Tải bản đầy đủ (.pdf) (161 trang)

nhan đề thơ chế lan viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 161 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP

TRẦN LIÊN QUANG

NHAN ĐỀ THƠ CHẾ LAN VIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

ĐỒNG THÁP - NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP

TRẦN LIÊN QUANG

NHAN ĐỀ THƠ CHẾ LAN VIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 8.22.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN VĂN LOAN

ĐỒNG THÁP – NĂM 2019


i


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Văn Loan đã gợi ý đề tài và tận
tình hướng dẫn tơi hồn thành tốt luận văn này.
Tơi cũng dành lời cảm ơn đến quý Thầy/Cô Bộ môn Ngôn ngữ Trường
Đại học Đồng Tháp đã giảng dạy chúng tôi trong suốt thời gian qua, xin cảm
ơn tập thể lớp đã nhiệt tình trao đổi kiến thức, cung cấp những tài liệu hữu
ích giúp tơi có nhiều dữ liệu khi nghiên cứu đề tài; cảm ơn gia đình, bạn bè,
người thân, đồng nghiệp ln hết lịng giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện cho
tơi trong q trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn!
Đồng Tháp, ngày 9 tháng 9 năm 2019
Tác giả luận văn

Trần Liên Quang


ii

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài này là do tôi độc lập nghiên cứu, xây dựng trên
cơ sở tiếp thu ý tưởng khoa học của các tác giả đi trước dưới sự hướng dẫn
của TS. Nguyễn Văn Loan.
Các cứ liệu, kết quả nêu ra trong đề tài là trung thực dựa trên sự tìm
tịi, nghiên cứu các tài liệu khoa học đã được cơng bố, bảo đảm tính khách
quan, khoa học và nghiêm túc, nếu sai tơi hồn chịu trách nhiệm.
Đồng Tháp, ngày 9 tháng 9 năm 2019
Tác giả luận văn

Trần Liên Quang



1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 3
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI................ 12
1.1. Những vấn đề chung về văn bản.................................................................. 12
1.1.1. Khái niệm văn bản ................................................................................ 12
1.1.2. Kết cấu của văn bản .............................................................................. 14
1.2. Văn bản nghệ thuật...................................................................................... 19
1.2.1. Đặc trưng của văn bản nghệ thuật......................................................... 19
1.2.2. Nhan đề của văn bản nghệ thuật ........................................................... 26
1.3. Một số vấn đề về tác giả Chế Lan Viên ....................................................... 27
1.3.1. Về cuộc đời ........................................................................................... 27
1.3.2. Về sự nghiệp sáng tác............................................................................ 27
1.3.3. Về phong cách sáng tác......................................................................... 29
1.4. Tiểu kết chương 1........................................................................................ 34
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NHAN ĐỀ THƠ CHẾ LAN VIÊN .............................. 35
2.1. Đặc điểm cấu tạo nhan đề............................................................................ 35
2.1.1. Nhan đề được cấu tạo bởi từ ................................................................. 36
2.1.2. Nhan đề được cấu tạo bởi một cụm từ ................................................... 53
2.1.3. Nhan đề được cấu tạo bởi một cấu trúc cú pháp.................................... 73
2.2. Đặc điểm nhan đề thơ Chế Lan Viên về mặt biểu thị ................................... 77
2.2.1. Nhan đề trực tiếp biểu thị nội dung của văn bản ................................... 77
2.2.2. Nhan đề gián tiếp biểu thị nội dung văn bản.......................................... 90
2.3. Tiểu kết chương 2....................................................................................... 98
Chương 3. GIÁ TRỊ PHONG CÁCH CỦA NHAN ĐỀ THƠ CHẾ LAN VIÊN ..100
3.1. Giá trị thẩm mĩ của nhan đề thơ Chế Lan Viên .......................................... 100
3.1.1. Nhan đề có tính gợi tả cao tạo ấn tượng thu hút người đọc ................. 100
3.1.2. Nhan đề mang giá trị biểu tượng tạo ra những liên tưởng đa chiều về nội

dung văn bản ................................................................................................ 102
3.1.3. Nhan đề mang tính định hướng giao tiếp phong phú ........................... 105


2

3.2. Giá trị phong cách của nhan đề thơ Chế Lan Viên ..................................... 108
3.2.1. Nhan đề mang tính suy tưởng .............................................................. 108
3.2.2. Nhan đề mang tính triết lí.................................................................... 112
3.2.3 Những biến chuyển về nhan đề trong thơ Chế Lan Viên qua các thời kì
sáng tác ........................................................................................................ 114
3.3. Tiểu kết chương 3...................................................................................... 119
KẾT LUẬN........................................................................................................ 121
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................. 123


3

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tác phẩm văn chương được xem là “đứa con tinh thần” của nhà văn,
nó là kết quả của một q trình “thai nghén” trong tư tưởng và được hiện thực
hóa bằng sự lao động cần mẫn, nghiêm túc của người nghệ sĩ. Do đó, khi một
tác phẩm nghệ thuật ra đời, tác giả bao giờ cũng quan tâm lựa chọn và đặt cho
tác phẩm của mình một cái tên, tức nhan đề tác phẩm.
1.2. Nhan đề tác phẩm nghệ thuật không đơn thuần chỉ mang ý nghĩa
định danh cho tác phẩm hay tạo ấn tượng ban đầu, tạo sự hấp dẫn, thu hút sự
chú ý của độc giả. Nhan đề tác phẩm còn chứa đựng đề tài, nội dung hoặc chủ
đề của tác phẩm mà tác giả muốn gửi gắm vào đó. Đơi khi, nhan đề tác phẩm
đồng thời cũng là một điểm sáng thẫm mĩ, là tín hiệu nghệ thuật cần khai thác

để làm sáng tỏ chủ đề tác phẩm. Có nhan đề nêu lên đề tài của tác phẩm như
“Đất nước” của Nguyễn Đình Thi, có nhan đề hướng vào tư tưởng chủ đề của
tác phẩm như “Vội vàng” của Xuân Diệu, có nhan đề gửi gắm một thơng điệp
sâu sắc nào đó như “Thuốc” của Lỗ Tấn, có nhan đề khơi gợi một ý nghĩ, một
nhu cầu tìm tịi khám phá ở người đọc như “Ai đã đặt tên cho dịng sơng ?”
của Hồng Phủ Ngọc Tường… Nói khác đi, giữa nhan đề và nội dung tư
tưởng tác phẩm có mối quan hệ tương liên, chi phối lẫn nhau. Với nhà thơ,
nhan đề tác phẩm là nơi gửi gắm tư tưởng, truyền tải thông điệp đến người
đọc. Với người đọc, nhan đề tác phẩm là đầu mối để nhận diện và cảm thụ tác
phẩm. Cùng với tác phẩm văn học, nhan đề là cầu nối giữa bạn đọc với nhà
thơ. Như vậy, nhan đề là một hình thức nghệ thuật chứa đựng linh hồn tác
phẩm. Muốn tìm hiểu sâu sắc một tác phẩm, trước tiên, người đọc tiếp cận từ
nhan đề của nó.
1.3. Chế Lan Viên là nhà thơ lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam.
Chế Lan Viên có phong cách thơ độc đáo. Từ thế giới kinh dị, thần bí của


4

Điêu tàn, sau Cách mạng, thơ ông ngày càng bắt rễ sâu vào đời sống rộng lớn
của nhân dân và đất nước. Dù trước hay sau Cách mạng, thơ Chế Lan Viên
ln mang một vẻ đẹp trí tuệ, ln có ý thức khai thác triệt để những tương
quan đối lập, giàu chất suy tưởng triết lí với thế giới hình ảnh đa dạng, phong
phú đầy sáng tạo. Tìm hiểu về thơ ca Chế Lan Viên, độc giả có thể nhận thấy
cách đặt nhan đề tác phẩm của ông rất phong phú đa dạng và độc đáo, thể
hiện rõ dấu ấn phong cách nghệ thuật cũng như tư tưởng của ông. Qua từng
tập thơ, từng nhan đề thi phẩm của Chế Lan Viên, chúng ta có thể thấy con
đường thơ của ông trải qua nhiều chặng đường với những bước ngoặt đánh
dấu sự chuyển biến tư tưởng và những tìm tịi đổi mới nghệ thuật của nhà thơ.
Cho đến nay, những cơng trình nghiên cứu về thơ Chế Lan Viên khá nhiều.

Song, trên lĩnh vực ngơn ngữ, chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu cụ thể về
nhan đề tác phẩm của ơng. Mặt khác, thơ Chế Lan Viên có một vị trí quan
trọng trong Chương trình Ngữ văn phổ thơng. Do đó, việc tìm hiểu nhan đề
tác phẩm của ông sẽ giúp cho việc định hướng tiếp cận tác phẩm Chế Lan
Viên, nhằm bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của bản thân
người viết, đồng thời mở ra một hướng nghiên cứu mới đối với những tác
phẩm của những tác giả khác trong chương trình Ngữ văn phổ thơng.
Từ những lí do trên, chúng tơi lựa chọn đề tài “Nhan đề thơ Chế Lan
Viên” để nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Những cơng trình nghiên cứu về nhan đề thơ ở Việt Nam
- Ở Việt Nam hiện nay, chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu chuyên sâu
về nhan đề thơ, chỉ xuất hiện những bài báo, bài tiểu luận về nhan đề tác
phẩm văn học với nhiều cấp độ khác nhau. Trong đó, có thể kể đến những bài
viết tiêu biểu như sau:


5

Trong báo Văn nghệ, tác giả Bùi Mạnh Nhị đã có bài “Về nhan đề bài
thơ” ở mục “Sổ tay người u thơ”. Trong bài viết đó, ơng đã dẫn ra một số
cách đặt nhan đề bài thơ của tác giả văn học và xem nhan đề là một chi tiết,
một tín hiệu nghệ thuật mang tính khái quát cao. Theo ông, việc đặt nhan đề
cho tác phẩm văn học là việc rất quan trọng của người làm thơ.
Nguyễn Đình San, Đặt tên cho tác phẩm, xin đừng xem nhẹ, đăng trên
Văn nghệ Công an, số ra ngày 16/6/2010. Trong bài viết này, Nguyễn Đình
San khẳng định việc đặt tên cho tác phẩm văn chương là một việc mà người
sáng tác rất cần để tâm vì nó ảnh hưởng ít nhiều đến thái độ tiếp cận tác phẩm
của người đọc.
Tác giả Trần Quang Đại với bài viết Dạy học văn hãy bắt đầu từ nhan đề

tác phẩm, đăng trên trang web ngày
02/04/2012, đã khẳng định “có nhiều con đường để tiếp cận với những giá trị
của tác phẩm, trong đó có một phương pháp khá đơn giản và hữu hiệu là tiếp
cận từ chính nhan đề của tác phẩm.” Tác giả cũng lưu ý: “Trong một số
trường hợp, nếu không chú ý đúng mức đến nhan đề sẽ dẫn đến những ngộ
nhận khơng đáng có về nội dung tác phẩm.”
Trong Báo điện tử của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Website
Hyperlink reference not valid.),

Error!

ngày 07/10/2013, tác giả Thùy Dương đã có bài

“Nhan đề tác phẩm văn chương – một khía cạnh sáng tạo thú vị”. Trong đó,
tác giả đã xem xét cách đặt nhan đề tác phẩm chịu sự chi phối của đặc trưng
thể loại, phong cách, kiểu tác giả, tư tưởng chủ đề, chất liệu đề tài, cách thức
thể hiện và hệ thống nhân vật trung tâm, ý thức văn phong, lối viết của từng
thời đại. đồng thời tác giả cũng khẳng định “Nhan đề giữ vị trí quan trọng đối
với khơng chỉ người sáng tác mà đối với cả người tiếp nhận”.
Hồng Kim Ngọc có bài viết “Tên - Dưới góc nhìn ngơn ngữ và văn
hóa” đăng trên trang Website mục Nghiên cứu,


6

ngày 26/7/2016. Nội dung chính của bài viết được tóm tắt như sau: Cái tên có
giá trị định danh đặc biệt, để tạo thương hiệu và thường có ảnh hưởng sâu sắc
tới người sở hữu tên đó, người sáng tạo ra nhan đề nó. Vì thế khi đặt tên riêng
người, tên nhân vật, tên tác phẩm văn chương hay các tít báo thì cần phải chú
ý tới một số điều kiện và yêu cầu nhất định. Cái tên hay, ấn tượng sẽ khởi đầu

cho một sự giao tiếp tốt đẹp. Tuy nhiên, ấn tượng tốt đẹp ấy có bền lâu hay
khơng cịn phụ thuộc vào tính cách của người đó, nội dung của tác phẩm đó
có hài hịa với cái tên không. Tất cả những điều này đều nằm trong quy luật
tương tác giữa văn hóa, tâm lí và ngơn ngữ.
Trong một số cơng trình nghiên cứu ở lĩnh vực lí luận văn học, ngơn ngữ
học văn bản, vấn đề nhan đề tác phẩm văn học cũng được các tác giả đề cập
đến, song cũng chỉ ở mức khái quát, chưa chuyên sâu hoặc chỉ nghiên cứu ở
một khía cạnh nhất định. Có thể kể đến như:
Điệp Quang Ban có cơng trình Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, NXB
Giáo dục Việt Nam, 2010. Trong cơng trình này, nhan đề tác phẩm chỉ được
ông đề cập đến trong phần nghiên cứu về Kết cấu tổng thể thường gặp của
văn bản. Nghĩa là, nhan đề tác phẩm được ông nêu ra chỉ để phục vụ cho việc
diễn giải một vấn đề khác mà chưa đi sâu phân tích về nhan đề trên nhiều góc
độ khác nhau.
Nguyễn Thị Ly Kha có Ngữ pháp văn bản và luyện tập làm văn, NXB
Giáo dục Việt Nam, 2014. Trong cơng trình này, tác giả cũng chỉ đề cập đến
nhan đề để phục vụ cho việc triển khai nội dung Bố cục của văn bản.
Tác giả Nguyễn Thanh Bình có Nhan đề truyện ngắn Nam Cao, Luận
văn Thạc sĩ, Trường Đại học Tây Bắc, 2015. Trong luận văn này, tác giả có đi
sâu nghiên cứu về nhan đề, tác giả tập trung ở góc độ đặc điểm nhan đề
truyện ngắn của nhà văn Nam Cao.


7

Như vậy, nhan đề thơ cũng đã được quan tâm nghiên cứu nhưng ở mức
độ khiêm tốn, chỉ tập trung ở một khía cạnh nhất định.
Quan niệm nhan đề là “tiêu điều”, tác giả Trịnh Sâm có nhiều bài báo,
cơng trình nghiên cứu, trong đó nổi bật là những tác phẩm sau:
Trịnh Sâm (1994), Cấu trúc của tiêu đề văn bản Tiếng Việt trong phong

cách ngôn ngữ thông tấn báo chí. Tạp chí Khoa học Xã hội, Số 22, Viện
Khoa học Xã hội Tp.HCM.
Trịnh Sâm (1995), Tiêu đề văn bản trong sách giáo khoa. Tạp chí Giáo
dục, Số 1, Viện Nghiên cứu Giáo dục và Đào tạo phía Nam.
Trịnh Sâm (1995), Bản chất của tiêu đề văn bản và việc miêu tả phân
loại chúng. Thông tin Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM, Số 4.
Trịnh Sâm (1995), Lỗi tiêu đề văn bản. Tạp chí Ngơn ngữ và Đời sống,
Số 3 (5), Hà Nội.
Trịnh Sâm (1995), Cấu trúc của tiêu đề văn bản Tiếng Việt trong phong
cách ngôn ngữ trong văn chương. Tạp chí Văn học, Số 7, Hà Nội.
Trịnh Sâm (1996), Vai trò và cương vị của tiêu đề văn bản. Trong kỷ
yếu “Hai mươi năm một chặng đường nghiên cứu”, Khoa Ngữ văn, Trường
Đại học Sư phạm Tp.HCM.
Song, nhìn chung, những cơng trình nêu trên của tác giả Trịnh Sâm chủ
yếu nghiên cứu tiêu đề ở góc độ khái quát, cụ thể là tiêu đề của văn bản nói
chung. Tác giả chưa phân loại riêng tiêu đề văn bản thơ và tiêu đề văn bản
văn xuôi, chưa đi sâu phân tích tiêu đề những tác phẩm của một nhà thơ
cụ thể.
2.2. Những cơng trình nghiên cứu về nhan đề thơ Chế Lan Viên
Thơ Chế Lan Viên là một hiện tượng văn học rất phức tạp, tập trung
nhiều ý kiến đánh giá khơng thống nhất, thậm chí trái ngược nhau. Các nhà
nghiên cứu đã dùng nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá, phân tích, tìm


8

tòi thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên. Đã từng tồn tại hai khuynh hướng
nghiên cứu khác nhau theo quan điểm văn học Mác xít và quan điểm nghệ
thuật tư sản trước đây ở Miền Nam cùng về tác giả văn học này. Chủ yếu các
ý kiến xoay quanh việc đánh giá thơ Chế Lan Viên ở hai giai đoạn sáng tác

trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tiêu biểu như:
Phan Cự Đệ - Hà Minh Đức, Chế Lan Viên – Nhà văn Việt Nam 1945 –
1975 (tập 1), Nxb Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội, 1979.
Vũ Tuấn Anh, Chế Lan Viên – Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1984.
Nguyễn Văn Long, Chế Lan Viên Văn học Việt Nam 1945 – 1975 (II) Hà
Nội, 1990.
Đoàn Trọng Huy, Suy nghĩ về quan niệm thơ – quan niệm nghệ thuật
của Chế Lan Viên, Thông báo khoa học Ngữ văn ĐHSP Hà Nội I, số 3
Hà Nội, 1992.
Nguyễn Bá Thành, Thơ Chế Lan Viên với phong cách suy tưởng, Nxb
Giáo dục, Hà Nội 1999.
Đoàn Trọng Huy, Nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Nxb Đại học
Sư phạm, 2006.
Những cơng trình nghiên cứu nêu trên đều tập trung nghiên cứu Chế Lan
Viên về mặt đóng góp của ơng trong nền văn học hiện đại Việt Nam trên các
mặt: quan niệm sáng tác, thể loại văn học, những đổi mới trong tư tưởng nghệ
thuật, phong cách nghệ thuật… nổi bật nhất là có nhiều nghiên cứu về phong
cách thơ Chế Lan Viên. Trong đó, tác giả Đồn Trọng Huy có nhiều đóng góp
đáng kể. Trong cuốn Nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, tác giả Đoàn Trọng Huy
đã đánh giá khá toàn diện và đầy đủ về tư duy nghệ thuật và phong cách thơ
của Chế Lan Viên ở tất cả các giai đoạn sáng tác. Trong đó, tác giả có đề cập
đến một số nhan đề thơ Chế Lan Viên, song cũng chỉ điểm qua một số nhan


9

đề mà chưa đi sâu phân tích đặc điểm, giá trị của những nhan đề này. Các
cơng trình của những tác giả khác cũng làm nổi bật những giá trị của thơ văn
Chế Lan Viên, song mỗi tác giả chỉ tập trung nghiên cứu ở một khía cạnh

nhất định.
Như vậy, Chế Lan Viên là một hiện tượng văn học được nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu, song đến nay vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu
chun sâu về nhan đề thơ Chế Lan viên.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nhan đề tác phẩm thơ Chế Lan Viên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Để hoàn thiện đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát các tác phẩm thơ
ca của Chế Lan Viên. Tư liệu chủ yếu mà chúng tôi thu thập và khảo sát
nghiên cứu là các cơng trình sau:
Vũ Thị Thường (2009), Chế Lan Viên toàn tập, tập I, Nxb Văn Học.
Vũ Thị Thường (2009), Chế Lan Viên toàn tập, tập II, Nxb Văn Học.
Vũ Thị Thường (2009), Chế Lan Viên toàn tập, tập III, Nxb Văn Học.
Vũ Thị Thường (2009), Chế Lan Viên toàn tập, tập IV, Nxb Văn Học.
Vũ Thị Thường (2009), Chế Lan Viên toàn tập, tập V, Nxb Văn Học.
Vũ Thị Thường (tuyển chọn, 2017), Tuyển tập thơ Chế Lan Viên, Nxb
Hội Nhà văn.
Tổng số bài thơ chúng tôi khảo sát là: 916 bài của các tập thơ sau:
Điêu tàn (1937): 36 bài.
Sau Điêu tàn (1937 – 1942): 34 bài.
Gửi các anh (1950 – 1959): 13 bài.
Ánh sáng và phù sa (1955 – 1960): 69 bài.
Hoa ngày thường, chim báo bão (1961 – 1967): 49 bài.


10

Những bài thơ đánh giặc (1970 – 1972): 3 bài.
Đối thoại mới (1967 – 1973): 68 bài.

Hoa trước lăng Người (1954 – 1976): 14 bài.
Hái theo mùa (1973 – 1977): 76 bài.
Hoa trên đá (1984): 79 bài.
Ta gửi cho mình (1986): 5 bài.
Di cảo thơ: 470 bài.
4. Mục đích nghiên cứu
- Từ kết quả thống kê, mơ tả, phân tích đặc điểm ngôn ngữ trong nhan đề
tác phẩm thơ Chế Lan Viên, đề tài hướng tới mục đích làm sáng tỏ những giá
trị về mặt cấu trúc và nội dung của nhan đề tác phẩm thơ Chế Lan Viên.
- Rút ra một số đặc trưng khái quát của nhan đề tác phẩm thơ Chế Lan
Viên, từ đó định hướng cho việc tiếp cận và cảm thụ tác phẩm của Chế Lan
Viên nói riêng và rộng ra là tác phẩm thơ ca nói chung thơng qua nhan đề
tác phẩm.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan các vấn đề lí thuyết liên quan đến đề tài.
- Thu thập ngữ liệu các bài thơ của Chế Lan Viên.
- Phân tích mơ tả các nhan đề tác phẩm trên hai mặt cấu trúc và
nội dung.
- Rút ra một số đặc trưng của nhan đề thơ của Chế Lan Viên.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp thống kê, phân loại
Chúng tôi dựa vào phương pháp này để tiến hành thống kê, phân loại
nhan đề thơ Chế Lan Viên. Sau đó đi vào phân tích cấu trúc và nội dung của
các nhan đề này.


11

6.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong suốt quá trình thực

hiện. Phương pháp này được thực hiện sau khi có kết quả thống kê, phân loại
những nhan đề thơ Chế Lan Viên. Phương pháp phân tích, tổng hợp giúp
chúng tơi phân tích ngữ liệu và đưa ra được những kết luận khoa học có giá trị
lí luận và thực tiễn về nhan đề thơ Chế Lan Viên.
6.3. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh được thực hiện với những đối tượng sau: nhan đề thơ
Chế Lan Viên giữa các tập thơ, giữa các giai đoạn sáng tác; nhan đề thơ Chế Lan
Viên với nhan đề thơ của các nhà thơ khác.
Chúng tơi sử dụng phương pháp so sánh với mục đích làm rõ và đánh giá
những đặc điểm ngôn ngữ nhan đề thơ Chế Lan Viên từ đó thấy được giá trị và
những biến đổi trong sáng tạo nghệ thuật của ơng.
7. Đóng góp của đề tài
Về lí luận: đề tài góp phần bổ sung một số vấn đề lí thuyết về đặc điểm
ngôn ngữ nhan đề tác phẩm thơ ca nói chung và thơ ca Chế Lan Viên nói
riêng, qua đó giúp định hướng cho việc nghiên cứu tìm hiểu sâu hơn về ngôn
ngữ nghệ thuật.
Về thực tiễn: những kết quả nghiên cứu của đề tài là ngữ liệu quan trọng
cho việc nghiên cứu giảng dạy, học tập và cảm thụ tác phẩm thơ của Chế Lan
Viên. Đây là điểm tựa quan trọng cho việc tìm hiểu nghiên cứu chuyên sâu về
phong cách nghệ thuật Chế Lan Viên.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung liên quan đến đề tài
Chương 2: Đặc điểm nhan đề thơ Chế Lan Viên
Chương 3: Giá trị phong cách của nhan đề thơ Chế Lan Viên.


12

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Những vấn đề chung về văn bản
1.1.1. Khái niệm văn bản
Ở Việt Nam, văn bản được xem là đối tượng nghiên cứu của Ngôn ngữ học
từ nửa cuối thế kỉ XX. So với các phân ngành khác về Việt ngữ học thì Ngơn
ngữ học văn bản xuất hiện muộn hơn. Từ đó đến nay, trong các tài liệu nghiên
cứu viết bằng tiếng Việt và tài liệu được dịch sang tiếng Việt, đã xuất hiện khá
nhiều định nghĩa về văn bản. Tùy vào cách tiếp cận, các nhà nghiên cứu có cách
quan niệm về văn bản khác nhau. Chỗ khác nhau giữa các định nghĩa là ở góc
nhìn văn bản (văn bản là sản phẩm hay quá trình), ở quan niệm rộng hẹp về văn
bản (đồng nhất hay phân biệt với ngôn bản), về các đặc trưng nội dung và cấu
trúc hình thức của văn bản,… Sau đây là một số quan niệm về văn bản:
Theo sách giáo khoa Ngữ văn 10: “Văn bản là sản phẩm của hoạt động
giao tiếp bằng ngôn ngữ, gồm một hay nhiều câu, nhiều đoạn và có những đặc
điểm sau: mỗi văn bản tập trung thể hiện một chủ đề và triển khai chủ đề đó
một cách trọn vẹn; các câu trong văn bản có sự liên kết chặt chẽ, đồng thời cả
văn bản được xây dựng theo một kết cấu mạch lạc; mỗi văn bản có dấu hiệu
biểu hiện tính hồn chỉnh về nội dung, thường mở đầu bằng một nhan đề và
kết thúc bằng hình thức thích hợp với từng loại văn bản; mỗi văn bản nhằm
thực hiện một (hoặc một số) mục đích giao tiếp nhất định” [36, 24]
Trong cuốn 777 Khái niệm ngôn ngữ học, Nguyễn Thiện Giáp đã khái
quát: “Văn bản là một phần liên tục của ngơn ngữ nói hoặc viết, một phần
riêng biệt có thể nhận ra sự mở đầu và sự kết thúc. Khái niệm văn bản được
hiểu một cách khác nhau:


13

- Một số nhà ngôn ngữ học hiểu văn bản khơng khác gì diễn ngơn, do đó

hai thuật ngữ này có thể dùng thay thế cho nhau.
- Một số nhà ngôn ngữ học hiểu văn bản là một sản phẩm ít nhiều mang
tính vật chất hơn diễn ngơn, nó là kết quả của diễn ngôn, trong khi diễn ngôn
được coi như một quá trình dẫn đến tạo ra một văn bản.
- Một số nhà ngôn ngữ học hiểu văn bản là một phần của ngơn ngữ có
những mục đích có thể nhận diện được, tiếp cận văn bản sẽ nhanh chóng dẫn
tới việc phân loại chúng thành một số loại khác nhau về mục đích và đặc
trưng ngơn ngữ.
- Một số nhà ngôn ngữ học coi văn bản là một sự trừu tượng hóa, mà
diễn ngơn là sự hiện thực hóa về vật chất của một văn bản.
- Cuối cùng, một số nhà ngôn ngữ học coi văn bản là sản phẩm viết, cịn
diễn ngơn là sản phẩm nói.” [20, 475].
Theo tác giả Nguyễn Thị Ly Kha: “Câu được xem là đơn vị bản lề giữa
hệ thống đơn vị ngôn ngữ và đơn vị lời nói. Tuy nhiên, để trao đổi thông tin,
giao tiếp, người ta không sử dụng những câu đơn lẻ, rời rạc mà dùng ngôn
bản. Ngôn bản là đơn vị lớn nhất của hoạt động giao tiếp. Hiện nay, để chỉ
loại sản phẩm của quá trình tạo lời, có tính thống nhất trọn vẹn về nội dung ý
nghĩa, hồn chỉnh về hình thức, có hai cách gọi ngôn bản và văn bản. Thuật
ngữ ngôn bản thường được dùng với nghĩa chỉ sản phẩm của quá trình tạo lời
tồn tại dưới dạng nói. Song cũng khơng ít người gộp chung sản phẩm tồn tại ở
dạng nói lẫn dạng viết và gọi chung là ngôn bản. Tương tự, thuật ngữ văn bản
vẫn được dùng với hai nghĩa. Theo nghĩa rộng, văn bản có thể tồn tại ở dạng
nói hoặc viết, trong đó, dạng viết là chủ yếu. Theo nghĩa hẹp, văn bản được
hiểu là sản phẩm ngơn ngữ hồn chỉnh và tồn tại dưới dạng viết. Có thể định


14

nghĩa văn bản là sản phẩm của quá trình tạo lời, có tính thống nhất trọn vẹn
về nội dung ý nghĩa và hồn chỉnh về hình thức” [28, 9-10].

Theo Từ điển tiếng Việt: văn bản là “1. Bản viết hoặc in, mang nội dung
là những gì cần được ghi để lưu lại làm bằng. Nghiên cứu văn bản cổ. Viết
thành văn bản. Văn bản tiếng Việt của hiệp định kí kết giữa hai nước. 2.
Chuỗi kí hiệu ngơn ngữ hay nói chung những kí hiệu thuộc một hệ thống nào
đó, làm thành một chỉnh thể mang một nội dung ý nghĩa trọn vẹn. Ngôn ngữ
học văn bản” [42, 1395].
Ở luận văn này, chúng tôi căn cứ vào định nghĩa trong sách giáo khoa
Ngữ văn 10 về văn bản để làm cơ sở triển khai đề tài.
1.1.2. Kết cấu của văn bản
Kết cấu của văn bản là kết quả của việc sắp xếp, tổ chức các bộ phận
ngơn từ có nghĩa của văn bản theo một hình thức nhất định. Văn bản có thể có
kết cấu một phần, hai phần, ba, bốn, năm, sáu, bảy phần. Ví dụ văn bản có kết
cấu một phần: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” (Tục ngữ Việt Nam); văn
bản có kết cấu bốn phần: đề (câu 1, 2), thực (câu 3, 4), luận (câu 5, 6), kết
(câu 7, 8) của một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật;…
Một cách khái quát, kết cấu đầy đủ và phổ biến thường dùng của một
văn bản gồm có bốn thành tố: nhan đề, phần mở, phần thân, phần kết thúc.
1.1.2.1. Nhan đề
Trên thực tế, có nhiều cách hiểu khác nhau về “nhan đề”.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Nhan đề là tên đặt cho cuốn sách hoặc
bài viết” [42, 891].


15

Trong cuốn Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Diệp Quang Ban gọi là
“đầu đề”: “Đặt đầu đề cho một văn bản ngày nay đã trở thành một “nghệ
thuật” phức tạp mà yếu tố chi phối là mục đích sử dụng văn bản…” [4, 106].
Trong Ngữ pháp văn bản và luyện tập làm văn, Nguyễn Thị Ly Kha
cũng gọi là “đầu đề”: “Đầu đề là tên gọi của văn bản, gắn bó mật thiết với

các bộ phận của văn bản. Văn bản có thể có hoặc khơng có đầu đề (các bài
ca dao, các câu tục ngữ là những văn bản khơng có đầu đề). Nhưng đã là văn
bản thì có khả năng đặt được đầu đề. Có thể nói đầu đề cũng là một bộ phận
cấu thành văn bản” [27, 29].
Trong khuôn khổ đề tài này, chúng tôi quan niệm về nhan đề như sau:
Nhan đề là tên chung của một văn bản, một tác phẩm, nó là cái nổi bật
nhất để phân biệt văn bản, tác phẩm này với văn bản, tác phẩm khác. Nhan đề
do người tạo lập hay sưu tầm, giới thiệu đặt ra, đặt lại, và là một bộ phận
thuộc cấu trúc hình thức của văn bản.
Vai trị chính của nhan đề văn bản có tác dụng giới thiệu sơ bộ, khái qt
và cơ đọng nội dung văn bản. Nhan đề cũng chính là một căn cứ để nhận ra sự
hoàn chỉnh kể cả nội dung và hình thức của một văn bản. Tuy nhiên, yếu tố
nhan đề khơng có tính chất bắt buộc một cách tuyệt đối. Một số loại hình văn
bản có thể khơng có nhan đề, chẳng hạn như khẩu hiệu, các bài ca dao,
tục ngữ,…
Giá trị của nhan đề thể hiện ở sự gắn chặt với tìm tịi của tác giả, ở một
vài trường hợp như bằng chứng về những đóng góp cụ thể của nhà văn trong
lao động nghệ thuật. Độc giả không chú ý, không biết đến nhan đề, hoặc
khơng xuất phát từ nhan đề thì hiệu quả giao tiếp có thể giảm đi khá nhiều. Dĩ
nhiên, khơng phải nhan đề nào cũng thâu tóm đầy đủ chủ đề tư tưởng văn bản,
biểu hiện nội dung chính văn bản một cách độc đáo. Nhưng, nhan đề thường


16

giữ vị trí quan trọng như những tín hiệu chỉ dẫn con đường đi vào nghệ thuật
của tác phẩm.
Có nhiều cách để phân loại nhan đề:
Xét trong mối quan hệ với nội dung cơ bản của các phần còn lại của văn
bản, có thể chia nhan đề thành hai loại chính: nhan đề mang tính chất dự báo

(thơng báo) và nhan đề mang tính chất nghệ thuật.
Nhan đề mang tính chất dự báo:
Nhan đề mang tính chất dự báo là loại nhan đề cung cấp một phần hay
toàn bộ nội dung cơ bản của văn bản. Ở đây, nhan đề có thể được tiếp tục chia
thành những tiểu loại: Loại nêu đề tài (ví dụ: Hai đứa trẻ - Thạch Lam, Tây
Tiến – Quang Dũng, Nắng mới của Lưu Trọng Lư – Lê Tiến Dũng) hay nêu
chủ đề của văn bản (ví dụ: Đại cáo bình Ngơ – Nguyễn Trãi, Đoạn trường tân
thanh – Nguyễn Du, Đôi mắt – Nam Cao, Bước đường cùng – Nguyễn Công
Hoan, Vội vàng – Xuân Diệu); hoặc loại phản ánh trực tiếp hay phản ánh
gián tiếp nội dung của văn bản. Ví dụ các nhan đề sau trực tiếp phản ánh nội
dung văn bản: Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh), Bắt sấu rừng U Minh
Hạ (Sơn Nam), Lão Hạc (Nam Cao); các nhan đề gián tiếp phản ánh nội dung
văn bản: Cuộc chia li màu đỏ (Nguyễn Mỹ), Từ ấy (Tố Hữu),…
Nhan đề mang tính chất nghệ thuật:
Nhan đề mang tính nghệ thuật là những nhan đề được đặt ra với mục
đích chủ yếu là tạo sự chú ý, lôi cuốn người đọc hoặc kích thích sự liên tưởng,
tưởng tượng của người đọc. Để đặt nhan đề dạng này, người tạo lập văn bản
phải có tính sáng tạo và có tư duy nghệ thuật, đồng thời nó cũng đặt ra những
yêu cầu nhất định về khả năng lĩnh hội của người tiếp nhận văn bản. Sau đây
là một số ví dụ nhan đề mang tính chất nghệ thuật: Đồng hào có ma, Người


17

ngựa và ngựa người (Nguyễn Công Hoan), Số đỏ (Vũ Trọng Phụng), Màu
thời gian (Đoàn Phú Tứ), Những sợi tơ lòng (Chế Lan Viên),…
Tuy nhiên, sự phân chia nhan đề như trên chỉ mang tính tương đối nhằm
phục vụ cho cơng tác nghiên cứu, bởi trên thực tế có nhiều nhan đề vừa mang
tính dự báo nội dung vừa mang tính chất nghệ thuật, nhiều nhất là trong văn
bản nghệ thuật.

Xét về mặt ngơn từ, nhan đề có thể được cấu tạo bằng từ, ngữ, hay bằng
cú, câu. Chẳng hạn, nhan đề được cấu tạo bằng từ: Đồng chí (Chính Hữu),
Tương tư (Nguyễn Bính), Vội vàng (Xn Diệu), Sóng (Xn Quỳnh), Điêu
tàn (Chế Lan Viên). Nhan đề được cấu tạo bằng ngữ: Đàn ghi ta của Lor-ca
(Thanh Thảo), Thuyền và biển (Xn Quỳnh), Người hàng xóm (Nguyễn
Bính). Nhan đề được cấu tạo bằng cú hay câu: Đất nước đứng lên (Ngun
Ngọc), Trẻ con khơng được ăn thịt chó (Nam Cao), Ta đi tới (Tố Hữu), Ai đã
đặt tên cho dòng sơng ? (Hồng Phủ Ngọc Tường).
Như vậy, nhan đề của một văn bản có thể được phân loại theo nhiều
dạng khác nhau. Dù được phân loại theo dạng nào, nhan đề cũng đều có giá
trị là định danh cho văn bản và có giá trị xác định giới hạn nội dung của văn
bản. Thơng qua nhan đề, người đọc có thể có được cái nhìn khái qt và cảm
nhận ban đầu về văn bản. Chính vì vậy, người tạo lập văn bản thường rất chú
trọng việc đặt nhan đề cho văn bản. Trong tác phẩm văn chương, việc đặt
nhan đề cịn mang một ý nghĩa lớn hơn đó là một sáng tạo nghệ thuật của
nhà văn.
1.1.2.2. Phần mở
Tùy vào mỗi loại văn bản, phần mở sẽ có nội dung tương ứng. Chẳng
hạn, phần mở của văn bản nghị luận thường nêu lên đề tài, giới hạn phạm vi
nghị luận. Phần mở của văn bản miêu tả thường kèm những yếu tố thuộc hoàn


18

cảnh không gian, thời gian của đối tượng miêu tả. Phần mở của văn bản nghệ
thuật thì linh hoạt đa dạng, phong phú tùy thuộc vào đề tài, chủ đề mà nhà văn
muốn thể hiện. Nhìn chung, phần mở của các loại văn bản đều nêu lên những
yếu tố nội dung sau: đề tài, chủ đề của văn bản; khung cảnh chung của đề tài,
chủ đề; giới hạn nội dung được trình bày trong văn bản, định hướng cụ thể
cho việc khai triển đề tài, chủ đề ở phần tiếp theo, tức là phần thân.

Về hình thức, phần mở thường được viết ngắn gọn, cô đọng. Về nội
dung, phần mở thường mang nội dung khái qt và có tính chất gợi mở. Phần
mở hay là phần mở được viết vừa cơ đọng vừa có sức lơi cuốn sự chú ý của
người đọc.
1.1.2.3. Phần thân
Phân thân của văn bản là phần chính và có nhiệm vụ chính là triển khai
đầy đủ, trọn vẹn đề tài, chủ đề được gợi ra ở nhan đề và được nêu ở phần mở.
Đây chính là phần quan trọng nhất của văn bản bởi nó quyết định đến việc
triển khai thành công nội dung của một văn bản.
Trong bất kì văn bản nào, phần thân là phần thể hiện rõ nhất hai thao tác
cơ bản của việc sử dụng ngôn ngữ: lựa chọn và kết hợp. Lựa chọn và kết hợp
ở đây không chỉ đơn giản là làm việc với các từ, mà quan trọng hơn là làm
việc với các ý. Việc này lại được thực hiện với ba thao tác cơ bản: chọn ý,
phân cấp ý và trình bày các ý. Việc chọn ý, phân cấp ý và trình bày các ý như
thế nào cịn tùy thuộc vào năng lực và ý muốn chủ quan của người tạo lập văn
bản. Trong các văn bản nghệ thuật, việc này rất quan trọng. Một tác phẩm
nghệ thuật hay và giá trị, ngoài nội dung mang ý nghĩa sâu sắc thì việc tổ
chức, sắp xếp các ý đóng vai trị quan trong khơng nhỏ. Nó thể hiện tài năng
sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam
Cao được đánh giá là một kiệt tác trong nền văn học Việt Nam hiện đại bởi


19

khơng chỉ nó mang những giá trị nội dung, tư tưởng sâu sắc đậm tính nhân
văn mà cịn chính nhờ sự “lựa chọn và kết hợp” một cách chuẩn mực và sáng
tạo trong triển khai cốt truyện của nhà văn. Q trình tha hóa và cuộc đời đầy
bi kịch của nhân vật Chí Phèo khơng được nhà văn tái hiện theo một trình tự
thời gian, mà nó được Nam Cao trình bày theo một trật tự riêng, theo ý đồ
nghệ thuật riêng.

1.1.2.4. Phần kết
Phần kết của văn bản có chức năng chủ yếu là tạo cho văn bản tính chất
kết thúc, tính chất “đóng” về cả phương diện nội dung lẫn phương diện hình
thức. Cụ thể, phần kết của văn bản thường đúc kết lại đề tài, chủ đề và liên hệ,
gợi mở, đề xuất ý kiến,… Phần kết có thể được thực hiện theo mấy hướng sau
đây, sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp với nhau:
- Khái quát lại những nội dung được trình bày trong phần thân.
- Nêu bật lên những kết quả tìm tịi, nghiên cứu mà tác giả đã khám
phá được.
- Mở ra những phương diện, những đối tượng, những cách thức,… mang
tính chất đề xuất đối với việc nghiên cứu đề tài, chủ đề được nêu trong
văn bản.
1.2. Văn bản nghệ thuật
1.2.1. Đặc trưng của văn bản nghệ thuật
Văn bản nghệ thuật còn gọi là văn bản văn chương, là loại văn bản phản
ánh cuộc sống và thể hiện tư tưởng, tình cảm thơng qua hình tượng nghệ thuật
nhằm phục vụ cho nhu cầu đời sống tinh thần của con người. Văn bản nghệ
thuật có nhiều đặc trưng, như: tính hệ thống, tính chức năng tác động, tính


20

hình tượng, tính truyền cảm, tính cá thể hóa,… Sau đây, người viết chỉ trình
bày những đặc trưng cơ bản, liên quan nhiều đến đề tài.
1.2.1.1. Đặc trưng hệ thống của tín hiệu thẩm mĩ trong văn bản
nghệ thuật
Ngơn ngữ nghệ thuật là tín hiệu thẩm mĩ. Trong văn bản nghệ thuật,
ngôn ngữ nghệ thuật là một mã phức tạp, là hệ thống tín hiệu “thứ hai”, được
cấu tạo nên từ hệ thống tín hiệu thứ nhất (từ ngơn ngữ tự nhiên). Nói cách
khác, ngơn ngữ trong các tác phẩm văn chương là ngôn ngữ được tổ chức,

xếp đặt, lựa chọn, tinh luyện từ ngôn ngữ thông thường và đạt được giá trị
nghệ thuật – thẩm mĩ. Ví dụ:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bơng trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
(Ca dao)
Ngôn ngữ trong bài ca dao trên được lấy từ ngơn ngữ tự nhiên, nó chứa
đựng thơng tin về nơi sống, cấu tạo, hương vị và sự trong sạch của cây sen.
Tuy nhiên, ngôn ngữ ấy được sắp xếp theo một chỉnh thể nhất định, và vì thế
nó mang ý nghĩa nghệ thuật – thẩm mĩ: cái đẹp có thể hiện hữu và bảo tồn
ngay trong những mơi trường có nhiều cái xấu.
Ví dụ trên cho thấy ngôn ngữ nghệ thuật lấy ngôn ngữ tự nhiên hằng
ngày làm chất liệu nhưng khác với ngôn ngữ tự nhiên ở chức năng thẩm mĩ.
Do đó, ngơn ngữ trong văn bản nghệ thuật được gọi là những tín hiệu
thẩm mĩ.


21

Văn bản nghệ thuật là một hệ thống những tín hiệu thẩm mĩ. Như trên đã
trình bày, ngơn ngữ trong văn bản nghệ thuật là những tín hiệu thẩm mĩ, nghĩa
là nó có chức năng thẩm mĩ. Tất nhiên, để thực hiện được chức năng là “tín
hiệu thẩm mĩ”, những tín hiệu này phải được “xếp đặt” trong một hệ thống
nhất định – hệ thống của một tác phẩm văn chương. Mỗi tác phẩm là một hệ
thống phức tạp bao gồm hàng loạt các yếu tố thuộc những bình diện khác
nhau như: đề tài, chủ đề, tư tưởng, kết cấu, ngơn ngữ, nhân vật, hình
tượng, cốt truyện. Sự kết hợp và tác động lẫn nhau giữa các yếu tố này khiến
tác phẩm trở thành một chỉnh thể nghệ thuật, mang tính thống nhất hữu cơ
giữa nội dung thẩm mĩ và hình thức nghệ thuật. Chức năng thẩm mĩ của một

yếu tố ngơn ngữ được xác định bởi vị trí và vai trị của nó trong hệ thống các
hình tượng của tác phẩm cũng như hệ thống của phong cách cá nhân của tác
giả. Tóm lại, văn bản nghệ thuật là một hệ thống tín hiệu chặt chẽ, có tính
thẩm mĩ cao.
1.2.1.2. Đặc trưng chức năng của các tín hiệu thẩm mĩ trong văn bản
nghệ thuật
Từ lâu, văn chương và nghệ thuật nói chung đã trở thành một nhu cầu
tinh thần không thể thiếu trong đời sống con người. Con người cần đến văn
học như là một nhu cầu tất yếu. Và như vậy, trong đời sống, văn học nghệ
thuật đảm nhận những vai trị, chức năng đặc biệt của nó. Những câu hỏi: Vì
sao cuộc sống cần văn học? Văn học có ý nghĩa gì? Đâu là lí do tồn tại đích
thực của nó?... chính là vấn đề cơ bản của chức năng văn học.
Nhà văn M. Gorki cũng đã từng băn khoăn: “Dù sao thì tơi cũng nhận
thấy rằng, trên đời khơng có cái gì tồn tại tự nó và cho nó, rằng mọi thứ đều
tồn tại nhằm mục đích nào đó, và bằng cách này cách khác đều lệ thuộc, gắn
liền, pha lẫn vào một cái gì khác. Giúp ho con người được thành thơi ư? Thật


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×