Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Quản lý nhà nước về du lịch thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.49 KB, 40 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế của đất
nước ta đã có những bước phát triển nhảy vọt với tốc độ tăng tổng sản phẩm
trong nước ( GDP ) bình quân 7%/năm, cơ cấu ngành nghề ngày càng đa dạng,
phong phú theo hướng công nghiệp, dịch vụ. Đặc biệt trong 15 năm đổi mới vừa
qua, các ngành dịch vụ ở nước ta đã có bước phát triển đặc biệt và đóng góp đáng
kể vào nền kinh tế.Trong cơ cấu các ngành dịch vụ, ngành du lịch ngày càng có
vị trí và vai trò quan trọng, đặc biệt khi Việt Nam thực hiện quá trình hội nhập
nền kinh tế thế giới, tham gia vào q trình tồn cầu hố kinh tế.
Để ''Du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn'', một u cầu
khơng thể thiếu đó là vai trị quản lý Nhà nước về Du lịch. Bởi lẽ, thông qua quản
lý Nhà nước về Du lịch, Nhà nước sẽ định hướng cho du lịch phát triển về mọi
mặt, khai thác lợi thế tối đa với mục tiêu đem lai lợi nhuận đóng góp ngày càng
nhiều cho nền kinh tế. Cùng với sự ra đời của Tổng cục du lịch năm 1992, hệ
thống cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch đã được hình thành đồng bộ ở nước
ta từ trung ương đến địa phương. Hệ thống cơ quan quản lý đó đã thực hiện tốt
cơng tác quản lý Nhà nước trên lĩnh vực du lịch, thể hiện bằng việc tạo lập môi
trường pháp lý về du lịch, xây dưng các chương trình phát triển du lịch quy mơ
tồn quốc, ngành, địa phương tổ chức thực hiện các chương trình du lịch, quản lý
hệ thống doanh nghiệp hoạt động du lịch, phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho
hoạt động du lịch, nâng cao vị thế du lịch Vit Nam trờn trng quc t...

Trần Văn Long
Lớp du lịch 41B

1


Sự phát triển và đóng góp của cơng tác quản lý Nhà nước về du lịch trong việc
phát triển ngành du lịch nước ta trong thời gian vừa qua là rất quan trọng. Tuy
nhiên, trong tiến trình đổi mới, trước những biến đổi sâu sắc trong cả nước và thế


giới, ngành du lịch nước ta đang đứng trước thời cơ và thách thức to lớn trong
việc phát triển.
Để đáp ứng được những điều kiện đổi mới, công tác quản lý Nhà nước về du
lịch phải khơng ngừng được hồn thiện. Đó chính là lý do để tác giả chọn đề tài
''Quản lý Nhà nước về du lịch - Thực trạng và giải pháp'' làm đề tài nghiên
cứu cho đề án môn học Kinh tế du lịch.
Nội dung của đề án được chia làm ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận chung về quản lý Nhà nước và vai trò của quản lý Nhà
nước về du lịch trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta hiện nay.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về du
lịch.
Đây là một đề tài rộng và phức tạp, hơn nữa do khả năng và thời gian có hạn
nên khơng tranh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý và giúp đỡ của
thày cô giáo và các bạn ỏn c hon thin hn.

Trần Văn Long
Lớp du lÞch 41B

2


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

I. Du lịch, vị trí và vai trị của ngành du lịch đối với nền kinh tế quốc dân.

1. Khái niệm về du lịch.
Ngành kinh tế du lịch được hình thành và phát triển từ khi xã hội lồi người

bước vào q trình phân cơng lao động lớn. Lúc đầu có thể là những hiện tượng
riêng lẻ và cá biệt, sau đó trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến và trở thành
nhu cầu không thể thiếu của con người.
Trước thực tế phát triển của du lịch, việc nghiên cứu, thảo luận để đi đến thống
nhất một số khái niệm cơ bản về du lịch, trong đó khái niệm du lịch là một đòi
hỏi cần thiết. Tuy nhiên do hồn cảnh khác nhau, dưới góc độ nghiên cứu khác
nhau, mỗi người có một cách hiểu về du lịch khác nhau.
Ở nước ta, trong cuốn '' Du lịch và kinh doanh du lịch'' (1), tiến sĩ Trần Nhạn đã
viết: '' Du lịch là quá trình hoạt động của con người rời khỏi quê hương đến một
nơi khác với mục đích là được thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc
sắc, độc đáo và khác lạ với q hương, khơng nhằm mục đích sinh lời được tính
bằng ng tin''.
Trần Văn Long
Lớp du lịch 41B

3


Hiện nay, tổ chức du lịch thế giới WTO (Word Torism organisation) đã thống
nhất khái niệm du lịch phản ánh các mối quan hệ có tính bản chất bên trong làm
cơ sở cho việc nghiên cứu các xu hướng và quy luật phát triển của nó. Theo đó ''
Du lịch là tổng thể của những hiện tượng và những mối quan hệ phát sinh do sự
tác động qua lại khách du lịch, người kinh doanh du lịch, chính quyền sở tại và
cộng đồng dân cư địa phương trong quá trình thu hút và lưu giữ khách du lịch'' (2).
Định nghĩa này đã nêu bật lên được mối quan hệ, tác động qua lại của cả hệ
thống con người, tổ chức thực hiện du lịch.
Như vậy, du lịch được coi như một q trình mà ở đớ có sự gặp nhau giữa lợi
ích tinh tần của khách du lịch và lợi ích kinh tế của người kinh doanh du lịch.
Nhu cầu của khách du lịch càng cao thì địi hỏi của hệ thống tổ chức thực hiện,
kinh doanh du lịch càng phải hồn thiện.


2. Vị trí và vai trị của ngành du lịch trong q trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hố và hội nhập quốc tế ở nước ta.
Hoạt động du lịch trên toàn thế giới mặc dù co giai đoan bị ngưng trệ do chiến
tranh thế giới thứ I và thứ II, nhưng từ thập kỷ 60 trở lại đây, du lịch đã dần phát
triển với tốc độ nhanh.Sự phát triển của kinh tế thế giới đã tạo điều kiện cho nhân
loại mơe rộng và tăng cường hoạt động du lịch. Du lịch đã và đang trở thành hiện
tượng kinh tế xã hội phổ biến, thành ngành kinh tế mũi nhọn của một số nước,
ngành ''cơng nghiệp khơng khói''. Hiện nay, ngành ''công nghiệp'' này chỉ đứng
sau công nghiệp dầu khí và ơ tơ. Đối với các nước đang phát triển thì du lịch
được coi là một trong những cứu cánh để vực dậy nền kinh tế ốm yếu của quc
gia.

Trần Văn Long
Lớp du lịch 41B

4


Nước ta là một nước đang phát triển, nền kinh tế trong những năm gần đây đã
có nhiều bước phát triển so với thời kỳ những năm 80 song so với một số nước
trong khu vực thì nền kinh tế của chúng ta vẫn còn thấp kém bởi nước ta phải trải
qua hai cuộc chiến tranh lớn và hậu quả mà chúng để lại là một khó khăn thách
thức lớn đơí với nước ta. Khi đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà
nước đã chủ trương phát triển du lịch và coi du lịch như một ngành kinh tế thực
sự.
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp đóng vai trị quan trong trong việc thúc
đẩy nền kinh tế nước ta phát triển. Những lợi ích mà ngành du lịch nói riêng cũng
như ngành dịch vụ nói chung đem lại rất to lớn. Nhận thức được tầm quan trọng
của du lịch, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm

đến việc định hướng và phát triển nhằm đưa du lịch trở thành một ngành kinh tế
mũi nhọn của đất nước thể hiện ở những chương trình phát triển du lịch, gắn phát
triển du lịch với sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, gắn phát triển
du lịch với bảo vệ và hồn thiện mơi trường. Biểu hiện cụ thể của những nhính
sách đó là chương trình hành động quốc gia về du lịch:'' Việt Nam - điểm đến của
thiên niên kỷ mới''. Vì vậy tại đại hội Đảng IX, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng
định phát triển du lịch gắn liền với tăng cường quản lý Nhà nước, làm cho du lịch
phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, có nghĩa là làm sao cho du lịch
thực sự là cơ hội của đông đảo quần chúng nhân dân.
II. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về du lịch.

1. Khái niệm quản lý Nhà nước và quản lý Nhà nước về du lịch.
Kể từ khi xã hội phân chia giai cấp, Nhà nước xuất hiện thì quản lý Nhà nước
cũng xuất hiện. Nhà nước nào cũng có chức năng quản lý đất nước, đảm bảo sự
TrÇn Văn Long
Lớp du lịch 41B

5


an toàn quốc gia và quản lý kinh tế vĩ mơ. Tuy nhiên vai trị kinh tế của Nhà
nước trong mỗi giai đoạn lịch sử không giống nhau. Vậy thế nào gọi là quản lý?
Thuật ngữ quản lý có thể hiểu là cơng tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của
những người cộng sự khác cùng chung một tổ chức. Tuy nhiên theo quan điểm
chung nhất thì: '' Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản
lý nhằm đật được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường.
Dựa trên khái niệm quản lý, ta có thể hiểu: Quản lý Nhà nước về kinh tế hay
còn gọi là quản lý hành chính kinh tế là sự tác động của Nhà nước đối với toàn
bộ nền kinh tế bằng quyền lực của Nhà nước thông qua các công cụ như: pháp
luật, chính sách, chương trình phát triển kinh tế, làm cho các thành phần kinh tế

phát triển theo một trật tự, quỹ đạo nhất định với mục tiêu phát triển tối đa các
nguồn lực trong và ngoài nước nhằm phát triển kinh tế.
Du lịch là một ngành kinh tế tương đối mới mẻ đối với các nước đang phát
triển, đặc biệt là đối với nước ta. Tuy vậy đây là một ngành kinh doanh dịch vụ
mang tính chiến lược trong giai đoạn phát triển của đất nước. Do vậy, quản lý
Nhà nước về du lịch là hết sức cần thiết. Bởi vì quản lý Nhà nước về du lịch
chính là làm cho du lịch phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy
mọi tiềm năng du lịch, thu hút ngày càng nhiều khách du lịch đóng góp vào ngân
sách Nhà nước.
Quản lý Nhà nước về du lịch là q trình tác động của Nhà nước đến du lịch
thơng qua hệ thống chính sách pháp luật với mục tiêu phát triển du lịch đúng
định hướng của Nhà nước tạo nên trật tự trong hoạt động du lịch, làm cho du
lịch thực sự là một ngành kinh tế mũi nhọn. Đối tượng của quản lý đó chính là
hoạt động du lịch, cơ quan tổ chức hoạt động du lịch và c chớnh cỏc du khỏch.

Trần Văn Long
Lớp du lịch 41B

6


2. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về du lịch.
2.1_ Đối với nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Thực tế chỉ ra rằng, mọi nền kinh tế đều cần có sự quản lý của Nhà nước. Song
do tính đa dạng của thực tiễn ở các nước là khác nhau, do đó, việc quản lý Nhà
nước ở mỗi nền kinh tế, mỗi quốc gia là không giống nhau. Thực tế cho thấy, nền
kinh tế muốn phát triển nhanh địi hỏi đất nước phải có cơ sở hạ tầng (phục vụ
sản xuất và đời sống) hiện đại, lĩch vực mà ngồi Nhà nước ra khơng ai đảm
nhiệm được. Cho nên người ta ngày càng ý thức rõ kinh tế phát triển ngày càng
cao, xã hội hoá sản xuất ngày càng mở rộng, thị trường ngày càng phát triển,

càng cần có sự quản lý của Nhà nước về kinh tế.
Ở nước ta, trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của
Nhà nước. Bên cạnh lập trường của chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, Một yêu cầu đặt ra là chúng ta phải biết tiếp thu những tinh hoa văn hoá
của nhân loại. Đặc biệt là những tư tưởng, học thuyết về kinh tế thị trường, một
vấn đề hết sức mới mẻ ở nước ta.
Do xu hướng hội nhập nền kinh tế của nước ta vào nền kinh tế thế giới, mở
rộng hợp tác, giao lưu quốc tế. Cho nên Nhà nước co vai trò quan trọng trong
việc ổn định mơi trường chính trị, xã hội, tạo cơ hội tốt cho nền kinh tế phát
triển, thu hút đầu tư nước ngoài. Mặt khác, do định hướng phát triển kinh tế nước
ta là phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mơ của Nhà nước, cho nên sự
quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế là tất yếu khách quan. Chỉ có Nhà nước
mới co đủ sức mạnh và cơ sở vật chất thc hin chc nng qun lý nn kinh
t.
Trần Văn Long
Líp du lÞch 41B

7


2.2_ Đối với ngành du lịch.
Ngành kinh doanh du lịch giống như một cơ thể sống và ln địi hỏi sự quản
lý sáng tạo để duy trì và phát triển. Việc thành công hay thất bại của ngành du
lịch cũng như nhu cầu nền kinh tế của một nước phụ thuộc hoàn toàn vào việc
xây dựng một cách sáng tạo những chính sách thích hợp với điều kiện và trình độ
phát triển của một đất nước. Do vậy, vấn đề quản lý Nhà nước đối với du lịch là
một vấn đề cần thiết được đặt lên hàng đầu. Hơn nữa, du lịch mới trong giai đoạn
đầu phát triển, còn gặp nhiều khó khăn và thách thức lớn do vậy cần có sự tham
gia chỉ đạo và định hướng của Nhà nước để du lịch phát triển. Vì vậy, quản lý du

lịch trong nền kinh tế thị trường của Nhà nước là cần thiết và khách quan:
- Một mặt do những khuyết tật và hạn chế của cơ chế thị trường gây nên, mặt
khác, do Nhà nước đóng vai trị chủ đạo trong nền kinh tế, thể hiện ở việc định
hướng phát triển kinh tế xã hội nói chung cũng như ngành kinh tế du lịch nói
riêng trong từng thời kỳ.
- Để giải quyết các mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường, duy trì sự ổn định
cũng như thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Tạo ra sự thống nhất trong tổ chức và phối hợp các hoạt động của cơ quan
quản lý Nhà nước về du lịch. Đồng thời giúp cho việc khai thác các thế mạnh của
từng vùng, từng địa phương đạt kết quả. Hơn nữa, phát huy lợi thế so sánh của
quốc gia trong phát triển du lịch quốc tế.
- Du lịch là một ngành kinh tế mũi nhon của nước ta. Nó liên quan đến nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau do vậy cần có sự quản lý của Nhà nước để điều
hồ mối quan hệ giữa du lịch với các ngành, các lĩnh vc liờn quan.

Trần Văn Long
Lớp du lịch 41B

8


Tóm lại, khi nền kinh tế của đất nước cần đến sự quản lý của Nhà nước thì
cơng tác quản lý đối với một ngành trong nền kinh tế là tất yếu khách quan.

3. Chức năng và nội dung của quản lý Nhà nước về du lịch.
3.1_ Chức năng quản lý.
a_ Chức năng hoạch định.
- Nhà nước thực hiện chức năng hoạch định để định hướng hoạt động du lịch,
xác lập các chương trình, các dự án, cụ thể hố các chiến lược, đặc biệt là các lộ
trình hội nhập khu vực và quốc tế.

- Thiết lập khuôn khổ pháp lý thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện
các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch, tạo ra môi trường pháp lý cho hoạt
động du lịch.
- Chức năng hoạch định giúp cho các doanh nghiệp du lịch có phương hướng
hình thành các phương án chiến lược, kế hoạch kinh doanh. Nó vừa giúp tạo lập
mơi trường kinh doanh vừa cho phép Nhà nước có thể kiểm soáthoạt động của
cacs doanh nghiệp và các chủ kinh doanh du lịch trên thị trường.
b_ Chức năng tổ chức và phối hợp.
- Nhà nước bằng việc tạo lập các cơ quan và hệ thống tổ chức quản lý về du
lịch, sử dụng bộ máy này để hoạch đinh các chiến lược, quy hoạch, các chính
sách,các văn bản quy phạm pháp luật... đồng thời thực hiện những vấn đề thuộc
về quản lý Nhà nước nhằm đưa chính sách phù hợp về du lịch và thực tiễn, biến
quy hoạch, kế hoạch thành hiện thực, tạo điều kiện cho du lịch phát triển.
- Hình thành cơ chế phối hợp hữu hiệu giữa cơ quan quản lý Nhà nước về du
lịch với các cấp trong hệ thống quản lý du lịch của trung ương, tnh ( thnh ph),
qun (huyn, th xó).
Trần Văn Long
Lớp du lÞch 41B

9


- Trong lĩnh vực du lịch quốc tế, chức năng này được thể hiện ở sự phối hợp
giữa các quốc gia có quan hệ song phương hoặc trong cùng một khối kinh tế,
thương mại du lịch trong nỗ lực nhằm đa dạng hoá đa phương thức quan hệ hợp
tác quốc tế trong du lịch đạt tới các mục tiêu và đảm bảo thực hiện các cam kết
đã ký.
- Tổ chức và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực
du lịch, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, bảo vệ tài nguyên du lịch ,
mơi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục của dân tộc

trong hoạt động du lịch.
c_ Chức năng điều tiết các hoạt động du lịch và can thiệp thị trường.
- Nhà nước hướng dẫn, kích thích các doanh nghiệp du lịch hoạt động theo
định hướng đã vạch ra. Can thiệp, điều tiết thị trường khi cần thiết đảm bảo ổn
định kinh tế vĩ mô.
- Nhà nước sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau để điều tiết, can thiệp
thị trường và hoạt động kinh doanh du lịch, xử lý đúng đắn mẫu các quan hệ trao
đổi.
- Nhà nước hỗ trợ cho các doanh nghiệp về thơng tin, tài chính, kết cấu hạ tầng
của thị trường và bảo vệ kinh tế Nhà nước đúng pháp luật nhằm chống thất thoát,
đảm bảo sinh lợi và tăng thu cho nhân sách Nhà nước.
d_ Chức năng kiểm soát.
- Giám sát hoạt động của mọi chủ thể kinh doanh du lịch cũng như chế độ
quản lý của các chủ thể đó. Cấp và thu hồi giấy phép, giấy hot ng trong hot
ng du lch.

Trần Văn Long
Lớp du lịch 41B

10


- Phát hiện những lệch lạc, nguy cơ chệch hướng hoặc vi phạp pháp luật và
những quy định của Nhà nước.
- Kiểm tra đánh giá sức mạnh của hệ thống tổ chức quản lý du lịch của Nhà
nước cũng như năng lực của đội ngũ cán bộ công chức quản lý Nhà nước về du
lịch.
- Tổ chức và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực
du lịch, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, bảo vệ tài ngun du lịch,
mơi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục của dân

tộc.
3.1_ Nội dung quản lý Nhà nước về du lịch
Tại điều 41 của pháp lệnh về du lịch có quy định nội dung quản lý Nhà nước
về du lịch như sau:
- Ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch.
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính
sách phát triển du lịch.
- Quy định về tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch, về việc phối hợp
của các cơ quan Nhà nước trong việc quản lý Nhà nước về du lịch.
- Tổ chức và quản lý công tác xúc tiến và hợp tác quốc tế về du lịch.
- Cấp, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận.
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo...
Thực tế đã chỉ rõ, hoạt động du lịch trong cơ chế thị trường cũng như trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hôị chủ nghĩa ở nước ta hiện nay rất cần
đến sự điều hành, quản lý của Nhà nước. đặc biệt trong xu thế tồn cầu hố, khu
vực hố của hoạt động du lịch, việc hợp tác, liên kết luôn đi liền với cnh tranh

Trần Văn Long
Lớp du lịch 41B

11


địi hỏi mỗi nước phải có chiến lược phát triển tổng thể du lịch. Xuất phát từ điều
kiện của mình, mỗi nước phải vừa biết phát huy đặc thù, huy động nội lực để
tăng khả năng hấp dẫn khách du lịch, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, tranh thủ
được điều kiện bên ngồi để có điều kiện hội nhập. Đây là vấn đề thuộc quyền
Nhà nước và cũng là trách nhiệm của Nhà nước trong phát triển du lch.

Trần Văn Long

Lớp du lịch 41B

12


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU
LỊCH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I. Khái quát chung về sự ra đời Tổng cục du lịch - cơ quan quản lý Nhà nước
về du lịch.
1. Sự ra đời của Tổng cục du lịch
Tính đến nay ngành du lịch Việt Nam đã có hơn 40 năm hình thành và phát
triển. Nghị định 26/CP ngày 09/07/1960 của Hội đồng chính phủ, Công ty du lịch
Việt Nam đầu tiên được thành lập là mốc đánh dấu sự ra đời của ngành du lịch
Việt Nam. Là một công ty trực thuộc Bộ ngoại thương nhưng nhiệm vụ của công
ty du lịch đầu tiên là phục vụ cho các đoàn khách của Đảng và Chính phủ. Tổ
chức du lịch đầu tiên của Việt Nam ra đời với cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn,
lạc hậu, đội ngũ công nhân viên it ỏi về số lượng, non kém về nghiệp vụ nên gặp
nhiều khó khăn trong cơng tác phục vụ và đón tiếp khách. Nhưng với tráh nhiệm
và lịng nhiệt tình, với tính cần cù vốn có của 112 cán bộ nhân viên đầu tiên của
ngành du lịch Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ được giao. Về ý nghĩa, tổ chức
này đã đặt nền móng cho sự hình thành một ngành kinh tế mới mẻ ở nước ta.
Do lượng khách ngày một tăng và nhu cầu tham quan, du lịch ra nước ngoài
xuất hiện địi hỏi ngành du lịch phải khơng ngừng đầu tư về mọi mặt nhằm giảm
bớt nhứng khó khăn về tài chính. Trước sự phát triển khơng ngừng về mọi mặt
của ngành du lịch, một đòi hỏi thực tiễn là phải có một cơ quan có đủ thẩm quyền
và chức năng quản lý du lịch. Với sự đầu tư lớn mạnh về cơ sở vật chất, quyền
hạn, chức năng quản lý mở rộng, giai đoạn này Tổng cục du lịch Vit Nam trc
Trần Văn Long
Lớp du lịch 41B


13


tiếp quản lý trên 30 công ty du lịch trong cả nước cùng với hàng trăm khách sạn,
nhà hàng, biệt thự, hàng ngàn phương tiện, hàng vạn cán bộ công nhân viên có
trình độ và kinh nghiêm để phục vụ khách du lịch trong và ngồi nước. Tình hình
hoạt động kinh doanh du lịch ngày một phong phú đa dạng và là một lĩnh vực
không thể thiếu được trong ngành du lịch.
Do trực thuộc một bộ, khơng mang tính kinh tế, chưa được sự chỉ đạo phù hợp
về mặt chuyên mơn và đặc biệt cịn non về mặt hoạt động kinh doanh, nhiều cơng
ty lâm vào tình trạng thua lỗ, vi phạm quy chế, pháp luật, gây thiệt hại không nhỏ
cho nền kinh tế nước nhà. Bên cạnh đó cịn phải kể đến công tác quản lý chưa sát
với thực tế, chun mơn do trình độ thấp kém nên sản phẩm du lịch khá đơn
điệu, chất lượng thấp. Bản chất của du lịch không chỉ là một ngành kinh tế nên
cơng tác tổ chức, quản lý cịn một số vướng mắc nhất định, hiệu quả của hoạt
động du lịch chưa đồng bộ.

2. Bộ máy quản lý của Tổng cục du lịch.
Xuất phát từ mục tiêu, phương hướng phát triển của mỗi quốc gia, từ chức
năng nhiệm vụ của ngành du lịch mà mỗi quốc gia thiết lập một hệ thống cơ quan
quản lý Nhà nước tương ứng nhằm đảm bảo hiệu lực quản lý và sự linh hoạt. Các
nước trên thế giới và trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương lựa chọn những
mơ hình tổ chức hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước khác nhau.
Ở nước ta, bộ máy quản lý hành chính Nhà nước về du lịch cấp Trung ương
hiện nay ở nước ta là Tổng cục du lịch, dưới Tổng cục du lịch là các S du lch
v S thng mi du lch.

Chớnh ph
Trần Văn Long

Líp du lÞch 41B

14


Tỉnh ,Thành
phố

Tổng cục du

Quận, huyện

Sở du lịch

Xã, phường

Phòng du lịch

Tổng cục du lịch là một cơ quan độc lập trực thuộc chính phủ. Tại điều 1 Nghị
định 53/CP đã quy định cơ cấu tổ chức của Tổng cục du lịch như sau:
- Các tổ chức giúp Tổng cục du lịch thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về
du lịch.
- Tổng số các đơn vị giúp Tổng cục trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà
nước về du lịch là 7 đơn vị gồm 6 vụ và 2 cơ quan ngang vụ là văn phòng Tổng
cục và thanh tra Tổng cục. Vụ du lịch và khách sạn ở Nghị định 20/CP được tách
ra thành hai vụ riêng biệt là Vụ lữ hành và Vụ khách sạn.
Tại điều 4 của Nghị định 20/CP đã quy định: '' Tổng cục trưởng Tổng cục
du lịch chịu trách nhiệm trước Thủ tướng chính phủ điều hành hoạt động của
Tổng cục du lịch. Các Tổng cục phó do Tổng cục trưởng phân cơng cơng tác và
chịu trách nhiệm về công việc được phân trước Tổng cục trưởng. Tổng cục

trưởng và các Tổng cục phó do Th tng chớnh ph b nhim v min nhim''.

Trần Văn Long
Líp du lÞch 41B

15


3. Chức năng quản lý của Tổng cục du lịch.
Điều 1 của Nghị định 20/CP ngày 27/12/1992 quy định: '' Tổng cục du lịch là
cơ quan thuộc chính phủ, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các hoạt
động du lịch trong phạm vi cả nước. Bao gồm: hoạt động về du lịch của các
thành phần kinh tế, cơ quan, đồn thể, tổ chức xã hội, cơng dân Việt Nam và
người nước ngoại tại Việt Nam''.
Tại điều 43 của pháp lệnh du lịch ngày 20/12/1999 quy định:'' Tổng cục du
lịch là cơ quan thuộc chính phủ, chịu trách nhiệm trước chính phủ, thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước về du lịch''.
II. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta.

1. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật.
Để quản lý được các hoạt động kinh tế xã hội của đất nước, Nhà nước phải sử
dụng các công cụ quản lý. Một trong những công cụ hữu hiện nhất của Nhà nước
là ban hành pháp luật vì pháp luật tạo ra môi trường pháp lý để điều chính các
hoạt động quản lý, hoạt động kinh doanh du lịch, ghi nhận quyền hạn và trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc kinh doanh và phát triển du
lịch. Với công cụ pháp lý, Nhà nước sẽ điều chỉnh vĩ mô hoạt động du lịch. Pháp
luật cũng là kênh quan trọng để đưa những chủ trương chính sách của Đảng và
phát triển du lịch ở nước ta vào cuộc sống.
Các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực du lịch đã bao quát được những
vấn đề cấp bách và thời sự của hoạt động kinh doanh du lịch. Về quan hệ quốc tế,

Những văn bản quy phạm pháp luật về du lịch cũng đã tạo ra s tin tng yờn

Trần Văn Long
Lớp du lịch 41B

16


tâm của bạn bè quốc tế đến với Việt Nam tham gia hợp tác vào lĩnh vực kinh tế,
du lịch.
Nhìn chung các công tác ban hành và thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật du lịch trong thời gian qua là hợp lý, cần thiết và đạt được kết quả to lớn, thể
hiện ở lượt khách, cơ sở vật chất, đội ngũ lao động...đều co bước phát triển nhanh
chóng và đáng ghi nhận. Tuy nhiên bên cạnh đó cịn bộc lộ những hạn chế cần
được giải quyết.

2. Công tác tổ chức bộ máy quản lý du lịch và việc phối hợp các cơ
quan quản lý Nhà nước về du lịch.
Du lịch được coi là một ngành kinh tế tổng hợp, có liên quan đến nhiều ngành
kinh tế. Do đó công tác quản lý du lịch là phải làm sao phối hợp được với các
ngành, các cấp liên quan đến ngành du lịch nhằm đưa du lịch pháp triển cùng với
sự phát triển của nền kinh tế. Bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch từ Trung ương
đến địa phương đang dần được hoàn thiện và phát huy chức năng quản lý Nhà
nước về du lịch.
Tổng cục du lịch - cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch được thành lập đã góp
phần vào cơng tác chỉ đạo, phối hợp thực hiện kế hoạch quy hoạch, phát triển du
lịch. Từ khi thành lập đến nay, Tổng cục du lịch, các Sở du lịch và Sở thương mại
- Du lịch đã từng bước tăng cường hiệu lực quản lý của mình đối với hoạt động
du lịch: rà sốt, cấp giấy phép kinh doanh, đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh lữ
hành quốc tế.

Bên cạnh đó, cùng với các sở địa phương, Tổng cục du lịch đã xây dựng chế
độ báo cáo định kỳ về việc thực hiện quy hoạch du lịch đều đặn cho các Sở du
lịch điều chỉnh, sửa đổi bổ sung các chính sách cho phù hợp vi iu kin ca
Trần Văn Long
Lớp du lịch 41B

17


từng địa phương, từng doanh nghiệp. Đây là bước cố gắng của Tổng cục Du lịch,
cũng như của các sở Du lịch trong quản lý thông tin hai chiều từ Tổng cục Du
lịch tới các doanh nghiệp và ngược lại.

3. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp.
'' Doanh nghiệp du lịch là tổ chức kinh doanh một hoặc một số dịch vụ du lịch
có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập và hoạt động theo pháp luật''.
Trong hệ thống doanh nghiệp du lịch, bên cạnh phân loại doanh nghiệp theo
hình thức sở hữu, theo quy mơ... như các ngành kinh tế khác thì theo các bộ phân
cấu thành trong hệ thống kinh doanh du lịch, hệ thống các doanh nghịêp du lịch
được phân thành: doanh nghiệp lữ hành, doanh nghiệp khách sạn, doanh nghiệp
vận chuyển khách du lịch,... và cũng theo các quan niêm về doanh nghiệp nêu
trên, đồng thời dựa trên cơ sở pháp lệnh du lịch Việt Nam hiên hành, các loại
doanh nghiệp đó có thể được hiểu:
- Doanh nghiệp lữ hành: làm nhiêm vụ giao dịch ký kết với các tổ chức kinh
doanh du lịch trong và ngoài nước để xây dựng và thực hiện các chương trình du
lịch bán cho khách du lịch.
- Doanh nghiệp khách sạn: làm nhiệm vụ tổ chức, đón tiếp, phục vụ việc lưu
trú, ăn uống, vui chơi giải trí, bán hàng cho khách du lịch.
- Doanh nghiệp vân chuyển khách du lịch: được thành lập nhằm mục đích sinh
lời bằng việc kinh doanh dịch vụ, vân chuyển thông qua các phương tiện vận

chuyển, phục vụ các chương trình du lịch của khách.
Ngồi các loại hình doanh nghiệp trên, trong hệ thống các doang nghiệp du
lịch còn có các loại hình doanh nghiệp du lịch khác cung ng cỏc dch v nh:

Trần Văn Long
Lớp du lịch 41B

18


tuyên truyền, quảng cáo du lịch; tư vấn, đầu tư du lịch; cung ứng các hoạt động
giải trí.
Các cơng tác quản lý Nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp du lịch chủ
yếu tập trung vào việc ban hành các văn bản quản lý, quy chế, quy định, tạo mơi
trường pháp lý thơng thống cho các doanh nghiệp du lịch hoạt động; kiểm tra
việc kinh doanh, hoạt động của các doanh nghiệp; cấp, đình chỉ, thu hồi giấy
phép kinh doanh du lịch.
Hiện nay, văn bản quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch nói
chung được thực hiện theo nghị định số 09/CP ngày 05/02/1994 của Thủ tướng
chính phủ về tổ chức và quản lý các doanh nghiệp du lịch. Thông tư số
715/TCDL ngày 09/07/1994 của Tổng cục du lịch hướng hẫn thực hiện nghị định
09/CP. Đây là văn bản cao nhất của Nhà nước về quản lý các doanh nghiệp du
lịch.

4. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch và chiến lược phát triển du lịch.
Từ năm 1992, sau khi được thành lập, Tổng cục du lịch dưới sự lãnh đạo của
chính phủ đã bắt tay vào xây dựng quy hoạch, kế hoạch và chiến lược phát triển
du lịch Việt Nam trong từng giai đoạn cụ thể. Đến tháng 8/1994, bản quy hoạch
tổng thể phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 1995 - 2010 đã được Tổng cục du
lịch hồn tất và được Thủ tướng chính phủ phê duyệt theo quyết định số 307/TT

ngày 25/05/1995.
Có thể nói trong những năm qua việc thực hiện quản lý Nhà nước đối với công
tác quy hoạch, kế hoạch của ngành du lịch đã được triển khai mạnh mẽ và có kết
quả. Những nội dung và kết quả nghiên cứu, quy hoạch của ngành đã đóng góp
tích cực vào việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của t nc ta v
Trần Văn Long
Lớp du lịch 41B

19


mỗi địa phương. Mặt khác, quy hoạch du lịch cũng có cơ sở giúp cho ngành
trong cơng tác chỉ đạo, quản lý, xây dựng các kế hoạch phát triển du lịch của cả
nước, đồng thời phối hợp với các bộ, ngành, địa phương trong việc quản lý thực
hiện quy hoạch tạo điều kiện cho du lịch phát triển.

5. Quản lý Nhà nước đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực cho ngành du lịch.
Do tình hình phát triển nhanh của các doanh nghiệp trong ngành du lịch đã thu
hút được một lực lượng lao động trực tiếp khá lớn. Năm 1993, cả nước có 43.210
lao động trực tiếp trong ngành du lịch, năm 1997 đã lên đến 150.000 lao động và
năm 2001 là 200.000 lao động. Tuy nhiên chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển của ngành. Mới có khoảng 7% đạt trình độ đại học và trên đại học,
50% được đào tạo qua ác trường dạy nghề còn lại chưa qua đào tạo. Chất lượng
của lực lương lao động có ảnh hưởng lớn đến chất lượng của sản phẩm du lịch.
Vì vậy sự quản lý của Nhà nước đối với việc đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn
nhân lực cho ngành du lịch là rất cần thiết.
Cho đến nay cả nước có 15 trường và trung tâm dạy nghề du lịch và khách sạn,
hon 10 trường đại học có khoa, tổ hoặc bộ mơn chun ngành du lịch. Các cơ sở
này hàng năm cung cấp khoảng 4000 công nhân kỹ thuật và hàng trăm cử nhân.

Các cơ sở đào tạo sau đại học trong cả nước và quốc tế hàng năm cung cấp cho
ngành từ 5 đến 10 thạc sỹ, tiến sỹ.
Công tác thu hút các chuyên gia hoặc các tổ chức đào tạo nguồn nhân lực về
du lịch từ nước ngoài được chú ý hơn. Các trường đào tạo du lịch của các quốc
gia như: Cộng hoà liên bang Đức, Cộng hoà Pháp, Austraylia... cựng vi cỏc t

Trần Văn Long
Lớp du lịch 41B

20


chức du lịch thế giới và khu vực như: WTO, ASIA, PATA... đều muốn hợp tác
giúp đỡ ngành du lịch nước ta trong công tác đào tạo nguồn nhân lực.
Đầu năm 2002 vừa qua, tại Wasington, Tổng cục du lịch đã làm việc với hội
đồng du lịch quốc tế (I IC) và công ty tư vấn - đào tạo du lịch Hoa Kỳ về chương
trình đào tạo tại Hoa Kỳ và Việt Nam cho một số cán bộ quản lý và nhân viên
phục vụ trong các khách sạn 4 - 5 sao trong những năm sắp tới.
Nhìn chung cơng tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch
trong những năm qua đã dần được hoàn thiện cả về số lượng và chất lượng để
đáp ứng nhu cầu phát triển về du lịch. Trong những năm tới, công tác này cần
tiếp tục phát huy để ngày càng theo kịp với trình độ khu vực và thế giới, đáp ứng
u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá ở nước ta.

6. Quản lý Nhà nước về công tác quảng bá, hợp tác quốc tế và xúc
tiến du lịch.
Đối với mọi ngành sản xuất và du lịch thì vấn đề quảng bá, hợp tác quốc tế và
xúc tiến thương mại chiếm một vị trí quan trọng trong q trình tạo một sản
phẩm có chỗ đứng trên thị trường. ở nước ta, du lịch đang trở thành một ngành
kinh tế mũi nhọn, vì vậy cơng tác tun truyền, quảng bá, hợp tác quốc tế và xúc

tiến du lịch ngày càng được quan tâm. Tổng cục du lịch đã tham gia nhiều hội
thảo, hội nghị, diễn đàn quốc tế và phối hợp với các tổ chức quốc tế tại Việt Nam
với mục tiêu quảng bá, thúc đẩy quan hệ quốc tế, giới thiệu hình ảnh Việt Nam
với thế giới. Các chương trình du lịch, sản phẩm du lịch của Việt Nam giới thiệu
trên thị trường thế giới thông qua cỏc hi ch du lch quc t.

Trần Văn Long
Lớp du lÞch 41B

21


Hợp tác đa phương được đẩy mạnh và chủ động hơn những năm trước, du lịch
Việt Nam xuất hiện trong các diễn đàn, các sự kiện quốc tế với một vị thế mới,
cao hơn.
Du lịch Việt Nam chú trọng và bắt đầu tham gia hợp tác du lịch APEC: tham
dự nhóm cộng tác du lịch APEC lần thứ 18 và diễn đàn du lịch APEC lần thứ 2.
Tổng cục du lịch đã chuẩn bị phương án cam kết trong lĩnh vực du lịch để phục
vụ cho Việt Nam đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới.
Các hoạt động trên đã nâng cao vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước về du
lịch, phát huy tác dụng xúc tiến, quảng bá cho du lịch Việt Nam trong khu vực và
trên thế giới.
III. Những vấn đề tồn tại trong công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước
ta.

1. Về hệ thống pháp luật du lịch.
Mặc dù pháp lệnh du lịch đã được công bố và là một văn bản pháp luật mang
tính pháp lý cao nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực du lịch nhưng việc ban
hành các văn bản thi hành vẫn còn chậm chạp. Do đó đã gây ra những hạn chế
nhất định trong công tác quản lý Nhà nước về du lịch và bản thân hoạt động của

các doanh nghiệp du lịch. Các văn bản hiện nay mới chỉ là các văn bản pháp quy
dưới luật nên tính ổn định pháp lý của các văn bản này không cao mà du lịch lại
là lĩnh vực rất rộng, có liên quan đến nhiều ngành và lĩnh vực khác. Hơn nữa
công tác tuyên truyền, hướng hẫn thực thi cịn hạn chế, chưa nhanh nhay vơí
những bin ng ca nn kinh t th trng.

Trần Văn Long
Lớp du lÞch 41B

22


Việc ban hành nghị định, nghị quyết, chỉ thị, văn bản hướng dẫn trong thời
gian qua là phù hợp tuy nhiên việc triển khai thực hiện chưa được tốt ở doanh
nghiệp, nguyên nhân là do:
- Việc nhận thức của các doanh nghiệp về văn bản pháp luật chưa đúng đắn.
- Việc ban hành các văn bản pháp luật đôi khi chưa hợp lý, còn chồng chéo
giữa các ngành hoặc chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành hữu quan
trong việc ban hành pháp luật.
- Các văn bản pháp luật ban hành mới chỉ nhằm giải quyết kịp thời từng vấn đề
nảy sinh trong hoạt động du lịch vì vậy các văn bản chưa có hệ thống trong một
khung pháp lý gắn bó chặt chẽ với nhau.
Mơi trường pháp lý là hết sức quan trọng đối với mọi lĩnh vực kinh doanh đặc
biệt trong lĩnh vực kinh doanh du lịch. Do vậy để xây dựng một môi trường pháp
lý phù hợp thì trước tiên hệ thống pháp luật du lịch phaỉ được nhất quán, đồng bộ
và phù hợp với điều kiện của đất nước. Đó là cơ sở pháp lý để xác định rõ trách
nhiệm của các cơ quan chức năng, tổ chức doanh nghiệp và các cá nhân trong
hoạt động và phát triển du lịch ở nước ta.

2. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch.

Mặc dù công tác quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch (chủ yếu
là doanh nghiệp khách sạn, doanh nghiệp lữ hành và vận chuyển khách du lịch)
đã có nhiều cố gắng song vẫn cịn một số hạn chế sau:
- Các văn bản quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh khách sạn
chưa phát huy hết hiệu lực trong thực tế. Nguyên nhân do các bộ các ngành
không quan tâm đúng mức và không cú s ch o kiờn quyt ca Chớnh ph.

Trần Văn Long
Líp du lÞch 41B

23


- Chức năng quản lý Nhà nước về khách sạn còn chồng chéo, ảnh hưởng đến
hoạt động king doanh của khách sạn do cung vượt quá cầu.
- Đối với các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành thì sự cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp trong nước ngày càng gay gắt, thiếu lành mạnh, môi trường kinh
doanh lộn xộn. Điều này tạo điều kiện cho các hãng lữ hành nước ngoài lợi dụng
ép giá cũng như can thiệp sâu hơn vào hoạt động kinh doanh của Việt Nam.
- Tình trạng kinh doanh lữ hành trái phép, nép bóng, bán chức năng đang diễn
ra ngày càng phức tạp. Một số doanh nghiệp lữ hành quốc tế tự ý hình thành
nhiều trung tân du lịch mà không được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền. Chúng ta bng lỏng để các trung tâm này hoạt động trái pháp luật, gây
phá giá, trốn thuế, làm xáo trộn thị trường du lịch, ảnh hưởng tới hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc.
Nhiều doanh nghiệp lữ hành trong nước còn thụ động, khơng chủ động vươn
ra thị trường nước ngồi để tiếp cận mở rộng thị trường và tìm kiếm nguồn khách
hoạt động, đối tác vì vậy hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp này cịn
thấp.
Ngun nhân là do cơng tác quản lý, kiểm tra, kiển soát của các cơ quan quản

lý Nhà nước về du lịch nói chung và về lữ hành nói riêng cịn bị bng lỏng. Việc
xử lý không nghiêm túc các vi phạm cũng đã tạo điều kiện cho một số doanh
nghiệp kinh doanh trái phép, coi thường pháp luật kỷ cương; việc áp dụng luật
thuế VAT còn nhiều bất cập, một số thuế suất dịch vụ chưa phù hợp, gây trở ngại
cho các hoạt động doanh nghiệp. Chính sách thuế, chính sách ưu đãi về vốn và
đầu tư đổi mới ngành du lịch cịn ít được quan tõm. Chớnh sỏch tin lng cũn

Trần Văn Long
Lớp du lÞch 41B

24


bất cập chưa khuyến khích được các doanh nghiệp tích luỹ vốn, đổi mới phương
tiện và công nghệ, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên.

3. Về công tác quản lý và quy hoạch du lịch.
Có thể nói cơng tác quản lý và quy hoạch du lịch ở nước ta đã đạt được những
kết quả nhất định nhưng bên cạnh đó vẫn cịn một số hạn chế. Năm 1995, Thủ
tướng chính phủ đã phê duyệt dự án '' Quy hoạch tổng thể và phát triển du lịch
Việt Nam thời kỳ 1995 - 2010'', song nhiều khu tài nguyên du lịch được xác định
để xây dựng các điểm du lịch đã bị khai thác, chen lấn hoặc xây dựng cho những
mục đích khác nhau.
Trong những năm qua, việc phát triển du lịch thiếu quy hoạch, kế hoạch đã dẫn
đến việc xây dựng hàng loạt các cơ sở lưu trú, các khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ
một cách nhanh chóng, ồ ạt. Nhiều nhà nghỉ, nhiều khách sạn thiếu thẩm mỹ kiến
trúc, không tuân theo các quy định về cấu tạo địa chất, về độ cao, cấu trúc không
gian mở, gây ảnh hưởng cho cảnh quan, mất đi vẻ tự nhiên cho phong cảnh khu,
điểm du lịch.
Ngoài ra tại các điểm khu du lịch, nạn hàng rong, chèo kéo khách, cướp giật,

ăn xin, mất vệ sinh... vẫn tồn tại bất chấp các cơ quan quản lý. Nguyên nhân là
do các cơ quan này cịn bng lỏng cơng tác quản lý cũng như việc xử phạt hành
chính nên các vấn đề này vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Những tình trạng trên do một số nguyên nhân sau:
- Việc phối hợp giưa UBND các tỉnh, thành phố với Tổng cục du lịch còn chưa
thống nhất.
- Việc đầu tư vốn để thực hiện quy hoch cũn cha hp lý.

Trần Văn Long
Lớp du lịch 41B

25


×