MỞ ĐẦU
Thời gian như “bóng câu qua cửa”, đến lúc sắp phải nói lời
chia tay tơi mới cảm nhận được hết những tình cảm, những điều
q giá mà tơi có được từ lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà
nước ngạch chuyên viên chính.
Thực hiện chủ trương cải cách của Thủ tướng Chính phủ,
quyết định số 161/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ban
hành ngày 04/8/2003 và Quyết định số 13/2006/QĐ-BNV của Bộ
Nội vụ ngày 06/10/2006 Ban hành quy định các chương trình
đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước đối
với cán bộ, công chức (giai đoạn 2006 – 2010), Ủy ban nhân
dân Thành phố Cần Thơ phối hợp với Học viện Hành chính Quốc
gia tổ chức lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước ngạch
chuyên viên chính tại trường Chính trị Thành phố Cần Thơ từ
tháng 6 đến tháng 8 năm 2009.
3 tháng qua, tôi và các học viên của lớp học được truyền
đạt 3 khối kiến thức lớn: Nhà nước và pháp luật, hành chính
Nhà nước và cơng nghệ hành chính, quản lý Nhà nước đối với
ngành, lĩnh vực. Gồm có 27 chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về
hệ thống cơ quan Nhà nước, pháp luật và pháp chế XHCN, kỹ
năng giao tiếp trong quản lý hành chính Nhà nước, tin học hóa
hành chính, quản lý Nhà nước về kinh tế, quản lý Nhà nước về
đô thị, tổng quan về các vấn đề xã hội…Những kiến thức, thông
tin của thầy cô và các học viên cùng lớp đã giúp tôi cập nhật,
nắm chắc hơn kiến thức cơ bản về quản lý Nhà nước, cũng như
những kỹ năng, kinh nghiệm thực tiễn trong từng lĩnh vực để từ
đó ứng xử và xử lý công việc nhanh, hiệu quả, đúng theo chủ
trương, đường lối của Đảng và nhà nước, đảm bảo tính nghiêm
minh của pháp luật.
Những năm gần đây, thực hiện chủ trương của Đảng, chính
sách, chiến lược, thể chế của Nhà nước về phân cấp quản lý, tổ
chức và quản lý có hiệu quả cơng tác bảo đảm vệ sinh môi
trường, nhất là ở khu đô thị, nơi tập trung dân cư đông đúc,
thành phố Cần Thơ đã xây dựng và tổ chức thực hiện thành công
nhiều dự án, quy hoạch, kế hoạch nhằm cải thiện và bảo vệ môi
trường trên địa bàn Thành phố. Chẳng hạn như: dự án Cần thơ
xanh, dự án xử lý nước thải, dự án nâng cấp đơ thị. Nhiều hoạt
động có ý nghĩa khác được thực hiện thường xuyên như ngày
chủ nhật xanh, thứ bảy tình nguyện, thi đua xây dựng khu dân
cư xanh- sạch- đẹp,…
Song, nhìn chung cơng tác bảo vệ mơi trường vẫn còn tồn
tại nhiều bất cập cả về phạm vi và lĩnh vực quản lý được phân
công, phân cấp. Chẳng hạn như, công tác thu gom rác thải ở các
huyện nơng thơn cịn chưa được quan tâm; cơng tác xử lý rác
thải chưa theo đúng tiêu chuẩn và quy trình; hoạt động quản lý
nhà nước đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh cịn bng lỏng,
trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ, cơng chức cịn chưa “xứng
tầm”,... đã tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển
bền vững kinh tế, trật tự an toàn xã hội và đời sống, sức khỏe
của nhân dân. Thực trạng, về số lượng lớn những doanh nghiệp,
cơ sở sản xuất trên địa bàn Thành phố có báo cáo đánh giá tác
động môi trường nhưng không thực hiện, hoặc thực hiện khơng
triệt để đã làm cho tình hình ơ nhiễm mơi trường trên các con
sơng, rạch,... ln ở tình trạng báo động về ô nhiễm nặng các
hóa chất, tạp chất và mùi hơi, thậm chí ảnh hưởng trực tiếp đến
nguồn nước sinh hoạt và môi trường sống của các hộ dân cư.
Đứng trước thực trạng trên, với những hạn chế nhất định
của bản thân, tiểu luận lựa chọn đề tài: “Nâng cao tính trách
nhiệm và hiệu quả quản lý nhà nước đối với các doanh
nghiệp sản xuất có nguy cơ gây ảnh hưởng đến mơi
trường trên địa bàn Thành phố Cần Thơ” làm nội dung cơ
bản để viết bài tiểu luận cuối khóa. Với mục tiêu làm sáng tỏ
những vấn đề cơ bản của quản lý nhà nước về môi trường ở địa
phương cả về lý luận và thực tiễn, từ đó góp phần xây dựng
phương án xử lý, giải pháp ngăn chặn, phòng ngừa kịp thời
những hành vi vi phạm về môi trường của các doang nghiệp trên
địa bàn. Đồng thời, hướng đến hoàn thành mục tiêu xây dựng
một thành Thành phố “xanh”, phát triển bền vững trong những
năm tới.
Do hạn chế về thời gian và nhận thức nên những vấn đề
tiểu luận nêu lên sẽ khơng tránh khỏi những sai sót, phiếm
khuyết, rất mong thầy cơ và bạn đọc góp ý.
PHẦN NỘI DUNG
I. GIỚI THIỆU TÌNH HUỐNG
Câu chuyện xảy ra khi nhiều hộ dân sống dọc theo các
triền sông, rạch ở phường Thới Thuận, quận đầu nguồn Thốt
Nốt thành phố Cần Thơ kéo đến trụ sở Ủy ban nhân phường, rồi
phòng Tài nguyên và Mơi trường quận cùng các cơ quan có
thẩm quyền của thành phố trình báo, u cầu có biện pháp xử
lý nhà máy của cơng ty TNHH Đ thuộc tập đồn NV hoạt động
sản xuất xả thải trực tiếp ra sông, rạch gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước, sức khỏe
của các hộ gia đình nơi đây. Qua khảo sát, có thể thấy diễn biến
vụ việc như sau:
Tập đoàn NV là đơn vị đứng đầu trong làng thủy sản Việt
Nam, Nhà máy của công ty TNHH Đ thuộc tập đoàn NV chuyên
chế biến sản phẩm tra xuất khẩu, thức ăn gia súc, dầu cá, bột
cá… đi vào hoạt động từ tháng 2 năm 2006 tại khu công
nghiệp - tiểu thủ công Thốt Nốt. Ngày nhà máy được khánh
thành, khơng chỉ lãnh đạo chính quyền sở tại mà hầu hết người
dân ở địa phương đều rất vui mừng. Người lao động có thêm
việc làm, những hộ ni cá tra ở địa phương cảm thấy nhẹ lo vì
đã có đầu ra… Đầu năm 2007, tập đoàn NV tiếp tục đầu tư xây
dựng khu nhà xưởng mới, công suất 700 tấn cá nguyên
liệu/ngày. Đến tháng 7 năm 2008 nhà máy của Công ty D & A
bắt đầu hoạt động. Chưa hết mừng, nỗi lo sầm sập đến, ngủ
một đêm thức dậy ra sơng lấy nước, bà con khơng khỏi giật
mình. Nước bị đổi màu, mặt nước toàn mỡ cá, bốc mùi tanh
nồng. Mùi hôi thối từ khu sản xuất lan rộng gây buồn nơn, khó
chịu. Bà con phản ánh nhưng công ty vẫn thải nước thải trực
tiếp ra vàm rạch Rạp và sông Hậu. Nhà ở cách xa nơi sản xuất
hàng cây số vẫn thấy hôi. Người dân ở Thới Thuận đành phải
làm đơn trình báo vụ việc với cơ quan quản lý Nhà nước ở địa
phương. Chính quyền và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ở quận cử cán bộ đến làm việc với lãnh đạo của công ty, nhưng
người đại diện của đơn vị viện lý do khơng tiếp. Tuần sau, đồn
kiểm tra của địa phương do Chánh thanh tra Sở Tài nguyên &
Môi trường thành phố làm trưởng đồn đến cơng ty TNHH Đ
kiểm tra toàn bộ khu sản xuất và nơi tiếp giáp với bờ sông. Kết
quả kiểm tra cho thấy những điều bà con phản ánh là có thật.
Đồn kiểm tra cịn phát hiện đơn vị này chưa có báo đánh gia
tác động môi trường và trong khu vực sản xuất rộng lớn hàng
chục ngàn mét vng khơng có hệ thống xử lý nước thải dù là
đơn giản nhất. Toàn bộ nước thải chưa qua xử lý theo rãnh
nước xả thẳng ra sông, rạch. Tại khu nhà xưởng chế biến cũng
không có hệ thống xử lý khí thải, vì vậy mùi hôi thối khuyếch
tán trong môi trường diện rộng, chủ yếu là do công đoạn sấy
xương cá, làm theo phương pháp thủ cơng nên rất hơi. Đồn
thanh tra kết luận, Cơng ty D & A đã vi pham pháp luật Bảo vệ
môi trường, ở điều 18 Luật Bảo vệ môi trường. Đồn lập biên
bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và
báo cáo vụ việc với lãnh đạo Ủy ban nhân dân thành phố. Theo
sự chỉ đạo của thường trực Ủy ban nhân dân thành phố, Chánh
thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính với hình thức xử phạt chính là 20 triệu đồng;
buộc đơn vị phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường,
khắc phục ô nhiễm, xây dựng hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu
chuẩn môi trường Việt Nam. Công ty Đ chấp hành nộp phạt,
đầu tư làm hệ thống xử lý khí thải và khu xử lý nước thải cơng
suất 3.500m3/ ngày, nhanh chóng đưa vào vận hành. Nhưng
không bao lâu người dân ở Thốt Nốt tiếp tục khiếu nại. Cơ quan
chức năng đến kiểm tra và lấy mẫu nước xét nghiệm. Kết quả
các chỉ tiêu đều vượt rất cao so với tiêu chuẩn cho phép. Công
ty Đ cũng chưa thực hiện báo cáo giám sát định kỳ cho phòng
quản lý Tài nguyên và Môi trường quận Thốt Nốt. Tháng giêng
năm 2008, đơn vị tiếp tục bị lập biên bản vi phạm hành chính.
Tổng số tiền bị xử phạt là 12.500.000 đồng cùng các biện pháp
khắc phục. Lãnh đạo công ty cam kết khắc phục trong thời gian
sớm nhất.
Thế nhưng khi khu sản xuất thứ hai tại của tập đoàn NV tại
thốt Nốt hoạt động, tình trạng ơ nhiễm nguồn nước cịn nghiêm
trọng hơn, nhất là đoạn tiếp giáp với nguồn nước thải và các
con rạch: Bị Ĩt, Trại Mai và rạch Rạp. Phần lớn những hộ dân
sống ở đây đều nghèo khó. Có đến 70% trong số khoảng 500 hộ
dân ở rạch Rạp hàng ngày sử dụng nguồn nước này để nấu ăn,
tắm giặt…Giờ nước khơng cịn dùng được, mùi hơi thối ngày
càng nồng nặc, cá, tôm chết nổi lều phều cặp mé rạch, tắm
hoặc rửa tay là bị ngứa, da nổi dầy những mục nước đỏ li ti.
Đến mùa nước nổi, nước tràn vào nhà, bà con phải lội bì bõm
trong dịng nước ơ nhiễm. Trong khoảng thời gian chưa đầy một
tháng, chỉ riêng ở rạch Rạp đã có khoảng 20 người dân, hầu hết
là trẻ em phải nhập viện do bị sốt, tiêu chảy và mắc các bệnh
về đường hô hấp.
Tại kỳ họp HĐND thành phố Cần Thơ lần thứ 9, cử tri và
các đại biểu HĐND liên tục đề đạt ý kiến, chất vấn lãnh đạo
UBND và Sở Tài ngun & Mơi trường thành phố. Đồn giám sát
của HĐND thành phố, Chánh thanh tra Sở Tài nguyên & Môi
trường đã đến giám sát, yêu cầu lãnh đạo công ty thực hiện
đúng những cam kết bảo vệ môi trường như đã nêu trong báo
cáo đánh giá tác động môi trường. Báo, đài liên tục phản ánh
nguy cơ môi trường sống ở các khu dân cư gần khu công nghiệp
- tiểu thủ công nghiệp Thốt Nốt đang dần bị hủy diệt do nguồn
nước thải từ nhà máy của 2 công ty TNHH Đ và A, vi phạm
nghiêm trọng các quy định về bảo vệ môi trường.
Mỗi ngày, hai khu nhà xưởng này sản xuất hơn 1.000 tấn
cá nguyên liệu, thải ra khoảng 7.500m3 nước thải. Nếu hoạt
động hết công suất khu xử lý nước thải tại đây cũng chỉ xử lý
được 3.500m3/ngày đêm. Như vậy, vẫn còn một khối lượng lớn
nước thải chưa qua xử lý thải trực tiếp xuống sông, rạch.Và theo
phản ánh của người dân địa phương, hệ thống xử lý nước thải
của cơng ty TNHH Đ vận hành khơng liên tục vì nhiều lúc các
đường nước xả thải đều đầy máu và mỡ cá. Theo ước tính của
giới chun mơn thì chi phí điện và hóa chất cho xử lý nước thải
khá tốn kém, khoảng 30 triệu đồng/ ngày đêm....
Như vậy, tình huống trên chỉ ra một thực trạng về sự cố
tình vi phạm, mặc dù đã bị xử lý vi phạm hành chính nhiều lần
của các doanh nghiệp nói chung, của Cơng ty D & A nói riêng
và thiếu những động thái khắc phục có hiệu quả. Nhìn chung,
có thể lý giải hiện tượng này theo các nguyên nhân cơ bản như
sau:
Thứ nhất, những nguyên nhân khách quan quyết định
hoặc ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp đến tình trạng vi phạm của
Cơng ty D & A và tình trạng quản lý thiếu hiệu quả của cơ quan
quản lý nhà nước ở quận Thốt Nốt. Biểu hiện như:
Một là, xuất phát từ nền kinh tế thị trường và điều kiện
kinh tế ỏ địa phương là nguyên nhân cơ bản quyết định đến
tình trạng trên. Nếu nền kinh tế thị trường tạo ra tính độc lập,
sáng tạo của các chủ thể kinh doanh trong môi trường cạnh
tranh lành mạnh và định hướng của Nhà nước thì nó cũng đồng
thời là ngun nhân làm nảy sinh các tiêu cực của Công ty D &
A. Bởi lẽ, hoạch toán kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm là
chiến lược mà bất kỳ một doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh
doanh nào cũng tính đến. Điều này tạo ra việc tính tốn giữa
chi phí và lợi nhuận để có thể tiến hành sản xuất, kinh doanh
hay khơng ? Do đó, Công ty D & A, mặc dù bị xử phạt vi phạm
hành chính nhiều lần nhưng vẫn chấp nhận phạt theo quy định
mà không cố gắng khắc phục hay thực hiện những giải pháp đã
xây dựng của báo cáo đánh giá và xử lý nguồn nước thải và khí
thải. Mặt khác, chính nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội địa
phương, cơ hội việc làm,... mà chính quyền quận Thốt Nốt cũng
khơng thể có biện pháp nào cứng rắn hơn việc xử phạt vi phạm
hành chính theo quy định của pháp luật hiện hành.
Hai là, trình độ phát triển của khoa học-cơng nghệ, nhất là
khoa học-cơng nghệ phân tích, xử lý chất thải hay công nghệ
sạch trong sản xuất ở nước ta nói chung và ở Thành phố Cần
Thơ nói riêng còn nhiều vấn đề cần phải xem xét và quan tâm.
Những hạn chế về trình độ nghiên cứu khoa học vi sinh trong
nước, cơng nghệ máy móc nhập khẩu để chế biến thực phẩm
cá ba sa ở mức độ trung bình chưa nói đến là sự thải loại của
nền kinh tế thị trường phát triển lâu đời ở các nước phương Tây;
trình độ lao động, sản xuất chủ yếu là lao động phổ thông;... đã
làm cho việc hạn chế đến mức tối đa-tức đạt thơng số an tồn
mơi trường cho phép theo tiêu chuẩn quốc tế ở Việt Nam nói
chung và ở Công ty D & A là một vấn đề khó. Nếu thay đổi tồn
bộ cơng nghệ sản xuất tiên tiến để đảm bảo tiêu chuẩn môi
trường cho phép thì khả năng và năng lực của Cơng ty D & A
hiện hành là khó có thể trong khi đó các doanh nghiệp sản xuất
cùng loại sản phẩm ở nước ngồi được hưởng lợi từ những cơng
trình nghiên cứu khoa học về xử lý chất thải công nghiệp lâu
đời của Nhà nước ở nước ngoài.
Thứ hai, những nguyên nhân chủ quan tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp đến tình trạng vi phạm và hạn chế của quản lý
nhà nước trên địa bàn quận Thốt Nốt. Xét trong điều kiện hiện
nay, có thể thấy:
Một là, sự hạn chế của chính sách phát triển khoa họccơng nghệ và mơi trường ở nước ta nói chung và ở Thành phố
Cần Thơ nói riêng. Có thể nói chính sách và môi trường đầu tư
cho nghiên cứu khoa học, nhất là khoa học công nghệ cao phục
vụ cho phát triển sản xuất ở nước ta hiện vẫn thực hiện theo cơ
chế “cũ”. Do vậy, kinh phí mất nhiều nhưng hiệu quả thực tế lại
không cao. Chẳng hạn, viện nghiên cứu kinh tế-xã hội thành
phố khi thực hiện nghiên cứu các đề án do Chính phủ giao hay
của Thành phố đều chỉ tồn tại trên “giấy” mà chưa có thể áp
dụng và áp dụng có hiệu quả cao. Bởi, chính sách trả thù lao
cho đội ngũ cán bộ, viên chức ở Viện vẫn chủ yếu dựa vào
“thâm niên công tác” và không đáng kể so với sự chi trả của
các doanh nghiệp tư nhân. Mặt khác, các cơng trình nghiên cứu
khoa học-công nghệ vẫn chỉ dừng lại ở một vài sáng kiến nhỏ à
chưa phải là những cơng trình điển hình quốc gia. Đây là những
nguyên nhân cơ bản làm cho nền sản xuất trong nước với công
nghệ lạc hậu, máy móc, thiết bị quá cũ và chậm đổi mới.
Hai là, những hạn chế về mặt thể chế pháp luật về quản lý
và bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay. Trước hết, phải nói
đến sự mâu thuẫn, chống chéo trong phân cấp chức năng và
phân cấp lãnh thổ hiện nay đã bộc lộ những khuyết tật cơ bản
của nó như: tính thụ động, trơng chờ, ỷ lại; bệnh quan liêu, độc
đốn, tham nhũng, lãng phí hay các thủ tục hành chính rườm rà
đã làm giảm hiệu quả và hiệu lực của quản lý nhà nước, nhất là
ở chính quyền địa phương hiện nay. Sau đó phải kể đến sự hạn
chế về năng lực, trình độ và kỹ năng của cán bộ, công chức,
thanh tra viên, kiểm tra viên, kỹ thuật viên ở Thành phố và
quận Thốt Nốt trong việc thực thi hoạt động công vụ ở địa
phương. Sự cấp phép thành lập và hoạt động kinh doanh cho
Công ty D & A khi không đảm đảm điều kiện về thực tế theo
báo cáo đánh giá tác động môi trường mà Công ty gửi cơ quan
chức năng xem xét trước khi thành lập và tiến hành hoạt động
sản xuất đã chứng minh khả năng xem xét, đánh giá của đội
ngũ cán bộ, cơng chức cịn nhiều hạn chế. Mặt khác, chính
những quy định về trình tự thủ tục thanh tra, điều tra, xử lý vi
phạm hiện hành chưa bảo đảm để có thể phát hiện kịp thời và
xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm về mơi trường đã dẫn
đến tình trạng Cơng ty D & A gây ô nhiễm nặng, và sự báo cáo
của người dân, dư luận lên tiếng cảnh báo mới được tiến hành
xử lý. Phải chăng, nếu như người dân không phản ánh, dư luận
khơng lên tiếng thì những vi phạm trên sẽ chẳng bao giờ bị xử
lý và môi trường cứ ngày càng bị ô nhiễm. Thực tế này cho
thấy, trách nhiệm của quản lý nhà nước còn chưa gắn liền với
trách nhiệm với dân cư, nhất là bảo đảm môi trường sống, lao
động và học tập của người dân địa phương.
Ba là, những hạn chế về nhận thức của Công ty D & A.
Tình huống trên nêu lên một thực tế là Công ty D & A luôn luôn
đặt mục tiêu lợi ích kinh doanh lên trên lợi ích Nhà nước, lợi ích
người dân. Liên tiếp các hành vi vi phạm và sự thờ ơ vô trách
nhiệm của Ban lãnh đạo Cơng ty khơng phải vì khơng biết đến
những ảnh hưởng từ chất thải của Công ty cho người dân địa
phương ? càng không phải không biết đến các quy định của
pháp luật Việt Nam về nghiêm cấm gây ô nhiễm mơi trường
dưới mọi hình thức ? mà điều này chứng tỏ sự hám lợi và sự bất
chất để đạt được lợi nhuận cao trong sản xuất của lãnh đạo
Công ty là có lý do chính đáng của nó.
Từ những hạn chế về khách quan và chủ quan dẫn đến
những hậu quả trực tiếp và gián tiếp mà người dân, xã hội và
Nhà nước phải gánh chịu. Nhìn chung, có thể thấy những tác
hại của nó như: Người dân trực tiếp chịu ảnh hưởng bởi hành vi
vi phạm của Công ty D & A về dịch bệnh, sức khỏe, chi phí cải
thiện sức khỏe và môi trường sống trước mắt và lâu dài. Trong
đó, Nhà nước gia tăng gánh nặng xã hội về chăm sóc y tế, vệ
sinh phịng dịch,... Đặc biệt, là hệ lụy mang tính dây truyền về
tình trạng sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa
bàn Thành phố, thậm chí cả hoạt động quản lý nhà nước. Chính
những hạn chế của cơng tác quản lý đã tạo ra sự mất cơ hội và
giảm lòng tin của người dân, doanh nghiệp đối với chính quyền
địa phương.
Như vậy, việc phát triển kinh tế-xã hội địa phương và trách
nhiệm bảo đảm đời sống mọi mặt cho người dân là tách rời
nhau ? hay chính quyền Thành phố và doanh nghiệp khơng cịn
cách xử lý, giải quyết nào khác mà chỉ được phép lựa chọn 1
trong 2 vấn đề trên ? là những câu hỏi mà tình huống đặt ra
cần phải được làm sáng tỏ nhằm một mặt bảo đảm sự phát
triển ổn định kinh tế-xã hội nhưng mặt khác phải bảo vệ được
môi trường sống trong sạch cho người dân địa phương ở quận
Thốt Nốt.
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
Những hành vi từ phía Cơng ty D & A và chính quyền
Thành phố Cần Thơ mà tình huống nêu lên có thể được phân
tích, đánh giá dưới nhiều góc độ với những mục đích khác nhau.
Chẳng hạn, dưới góc độ pháp lý cơ quan có thẩm quyền tiến
hành các thủ tục cần thiết nhằm xác định vi phạm và xác định
trách nhiệm pháp lý đối với từng vi phạm cụ thể của Cơng ty D
& A; hay dưới góc độ quản lý nhà nước cũng có thể phân tích
dưới góc độ hoạt động chun mơn của từng loại cơ quan quản
lý nhà nước như: dưới góc độ quản lý nhà nước về y tế; quản lý
nhà nước về tài nguyên và môi trường; quản lý nhà nước về
công thương; quản lý nhà nước về nông, lâm nghiệp và thủy
sản;….
Với mục tiêu mà tình huống đặt ra là nhằm xác định trách
nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước; của doanh nghiệp đối với
tình trạng ơ nhiễm nguồn nước trên con rạch dài 1,5 km và xây
dựng biện pháp cụ thể để khắc phục các hậu quả đó. Tiểu luận
phân tích tình huống dưới góc độ quản lý nhà nước về tài
ngun và mơi trường nhằm góp phần tìm ra phương hướng,
cách thức giải quyết phù hợp với những yêu cầu và mục tiêu
mà tình huống đặt ra. Nhìn chung, tiểu luận phân tích theo các
nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, xác định mức độ và tính chất của hành vi gây ô
nhiễm môi trường của Công ty D & A. Theo quy định tại Điều 27
mục 1, nghị định 175 của Chính phủ quy định: “Mọi cơ sở sản
xuất, kinh doanh, khách sạn, nhà hàng…có các chất thải ở dạng
rắn, khí, lỏng cần phải tổ chức xử lý đạt tiêu chuẩn mơi trường
trước khi thải ra ngồi phạm vi quản lý của cơ sở mình, cơng
nghệ xử lý các loại chất thải trên phải được các cơ quan quản lý
Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt”. Cơng ty của tập đồn NV
chưa có báo cáo đánh giá tác động môi trường và báo cáo môi
trường đã tiến hành xây dựng nhà xưởng, đưa nhà máy vào
hoạt động sản xuất là vi phạm vào các quy định của Luật Bảo
vệ môi trường ngày 29/11/2005; Quyết định số 22/2006/QĐBTNMT của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ngày
18/12/2006 về việc bắt buộc áp dụng Tiêu chuẩn Việt Nam về
môi trường. Thực tế, mỗi ngày, 2 nhà máy của công ty Đ & A xả
ra 7.500m3 nước thải, trong khi hệ thống xử lý nước thải công
xuất hoạt động tối đa là 3.500m 3/ngày đêm mà theo Báo cáo
kết quả phân tích và xét nghiệm mẫu nước lấy tại đầu ra của
cống Công ty D & A như sau:
- PH
Nằm trong tiêu chuẩn cho
- SS : chất cặn bã (mg/l)
phép
Vượt 87,25 lần tiêu chuẩn
cho phép
- COD : Nhu cầu oxy hóa học Vượt 87,25 lần tiêu chuẩn
(mg/l)
cho phép
- BOD5 nhu cầu oxy sinh hóa Vượt 116,66 lần tiêu chuẩn
(mg/l)
- Amoniac (N-NH3) (mg/l)
cho phép.
Vượt 41,6 lần tiêu chuẩn cho
- Tổng Nitơ (mg/l)
phép
Vượt 10,82 lần tiêu chuẩn
- Phốt pho (mg/l)
cho phép
Vượt 8,36 lần tiêu chuẩn cho
- Sunfua (mg/l)
phép
Vượt 6,96 lần tiêu chuẩn cho
phép
Mặt khác, căn cứ vào các quy định của các văn bản quy
phạm pháp luật hiện hành có thể thấy: Việc không lập báo cáo
đánh giá tác động môi trường của Công ty D &A mà đã xây
dựng và đưa nhà máy và hoạt động sản xuất là vi phạm khoản
3 điều 9 Nghị định 81/2006/NĐ-CP, ban hành ngày 9/8/2006
của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bảo vệ mơi trường. Hành vi xả thải vượt tiêu chuẩn cho phép vi
phạm quy định tại khoản 2 điều 10, nghị định 81/2006/NĐ-CP.
Đồng thời, khí thải như: mùi hơi thối, mùi khó chịu trực tiếp vào
môi trường, không qua thiết bị hạn chế môi trường, đã vi phạm
khoản 11 điều 3, Điều 11 nghị định 81/2006/NĐ-CP. Cuối cùng
là hành vi không thực hiện báo cáo giám sát định kỳ và các tài
liệu liên quan khác cho cơ quan lưu trữ tài liệu thông tin về môi
trường theo quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, vi
phạm khoản 1 điều 9, nghị định 81/2008/NĐ-CP.
Như vậy, có thấy các hành vi vi phạm của Công ty D & A
về các hành vi như: Xả thải ra rạch, khí thải ra khơng; khơng
làm báo cáo đánh giá tác động môi trường;… như trên phân
tích cần phải bị xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành.
Thứ hai, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước ở địa
phương. Trách nhiệm quản lý nhà nước ở Thành phố Cần Thơ
mà tình huống nêu lên có thể xác định theo:
Một là, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước của
chính quyền ở Thành phố Cần Thơ. Việc để cho Công ty Đ chưa
lập báo cáo đánh giá tác động môi trường nhưng vẫn được cơ
quan quản lý Nhà nước cấp phép xây dựng và đi vào hoạt động,
dẫn đến sự cố đáng tiếc đã phản ánh tính trách nhiệm và chịu
trách nhiệm của Sở Tài nguyên và Môi trường khi thẩm định,
đánh giá báo cáo tác động môi trường theo quy định của Cơng
ty D. Mặt khác, khi khơng có báo cáo, liệu Cơng ty D có đủ điều
kiện theo quy định của pháp luật hiện hành để được cấp phép
thành lập, xây dựng và tiến hành sản xuất ? Như vậy, có thể
khẳng định rằng sự phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố cịn nhiều bất cập dẫn đến
tình trạng UBND ban hành quyết định sai. Đồng thời, tính thiếu
trách nhiệm còn được thể hiện trong việc để xảy ra vụ việc kéo
dài, xử lý vi phạm hành chính nhiều lần nhưng khơng có biện
pháp khắc phục triệt để tình trạng vi phạm pháp luật của Công
ty D.
Hai là, trách nhiệm của cơ quan thanh tra, kiểm tra xử lý
vi phạm về môi trường của Công ty D & A. Có thể khẳng định
rằng, cơng tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý nhà
nước về tài nguyên và môi trường Thành phố Cần Thơ chưa
được tiến hành theo quy định như: thanh tra, kiểm tra định kỳ,
đột xuất;… Chưa có sự phân cơng thanh tra viên, điều tra viên
ở quận bám sát theo từng địa bàn cụ thể, đối tượng cụ thể để
quản lý về môi trường;… nên đa để xảy ra tình trạng, nhân dân
khi khơng thể chịu nổi những tác hại của nguồn nước và khơng
khí bị ơ nhiễm đến sức khỏe của mình mới tiến hành báo cáo cơ
quan chức năng, khiếu kiện vụ việc hành chính,…
Mặc dù, cơ quan Thanh tra, kiểm tra thuộc Sở Tài nguyên
và Môi trường đã tiến hành các thủ tục cần thiết nhằm xác định
mức độ vi phạm để xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại
Nghị định 81/2006/NĐ-CP và yêu cầu Công ty D đưa ra các giải
pháp để khắc phục sự cố môi trường hiện tại và tương lai nhưng
việc thanh tra, kiểm tra để những cam kết của Cơng ty D đưa ra
thì lại bị bỏ ngỏ, thiếu giám sát và đôn đốc thực hiện. Do đó,
làm nảy sinh tình trạng vi phạm tái diễn của Công ty D và sự
khiếu kiện của nhân dân về ô nhiễm môi trường tại địa phương.
Vi phạm về môi trường của các doanh nghiệp, điển hình là
các nhà máy của công ty cổ phần NV đã làm suy giảm chất
lượng môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng đến cuộc sống sinh
hoạt và sức khỏe của hơn 1.000 hộ dân ở các khu dân cư lân
cận. Tại các buổi tiếp xúc giữa đại biểu HĐND các cấp và cử tri
địa phương, bà con đã nhiều lần đề đạt mong chính quyền và
các cơ quan chuyên môn của thành phố thực hiện tốt hơn công
tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực môi trường, xử lý đến nơi
đến chốn những đơn vị vi phạm.
Thiết nghĩ, việc đẩy mạnh bảo vệ môi trường lên ngang
bằng với phát triển kinh tế - xã hội nhằm tạo sự cân bằng , bền
vững trong quá trình phát triển là rất cần thiết. Với phương
châm phòng ngừa là chính, các cơ quan quả lý nhà nước ở địa
phương cần tích cực tuyên truyền, tạo điều kiện để doanh
nghiệp duy trì phát triển sản xuất, kinh doanh, đồng thời tự giác
chấp hành tốt các quy định về bảo vệ mơi trường. Song cũng
cần có biện pháp xử lý nghiêm đối với những trường hợp cố tình
vi phạm, gây hậu quả nghiêm trọng.
III. XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Qua những phân tích trên, cho phép đưa ra những cách
giải quyết và xử lý khác nhau hoặc có cùng cách xử lý nhưng
lựa chọn các giải tối ưu. Trên cơ sở đánh giá và mục tiêu của
tình huống và tiểu luận đặt ra, bản thân tôi mạnh dạn nêu lên
một số phương án xử lý cụ thể như sau:
a/ Phương án 1: Tiến hành xử lý vi phạm theo quy
định của pháp luật và buộc đơn vị phải xử lý môi trường
đạt tiêu chuẩn Việt Nam cho phép
-Mục tiêu của tình huống: Nhằm đảm bảo trật tự pháp
chế xã hội chủ nghĩa thông qua việc xử lý vi phạm hành chính
theo quy định hiện hành và khắc phục sự cố môi trường.
- Nội dung tiến hành:
+ Tiến hành kiểm tra để xác định mức độ chấp hành của
2 cơng ty, lập biên bản vi phạm hành chính làm cơ sở ra quyết
định xử phạt hành chính đối với hành vi trực tiếp xả các chất
độc hại ra sông, rạch.
+ Buộc đơn vị trong thời hạn 180 ngày, kể từ ngày nhận
quyết định xử phạt vi phạm hành chính, phải xử lý môi trường
đạt tiêu chuẩn Việt Nam cho phép.
+ Làm hệ thống ao, chia thành nhiều ô để nước thải tự
phân hủy. Đây là phương pháp xử lý sinh học có thể áp dụng
cho các cơ quan chế biến thủy sản có diện tích rộng.
+ Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả tình
trạng ơ nhiễm mơi trường do vi phạm hành chính (bao gồm cả
việc đền bù thiệt hại về kinh tế và môi trường đối với các tổ
chức, cá nhân bị thiệt hại do vi phạm của đơn vị gây ra). Đồng
thời phải thực hiện đúng các nội dung trong báo cáo đánh giá
tác động môi trường.
-Nguồn lực thực hiện phương án: Cơ quan tiến hành,
UBND giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường tiến hành làm các
thủ tục để kiểm tra, đề xuất mức xử lý và các giải pháp xử lý
của Công ty D và có trách nhiệm tiến hành theo dõi thực hiện
cam kết, báo cáo kết quả thường xuyên cho UBND Thành phố.
Kinh phí thực hiện phương án, đối với thủ tục kiểm tra xác định
vi phạm do ngân sách thường xuyên của Thành phố; cịn đối với
kinh phí xử lý hậu quả, khắc phục hệ thống xử lý chất thải do
Công ty D phải chịu trách nhiệm.
b/ Phương án 2 : UBND thành phố ra quyết định tạm
đình chỉ hoạt động sản xuất của đơn vị cho đến khi hoàn
thiện biện pháp xử lý chất thải theo quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia
- Mục tiêu của tình huống: Nhằm ngăn chặn chất thải do
hoạt động sản xuất của Nhà máy ra môi trường và tiến hành
xây dựng các giải pháp để khắc phục hậu quả đã xảy ra.
- Nội dung cơ bản của phương án: Phương án cần tiến
hành:
+ Tiến hành thanh tra, kiểm tra hệ thống xử lý nước thải
và lập biên bản vi phạm hành chính. UBND TP ra quyết định
tạm đình chỉ hoạt động; tước giấy phép mơi trường từ 80 – 90
ngày làm việc – điều tra, xác định khu vực môi trường bị ô
nhiễm và buộc đơn vị thực hiện các biện pháp khắc phục ô
nhiễm, phục hồi môi trường theo yêu cầu của cơ quan quản lý
nhà nước về môi trường.
+ Buộc đơn vị bồi thường thiệt hại do ơ nhiễm, suy thối
mơi trường và thực hiện đúng các nội dung trong báo cáo đánh
giá tác động môi trường.
- Nguồn lực thực hiện phương án: Về cơ quan tiến hành,
UBND Thành phố giao trách nhiệm cho Sở Tài nguyên và Môi
trường; Thanh tra môi trường tiến hành các thủ tục cần thiết và
giám sát việc chấp hành của Công ty D; báo cáo UBND Thành
phố. Kinh phí, phần tiến hành thanh tra do kinh phí của UBND,
còn khắc phục sự cố, bồi thường thiệt hại,… do Công ty D phải
chịu trách nhiệm.
c/ Phương án 3: Tiến hành xác định trách nhiệm và
tính phải chịu trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà
nước, người có thẩm quyền và biện pháp khắc phục
những thiếu sót
- Mục tiêu của phương án: Nhằm đảm bảo cho hoạt động
công vụ của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền gắn liền
với chức năng, nhiệm vụ được phân công, phân cấp và đặc biệt
là bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của dân cư, tổ chức thuộc
phạm vi quản lý.
- Nội dung thực hiện phương án:
Bước 1: Thanh tra UBND Thành phố tiến hành xác
định
+ UBND Thành phố giao cho Thanh tra của UBND chủ trì,
phối hợp với các Sở, Phịng thuộc Sở,… tiến hành xác định trách
nhiệm cụ thể của từng cơ quan khi để xảy ra tình trạng Cơng ty D
khơng có báo cáo đánh giá tác động mơi trường nhưng vẫn được
cấp phép xây dựng và hoạt động.
+ Thanh tra tiến hành các thủ thanh tra hành chính theo
quy định.
+ Dự kiến mức xử lý trách nhiệm kỷ luật trình UBND
Thành phố theo kế hoạch được phân cơng.
Bước 2: Sở Tài nguyên và Môi trường tiền hành xây
dựng kế hoạch xử lý ô nhiễm môi trường trên địa bàn
+ Tiến hành thanh tra, kiểm tra xác định mức độ ô
nhiễm để trình UBND Thành phố quyết định mức xử phạt vi
phạm hành chính, biện pháp cưỡng chế buộc Cơng ty A phải
tiến hành.
+ Tiến hành xây dựng các giải pháp xử lý và giám sát xử
lý như tình huống 1 và 2.
+ Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tổng hợp báo
cáo kết quả cho UBND Thành phố.
- Nguồn lực thực hiện phương án: Về cơ quan tiến hành
cụ thể theo các bước trên. Kinh phí cho các thủ tục hành chính
do ngân sách Thành phố; cịn kinh phí khắc phục do Cơng ty D
chi phí.
IV. LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Xuất phát từ mục tiêu cụ thể của mỗi phương án, cho
phép chúng ta lựa chọn các giải pháp khác nhau tùy thuộc vào
từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nhất định. Nếu lựa chọn
phương án 1 hay 2 thì nhằm giải quyết được hành vi vi phạm và
khắc phục sự cố về môi trường của Công ty D nhưng không xác
định được trách nhiệm trong hoạt động công vụ của cơ quan
quản lý nhà nước. Có thể thấy, những ưu điểm, hạn chế của
mỗi phương án thông qua sự so sánh như sau:
PHƯƠN
ƯU ĐIỂM
HẠN CHẾ
G ÁN
Phương
+ Doanh nghiệp vẫn + Trong thời gian đơn
án 1
hoạt động sản xuất. vị xây dựng hệ thống
Do đó, mỗi ngày tiêu xử lý, nguồn nước thải
thụ số lượng lớn cá da độc hại vẫn trực tiếp đổ
trơn và các loại thủy, ra sông rạch- hủy diệt
hải sản khác; tạo việc môi trường, ảnh hưởng
làm thường xuyên cho đến sinh hoạt và đời
3000 lao động; tăng sống của cư dân, dẫn
nguồn thu cho ngân đến hậu quả khó lường,
sách nhà nước;
việc
khắc
phục
mất
+ Bù đắp phần nào nhiều thời gian và tốn
thiệt hại về kinh tế, kém;
môi
trường
và
sức + Do nguồn nước thải
khỏe cho cá nhân và có nhiều chất độc hại,
cộng đồng;
khối
lượng
lớn
nên
+ Phương án xử lý trong quá trình xử lý
nước thải ít tốn kém, khó có thể khử hết mùi
có thể thực hiện trong hôi thối. Và muốn bảo
thời gian ngắn, chỉ cần đảm khả năng tự làm
cải tạo một phần công sạch triệt để cần diện
suất thiết bị. Khi đưa tích đất rộng và trồng
vào sử dụng khơng cây xung quanh.
tốn chi phí vận hành,
do
đây
pháp
tự
là
phương
làm
sạch,
giúp doanh nghiệp hạ
giá thành sản phẩm,
tăng khả năng cạnh
tranh
trên
thương
trường.
Phương
+
Thể
án 2
nghiêm
pháp
hiện
tính + Sản xuất đình trệ,
minh
của việc tiêu thụ nguyên
luật,
nhanh liệu thủy sản gặp nhiều
chóng khắc phục ơ khó khăn; hàng ngàn
nhiễm
và
mơi trường;
phục
hồi lao động khơng có việc
làm, nhà nước thất thu,
+ Bù đắp được tăng trưởng GDP bị ảnh
phần nào thiệt hại cho hưởng;
các tổ
chức và cá + Phương án đề xuất
nhân bị ảnh hưởng;
xử lý mơi trường tuy có
+ Phương án đề nhiều ưu điểm song chi
xuất xử lý nước thải phí đầu tư lớn, thời
khống
chế
được
ơ gian xây dựng kéo dài.
nhiễm, đáp ứng nhu Do đó làm chậm thời
cầu bảo vệ môi trường gian hoạt động trở lại.
trong
khu
vực
sản Khi hoạt động tốn thêm
xuất, cũng như các chi phí vận hành.
đơn vị và khu dân cư
Phương
lân cận.
+ Phát huy được các + Thời gian tiến hành
án 3
ưu điểm của phương lâu;
án 1 và 2. + Nâng cao + Đòi hỏi sự công tâm
được trách nhiệm của và thái độ cương quyết
hoạt động quản lý nhà của chính quyền Thành
nước đối với lĩnh vực phố Cần Thơ.
được phân công, phân
cấp.
Từ các so sánh trên, bản thân tôi lựa chọn phương án 3 là
phương án tối ưu để giải quyết các mục tiêu mà tình huống và
bài tiểu luận đặt ra. Bởi lẽ, việc xác đinh trách nhiệm và tính phải
chịu trách nhiệm trong hoạt động quản lý nhà nước là quy chế
xác định cơ chế mới nhằm khắc phục các nhược điểm của cơ chế
“mệnh lệnh hành chính” hiện hành để nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước. Đồng thời, phương án 3 vẫn đảm bảo xử lý và giải
quyết được các vấn đề ô nhiễm mơi trường mà tình huống đặt ra.
V. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
1.Một số giải pháp cơ bản
1/ - Phịng Mơi trường – Sở Tài nguyên và Môi trường và đội
Cảnh sát môi trường – công an thành phố Cần Thơ tiến hành
kiểm tra thường xuyên và đột xuất về tình hình xả nước thải ra
mơi trường.
Thu mẫu nước thải :
+ Từ hệ thống xử lý ra sơng Hậu.
+ Đường thốt nước thải chưa
qua xử lý.
+ Nguồn nước gần nơi xả nước
thải;
ð Để kiểm nghiệm về mức độ gây
ô
nhiễm của đơn vị.
2/ - UBND TPCT thành lập đoàn kiểm tra liên ngành :
. Kiểm tra toàn diện việc chấp hành các quy định hiện
hành về môi trường của 2 công ty Đ & A.
. Đề nghị 2 công ty Đ & A nộp bản thiết kế xây dựng nhà
máy cũng như hệ thống xử lý nước thải cho đoàn kiểm tra liên
ngành.
. Tiến hành kiểm tra hệ thống xả nước thải nổi và ngầm của
hai đơn vị.
. Lập biên bản vi phạm hành chính.
. Thanh tra Sở Tài ngun và Mơi trường ra quyết định xử
phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường và phối hợp với
lực lượng cảnh sát môi trường giám sát việc thực hiện quyết
định.
3/ - Sau 10 ngày, kể từ ngày giao quyết định xử phạt –
nếu khơng có khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử phạt
công ty Đ & A phải nghiêm chỉnh chấp hành. Nếu cố tình khơng
chấp hành thì bị cưỡng chế.
4/ Sau khi ban hành quyết định xử phạt, UBND TP giao
cho phịng Mơi trường – Sở Tài nguyên Môi trường, Sở khoa học
và công nghệ thành phố phối hợp với chính quyền và các cơ
quan chức năng huyện T và xã Thới Thạnh điều tra, xác định
phạm vi, mức độ ô nhiễm. Trên cơ sở đó, đưa ra phương án
giúp 2 cơng ty Đ & A khắc phục, phục hồi môi trường kịp thời
và hiệu quả; đồng thời tiến hành việc bồi thường thiệt hại về
kinh tế và môi trường cho các tổ chức và cá nhân ; hỗ trợ về
mặt kỹ thuật, nghiệp vụ chun mơn giúp đơn vị nhanh chóng
thực hiện đúng các nội dung trong báo cáo đánh giá tác động
môi trường đã được phê duyệt, cũng như việc xây dựng hệ
thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường Việt nam cho
phép.
5/ Chính quyền và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thường xuyên kiểm tra định kỳ, đột xuất; khuyến khích vận
động cán bộ, nhân dân địa phương tích cực cùng tham gia việc
chấp hành các quy định về môi trường khắc phục hậu quả của
2 công ty này.
6/ Sở tài nguyên & Môi trường thành phố theo dõi, giám
sát quá trình thực hiện và báo cáo kết quả cho UBND thành
phố.
7/ Trường hợp, đơn vị cố tình khơng chấp hành, đặc biệt
là việc cam kết chấm dứt xả nước thải chưa qua xử lý ra mơi
trường thì Sở Tài ngun và Môi trường thành phố làm văn bản,
đề nghị UBND thành phố ra quyết định đình chỉ hoạt động sản
xuất theo điều 49 Luật Bảo vệ môi trường – nhằm răn đe, chấn
chỉnh tình hình vi phạm mơi trường đang diễn ra rất phức tạo
trên địa bàn thành phố.
2.Một số kiến nghị
- Đối với địa phương và doanh nghiệp :
+ Tăng cường năng lực, bao gồm cả con người và bộ
máy, phục vụ tốt hơn công tác bảo vệ môi trường bằng các biện
pháp cụ thể. Trong đó cơng tác truyền thông cần được quan
tâm, thực hiện thường xuyên nhằm nâng cao nhận thức, giảm
đến mức thấp nhất số vụ việc vi phạm.
+ Sở kế họach & Đầu tư Thành phố Cần Thơ cần phối
hợp chặt chẽ với Sở Tài nguyên & môi trường và cơ quan quản
lý nhà nước có thẩm quyền. Khi tiến hành cấp phép đầu tư cho
các đơn vị sản xuất kinh doanh cần chú trọng đến vấn đề môi
trường.
+ Việc kêu gọi đầu tư nên có sự sàng lọc, quyết định ưu
tiên chọn những dự án đầu tư “thân thiện” với mơi trường, có
quy trình công nghệ hiện đại vừa nâng cao năng suất, chất
lượng sản phẩm, vừa giảm thiểu các chất độc hại thải ra môi
trường .
+ Các khu công nghiệp phải được phân khu chức năng
hợp lý, đảm bảo. Những khu công nghiệp hiện đã có khoảng
một nửa diện tích đất quy hoạch được khai thác, sử dụng cần
khẩn trương xây dựng hệ thống xử lý nước thải công nghiệp tập