phòng chưa chắc được xác định là cao hơn. Tuy nhiên ở các khu
sản xuất nông nghiệp công nghệ cao này hầu như thiếu sự hợp

tác của các cơ quan khoa học và thiếu các nghiên cứu để tăng
tính thích ứng của công nghệ. Ngay cả ở Lâm Đồng nơi ngành hoa
có phần vượt trội về số lượng và chất lượng vì có sự đầu tư của
nước ngồi, các nhà sản xuất/nông dân ở đây cũng không được
chuyển giao công nghệ cao một cách bài bản, khoa học.
Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất hoa,
cây cảnh: đất đai rộng lớn, có nhiều vùng sinh thái khí hậu khác
nhau, có nguồn lao động dồi dào, sáng tạo, đã hình thành được hệ
thống nghiên cứu với nhiều cơ quan khoa học có uy tín, cùng với
nhiều chính sách ưu đãi của Nhà nước. Do vậy, chúng ta hoàn
toàn có thể đẩy mạnh phát triển sản xuất hoa, cây cảnh hơn nữa.
Tuy nhiên, ngành sản xuất hoa cây cảnh tại Việt Nam cũng đối
mặt vớikhơng ít khó khăn và thách thức: sản xuất tản mạn, thiếu
quy hoạch; liên doanh, liên kết cịn thiếu và yếu, trình độ kỹ thuật
sản xuất cịn nhiều hạn chế; thương mại hóa và quảng bá sản
phẩm chưa được chú trọng, trong khi phải cạnh tranh với các nước
có ngành hoa, cây cảnh phát triểntrong khu vực (Thái Lan. Đài
Loan…).
Nằm trọn ở vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa nên Việt Nam
có rất nhiều lợi thế để phát triển hoa cây cảnh, đặc biệt tại một số
địa phương như Đà Lạt (Lâm Đồng), Mộc Châu (Sơn La), Điện
Biên... có điều kiện khí hậu thuật lợi để hình thành các trang trại
sản xuất hoa cơng nghiệp phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.
Do đó, tiềm năng phát triển hoa cây cảnh của Việt Nam là rất lớn,
tuy nhiên chúng ta chưa tận dụng được những lợi thế này.

6


7

Theo số liệu thống kê của Cục Trồng trọt (Bộ Nơng nghiệp và
Phát triển nơng thơn), tổng diện tích sản xuất hoa, cây cảnh cả
nước là gần 35.000 ha, diện tích này được phân bổ khá đều ở cả
hai miền Nam, Bắc.
Cả nước có khoảng hơn 22.600 ha hoa; trong đó, các tỉnh
miền Bắc có hơn 9.200 ha, miền Nam có khoảng hơn 13.400 ha;
thu nhập bình qn trồng hoa, cây cảnh trên cả nước là 285 triệu
đồng/ha/năm. So với giá trị thu nhập/ha canh tác toàn ngành
trồng trọt là 82-83 triệu đồng/ha/năm, mức thu nhập này gấp gần
3,5 lần.
Trong vịng 10 năm gần đây (2005-2015) diện tích hoa đã
tăng hơn 2,3 lần, giá trị sản lượng tăng 7,2 lần, đạt 6.500 tỷ đồng;
trong đó, xuất khẩu xấp xỉ 50 triệu USD. Mức tăng giá trị thu nhập
trên một đơn vị hecta là 3 lần, hình thành nhiều mơ hình đạt từ
800 triệu đến 2,5 tỷ đồng trên một hecta. Theo ơng Trần Xn
Đinh, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, kết quả điều tra nhu cầu thị
trường hoa, cây cảnh của Việt Nam cho thấy, giai đoạn 2000 2011 trung bình mỗi năm tăng 9%; giai đoạn 2011-2015 tăng trên
11%. Mức độ tiêu dùng hoa, cây cảnh trung bình của người dân đô
thị đến năm 2014 là trên 130.000 đồng/người/năm. Ở nông thôn,
mức độ tiêu dùng tương ứng chỉ bằng 20% so với đơ thị, mức tăng
bình qn về cầu là 15%/năm. Các loại hoa thông thường, rẻ tiền
được tiêu thụ quanh năm và tập trung vào giữa và cuối tháng
phục vụ nhu cầu tâm linh; mức tiêu thụ đặc biệt cao trong các dịp
lễ hội hoặc sự kiện trọng đại và tăng rất lớn vào cuối năm, mùa
cưới và Tết âm lịch. Bên cạnh đó, thị trường cây cảnh, cây thế,
cây bon sai, cây lá màu cũng phát triển mạnh đáp ứng nhu cầu
trồng ở công sở, khu đô thị mới, dải phân cách đường giao thông
lớn… Đây sẽ là cơ hội lớn cho ngành hàng hoa, cây cảnh Việt Nam
phát triển.


II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HOA CÂY CẢNH Ở PHÚ THỌ
Phú Thọ là tỉnh thuộc vùng đông bắc Việt Nam. Phía Bắc giáp
tỉnh Tuyên Quang và Yên Bái, phía đơng giáp tỉnh Vĩnh Phúc, phía
đơng giáp huyện Ba Vì - thành phố Hà Nội, phía tây giáp tỉnh Sơn
La, phía nam giáp tỉnh Hịa Bình. Phú Thọ là tỉnh nằm trong quy
hoạch vùng thủ đơ Hà Nội.
Vị trí địa lý
7


8
Phú Thọ là một tỉnh Trung du miền núi phía Bắc của Việt
Nam, có vị trí trung tâm vùng và là cửa ngõ phía Tây Bắc của Thủ
đơ Hà Nội. Tỉnh Phú Thọ nằm trên trục hành lang kinh tế Hải
Phịng – Hà Nội – Cơn Minh (Trung Quốc), phía Đơng giáp tỉnh Vĩnh
Phúc, phía Tây tiếp giáp thành phố Hà Nội, phía Nam giáp tỉnh
Hồ Bình, phía Bắc giáp tỉnh Yên Bái và Tuyên Quang. Phú Thọ
cách sân bay quốc tế Nội Bài 50km, cách Trung tâm thành phố Hà
Nội 80km, cách cảng Hải Phòng 170km, cách cửa khẩu quốc tế Hà
Khẩu (giữa Lào Cai - Việt Nam và Vân Nam - Trung Quốc) và cửa
khẩu Thanh Thủy – Lạng Sơn 200km và là nơi hợp lưu của ba con
sông lớn: sông Hồng, sông Đà và sông Lô. Vị trí địa lý của Phú Thọ
đã tạo cho Phú Thọ có nhiều điều kiện thuận lợi và tiềm năng to
lớn để sản xuất kinh doanh, giao lưu, phát triển kinh tế với cả
trong nước và ngồi nước.
Phú Thọ cịn là mảnh đất cội nguồn, vùng đất tổ của dân tộc
Việt Nam. Tại đây có đền thờ các Vua Hùng và hệ thống di tích
lịch sử, lễ hội dày đặc, mỗi lễ hội có một sắc thái riêng đặc sắc và
độc đáo, là tiềm năng rất lớn để phát triển du lịch, dịch vụ.
Diện tích đất tự nhiên 3.532 km2, trong đó diện tích đất

nơng nghiệp là 97.610 ha, đất rừng là 195.000 ha với 64.064 ha
rừng tự nhiên, đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 10.000 ha, các
loại đất khác là 19.299 ha.

Phú Thọ nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung
bình hàng năm khoảng 23°C, lượng mưa trung bình hàng năm
khoảng 1.700 mm, độ ẩm trung bình năm khoảng 86%; có 2 tiểu
vùng chủ yếu gồm:
+ Tiểu vùng núi cao phía Tây và phía Nam của tỉnh, chủ yếu thuộc
các huyện Thanh Sơn, Yên Lập, phía Tây huyện Cẩm Khê….. là
vùng có nhiều tiềm năng phát triển về lâm nghiệp, khai thác
khoáng sản.
+ Tiểu vùng đồi gò thấp, xen kẽ đồng ruộng, dải đồng bằng ven
các triền sông Hồng. sông Lô và Sông Đà. Đây là vùng thuận lợi
cho việc trồng các loại cây nguyên liệu giấy, cây lương thực, cây
công nghiệp dài ngày như chè, cây ăn quả; thuận lợi cho phát
triển chăn nuôi và ni trơng thuỷ sản Có tiềm năng lớn để phát
triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp phù trợ,
công ngiệp chế biến…
8


9
Tỉnh Phú Thọ có trên 1,4 triệu người với 21 dân tộc anh em
cùng sinh sống. Số người trong độ tuổi lao động khoảng 800.000
người (60% dân số) trong đó lực lượng lao động trẻ chiếm 65%,
lao động qua đào tạo trên 40%.
Tỉnh Phú Thọ có 13 huyện, thành, thị gồm thành phố Việt Trì
(là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hoá của tỉnh Phú Thọ và là
thành phố về miền lễ hội cội nguồn các dân tộc Việt Nam), thị xã

Phú Thọ và các huyện: Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập, Cẩm Khê,
Tam Nông, Thanh Thuỷ, Hạ Hoà, Thanh Ba, Đoan Hùng, Lâm Thao,
Phù Ninh.
Trong 5 năm (2005-2010), tỉnh Phú Thọ đã đạt mức tăng
trưưởng¬ khá, GDP bình qn đạt 10,6% /năm; quy mơ của nền
kinh tế tăng 2,24 lần so với năm 2005 ; thu nhập bình quân đầu
người năm 2010 đạt 11,8 triệu đồng (tương đương với 637USD),
tăng 2,2 lần so với 2005 ; Cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao đông chuyển
dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng ngành Cơng nghiệp - xây dựng
đạt 38,6%, Nông - Lâm nghiệp: 25,6%, Dịch vụ: 35,8% (năm
2010).
Giáo dục đào tạo phát triển, chất lượng giáo dục được nâng
cao, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội học tập ; quy mô dào tạo
của các trường đại học và cao đẳng day nghề tiếp tục được mở
rộng, tăng 21,1% so với năm 2005. Mạng lưới y tế các tuyến được
củng cố, 100% các xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y
tế. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40%, giải quyết việc làm cho
90,7 nghìn người. Kết cấu hạ tầng được đầu tư và phát triển
mạnh, 100% số xã có đường ơ tơ đến trung tâm, có điện lưới quốc
gia và có điện thoại ; 100% số trạm y tế xã có bác sỹ và 100%
thơn bản có cán bộ y tế; năm 2007 đã hồn thành xóa nhà tạm
cho hộ nghèo.
1. Một số thuận lợi trong phát triển nghề hoa, cây

cảnh tại Phú Thọ
Phú Thọ nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung
bình hàng năm khoảng 23°C, lượng mưa trung bình hàng năm
khoảng 1.700 mm, độ ẩm trung bình năm khoảng 86%; có 2 tiểu
vùng chủ yếu gồm:
+ Tiểu vùng núi cao phía Tây và phía Nam của tỉnh, chủ yếu

thuộc các huyện Thanh Sơn, Yên Lập, phía Tây huyện Cẩm Khê…..
9


10
là vùng có nhiều tiềm năng phát triển về lâm nghiệp, khai thác
khoáng sản, sản xuất hoa và cây cảnh…
+ Tiểu vùng đồi gò thấp, xen kẽ đồng ruộng, dải đồng bằng
ven các triền sông Hồng. sông Lô và Sông Đà. Đây là vùng thuận
lợi cho việc trồng các loại cây nguyên liệu giấy, cây lương thực,
cây công nghiệp dài ngày như chè, cây ăn quả; thuận lợi cho phát
triển chăn ni và ni trơng thuỷ sản Có tiềm năng lớn để phát
triển các loại hoa nhiệt đới, một số loại hoa ơn đới có thời gian
sinh trưởng ngắn, có giá trị kinh tế cao.
Là một tỉnh nông nghiệp, diện tích đất tự nhiên lớn, nơng
dân cần cù giàu kinh nghiệm sản xuất, nghề trồng hoa có từ lâu
đời.
Thị trường hoa ngày càng được mở rộng từ nội địa đến tiềm
năng xuất khẩu hoa ra nước ngồi.
Tỉnh có chính sách khuyến khích trồng hoa, mở rộng đầu tư
và phát triển sản xuất hoa ở những nơi có điều kiện phù hợp.
Phú Thọ là một tỉnh Trung du miền núi phía Bắc của Việt
Nam, có vị trí trung tâm vùng và là cửa ngõ phía Tây Bắc của Thủ
đơ Hà Nội. Tỉnh Phú Thọ nằm trên trục hành lang kinh tế Hải
Phịng – Hà Nội – Cơn Minh (Trung Quốc), phía Đơng giáp tỉnh Vĩnh
Phúc, phía Tây tiếp giáp thành phố Hà Nội, phía Nam giáp tỉnh
Hồ Bình, phía Bắc giáp tỉnh Yên Bái và Tuyên Quang. Phú Thọ
cách sân bay quốc tế Nội Bài 50km, cách Trung tâm thành phố Hà
Nội 80km, cách cảng Hải Phòng 170km, cách cửa khẩu quốc tế Hà
Khẩu (giữa Lào Cai - Việt Nam và Vân Nam - Trung Quốc) và cửa

khẩu Thanh Thủy – Lạng Sơn 200km và là nơi hợp lưu của ba con
sông lớn: sông Hồng, sông Đà và sông Lô. Vị trí địa lý của Phú Thọ
đã tạo cho Phú Thọ có nhiều điều kiện thuận lợi và tiềm năng to
lớn để sản xuất kinh doanh, giao lưu, phát triển kinh tế với cả
trong nước và ngoài nước.
Đây là những điều kiện tương đối thuận lợi giúp Phú Thọ mở
rộng quy mô sản xuất và nâng cao chất lượng hoa, cây cảnh trong
tương lai.
2.Một số khó khăn, thách thức trong phát triển nghề
hoa, cây cảnh tại Phú Thọ.

10


11
Hoa, cây cảnh được đánh giá là một ngành hàng chủ lực góp
phần thực hiện tái cơ cấu ngành trồng trọt. Thực hiện Đề án tái
cấu trúc ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng
và phát triển bền vững đòi hỏi sự liên kết ngày càng chặt chẽ giữa
bốn nhà: nhà nông – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp - nhà quản
lý trong sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm nơng nghiệp nói chung
và lĩnh vực hoa, cây cảnh nói riêng để nâng cao giá chuỗi giá trị
từ sản xuất đến tiêu thụ trong lĩnh vực này. Tuy nhiên tình hình
sản xuất – tiêu thụ hoa, cây cảnh hiện nay còn nhiều hạn chế,
chưa tương xứng với thế mạnh và tiềm năng:
Chưa tạo ra nhiều giống hoa mới có chất lượng cao: Hầu hết
các giống hoa đều phải nhập từ nước ngoài; Chưa nhân nhanh
được các giống hoa quý từ nuôi cấy mô để đáp ứng yêu cầu trong
nước; Chưa nghiên cứu, xây dựng được nhiều mơ hình sản xuất
hoa ứng dụng cơng nghệ cao với quy mô lớn tại miền Bắc để các

địa phương đến tham quan học tập; Chưa nghiên cứu hoàn thiện
được qui trình điều khiển nở hoa cho hoa nở đúng dịp như ý
muốn; Chưa nghiên cứu các qui trình thu hái, xử lý, đóng gói, vận
chuyển hoa; Chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu,
chuyển giao, ứng dụng cho sản xuất và chưa là cầu nối giữa các
nhà sản xuất với nhau và giữa các nhà sản xuất với tiêu thụ sản
phẩm.
Thiếu quy hoạch; Sản xuất nhỏ lẻ, manh mún: Chưa có cơ sở
nhân giống tại chỗ ở những vùng sản xuất lớn; Việc áp dụng tiến
bộ kỹ thuật trong sản xuất hoa còn nhiều hạn chế nên chất lượng
hoa chưa cao, kỹ thuật trồng và chăm sóc để có cây, hoa cho sản
phẩm đẹp, mang tính nghệ thuật cao là rất khó trong khi kỹ năng
sản xuất của nơng dân cịn nhiều hạn chế; Cơng nghệ thu hái, xử
lý, đóng gói hoa chưa được quan tâm nên chất lượng hoa sau thu
hái, bảo quản giảm sút nhiều gây thiệt hại cho người sản xuất và
người tiêu dùng.
Chưa có sự liên kết giữa các cơ sở sản xuất: Chưa chú ý đến
khâu then chốt là “đầu ra”, số lượng doanh nghiệp tham gia vào
mắt xích này cịn q ít về số lượng và rất yếu về năng lực, trình
độ, thiếu chuyên nghiệp nên dẫn đến tình trạng hoa sản xuất
nhiều nhưng vẫn chưa đến tay người tiêu dùng; Các chủ doanh
nghiệp, hợp tác xã, chủ trang trại thiếu thông tin về sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm nên hiệu quả sản xuất không cao.

11


12
Mùa Hè nóng ẩm, nhiệt độ lên tới 30 C, mùa Đông lạnh số
ngày nhiệt độ dưới 15 C cao, mùa Đơng khơ, mùa mưa ẩm độ cao

khơng thích hợp cho nhiều giống hoa có nguồn gốc ơn đới chất
lượng cao.
Có ít giống hoa chất lượng cao thích nghi với điều kiện của
từng vùng.
Thiếu trang thiết bị nhà lưới, nhà kính, nhà bảo quản.
Thiếu đội ngũ cán bộ kỹ thuật, các nhà nghiên cứu về cây
hoa.
Nhà nước chưa có bản quyền về giống cây trồng.
Hoa nhập nội còn nhiều, hoa trong nước chưa đủ để đáp
ứng.

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOA VÀ CÂY ẢNH Ở PHÚ
THỌ

- Phát triển hoa, cây cảnh gắn với ứng dụng công nghệ cao:
Nông dân trồng hoa và doanh nghiệp trong lĩnh vực hoa –
cây cảnh cần tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ cao, gia
tăng liên kết sản xuất – tiêu thụ và nghiên cứu kỹ thị trường, chọn
hướng đầu tư sản xuất để đáp ứng đúng thị hiếu và nhu cầu của
thị trường. Hoa là lĩnh vực có cơ hội và điều kiện để gắn với hệ
thống sản xuất công nghệ cao, nhà kính nhà lưới, sản xuất theo
quy mơ cơng nghiệp. Cần tiếp tục duy trì việc đầu tư nguồn lực
cho khoa học cơng nghệ, xây dựng thành chương trình trọng điểm
quốc gia về nghiên cứu chọn tạo, nhập nội giống hoa, cây cảnh,
chú trọng điều tra, phục tráng, cải tiến và nhân các giống hoa bản
địa, nâng cao năng lực sản xuất hạt giống, cây giống bằng các
phương pháp truyền thống và cơng nghệ cao. Đồng thời hồn
thiện thể chế chính sách về đất đai, thuế, hỗ trợ đầu tư con giống,
công nghệ cao trong lĩnh vực hoa cây cảnh.
- Tăng cường liên kết “bốn nhà”:

12


13
Để phát huy những thuận lợi và khắc phục khó khăn chúng
ta phải thực sự kết nối chặt chẽ giữa nông dân – nhà khoa học doanh nghiệp sản xuất và phân phối hoa cùng nhà quản lý. Theo
đó, tập trung đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu chọn, tạo
giống hoa mới, xây dựng và hoàn thiện các quy trình cơng nghệ
theo hướng ứng dụng cơng nghệ cao; quy hoạch phát triển hợp lý
hoa - cây cảnh; Cán bộ khuyến nông cần tăng cường áp dụng và
chuyển nhanh tiến bộ kỹ thuật cho hoa, cây cảnh kể cả trong
nước và nhập khẩu để tranh thủ sản xuất; phân khúc trong dây
chuyền sản xuất từ khâu sản xuất giống hoa đến tiêu thụ sản
phẩm. Tăng cường quảng bá, xúc tiến thương mại cho ngành hoa
– cây cảnh cũng như hoàn thiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ
thiết thực/đặc thù đối với những địa phương sản xuất hoa - cây
cảnh.

13



×