Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN CHÍ LINH

KIỂM SỐT HẢI QUAN ĐỐI VỚI PHẾ LIỆU NHẬP KHẨU
LÀM NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN CHÍ LINH

KIỂM SỐT HẢI QUAN ĐỐI VỚI PHẾ LIỆU NHẬP KHẨU
LÀM NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Nguyễn Thị Thương Huyền



HÀ NỘI, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Chí Linh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT HẢI QUAN ĐỐI VỚI
PHẾ LIỆU NHẬP KHẨU LÀM NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT ........................... 6
1.1. Khái quát về kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu ...................... 6
1.2. Pháp luật về kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm
nguyên liệu sản xuất ......................................................................................... 10
1.3. Kinh nghiệm của hải quan một số nước trong kiểm soát phế liệu nhập
khẩu làm nguyên liệu sản xuất và bài học cho Việt Nam ................................ 16
Chương 2: THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT HẢI QUAN ĐỐI VỚI PHẾ
LIỆU NHẬP KHẨU LÀM NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM .................................................................................................. 24
2.1. Thực trạng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất trong thời
gian qua ở Việt Nam ......................................................................................... 24
2.2. Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về kiểm soát hải quan
đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất ...................................... 25

2.3. Thực trạng kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên
liệu sản xuất trong thời gian qua ở Việt Nam .................................................. 31
2.4. Đánh giá thực trạng cơng tác kiểm sốt hải quan đối với phế liệu nhập
khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật Việt Nam ................................. 42
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT HẢI
QUAN THEO PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI PHẾ LIỆU NHẬP KHẨU LÀM
NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM ........................................................ 56
3.1. Quan điểm và định hướng kiểm soát hải quan đối phế liệu nhập khẩu
làm nguyên liệu sản xuất ở Việt Nam trong thời gian tới ................................ 56
3.2. Những thuận lợi và thách thức của cơng tác kiểm sốt Hải quan đối
với mặt hàng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất ............................. 58
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát hải quan đối
với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất ............................................ 61
3.4. Một số đề xuất và kiến nghị ...................................................................... 72
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 81


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
EU: European Union - Liên minh châu Âu
WTO: World Trade Organization - Tổ chức Thương mại Thế giới
GATT: General Agreement on Tariffs and Trade - Hiệp ước chung
về thuế quan và mậu dịch


DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ, BẢNG

Hình 1.2: Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan với nhau .............................................21
Bảng 2.1. Số liệu nhập khẩu phế liệu năm 2017, 2018 và 2019. ..............................25
Biểu đồ 2.4. Kết quả xử lý hình sự Ngành hải quan .................................................41

Hình 3.1. Mơ hình dữ liệu tập trung..........................................................................65
Biểu đồ 2.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2015-2019..........84
Biểu đồ 2.2. Số lượng container phế liệu nhập khẩu vào Việt Nam 2015-8/2018 ...84
Bảng 2.2. Số liệu nhập khẩu phế liệu nhựa năm 2017 và 2018. ...............................85
Bảng 2.4. Phối hợp với lực lượng công an qua các năm...........................................85


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Việc tái chế, sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất được bắt đầu từ rất
sớm ở trên thế giới, ngày nay với nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá
mức cùng với xu hướng phát triển bền vững trên khắp toàn cầu, việc tái sử dụng
phế liệu làm nguyên liệu sản xuất được khuyến khích và xem xét là một trong
những chính sách bền vững trong phát triển. Do đó, nhiều nước trên thế giới cho
phép nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất. Tuy nhiên, bên cạnh những mục
đích nêu trên một số hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay đang lợi dụng danh
nghĩa xuất, nhập khẩu phế liệu để chuyển chất thải vào các quốc gia khác đặc biệt
các quốc gia đang phát triển.
Tại Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế nên vẫn cần
một số loại phế liệu như nhựa, giấy...để tái chế, phục vụ hoạt động sản xuất trong
khi nguồn nguyên liệu, phế liệu trong nước không đủ để đáp ứng nhu cầu của một
số ngành sản xuất nên việc nhập khẩu phế liệu từ nước ngoài về làm nguyên liệu
sản xuất là một nhu cầu thực tế, phù hợp với thông lệ quốc tế và quy định của pháp
luật Việt Nam.
Hải quan Việt Nam là cơ quan quản lý Nhà nước có nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát, kiểm sốt về hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận
tải xuất cảnh, nhập cảnh, q cảnh Việt Nam; phịng, chống bn lậu, vận chuyển
trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải
quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và

chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Ngày 25/3/2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 448/QĐ-TTg
phê duyệt chiến lược phát triển hải quan đến năm 2020. Đối với cơng tác kiểm sốt
hải quan, Thủ tướng nhấn mạnh cần hồn thiện và đổi mới cơng tác chống bn lậu
và gian lận thương mại hướng tới xây dựng lực lượng chống bn lậu tinh nhuệ đáp
ứng tình hình mới.
Ngày 19/7/2016, Bộ Trưởng Bộ Tài chính đã ban hành quyết định số
1614/QĐ-BTC về kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hóa ngành Hải quan giai
đoạn 2016-2020. Kế hoạch đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế của công tác kiểm soát

1


hải quan về công tác cán bộ, điều kiện bảo đảm và việc áp dụng các biện pháp
nghiệp vụ trong cơng tác đấu tranh phịng chống bn lậu.
Trước tình hình trên, Chính phủ yêu cầu Bộ Tài chính (Cơ quan hải quan) cần
đưa ra các giải pháp về chính sách quản lý mặt hàng này đó là tạo điều kiện, hỗ trợ
doanh nghiệp trong hoạt động nhập khẩu phế liệu đủ điều kiện vào phục vụ sản xuất
đồng thời kiểm soát chặt chẽ và xử lý nghiêm các hành vi nhằm đưa rác thải, chất thải
vào nước ta, gây ô nhiễm môi trường, không để Việt Nam trở thành “bãi rác” của nước
khác và của thế giới. Do đó, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng cơng tác kiểm sốt
hải quan đối với phế liệu làm nguyên liệu sản xuất từ đó đưa ra các giải pháp tăng
cường cơng tác kiểm soát hải quan đối với mặt hàng này là vấn đề vừa có tính thời sự,
khoa học và thực tiễn.
Do vậy tơi đã chọn “Kiểm sốt Hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên
liệu sản xuất theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu là một vấn đề khó và mang
tính chất chun sâu, vì vậy có ít cơng trình khoa học nghiên cứu. Qua tìm hiểu tình
hình nghiên cứu cho thấy trong thời gian qua chưa có luận văn, cơng trình nghiên cứu

nào về cơng tác kiểm sốt hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản
xuất. Tuy nhiên có một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến đề tài như sau:
- “Các giải pháp tăng cường quản lý thuế của cục Hải quan Thanh Hóa đối
với hoạt động nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu” của Đỗ Thị
Hồng và Luận văn thạc sỹ 2017. Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý
thuế của cơ quan hải quan đối với hoạt động nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất
hàng xuất khẩu. Đối với nguyên liệu này chủ yếu là linh kiện, phụ kiện, nguyên vật
liệu (mới) cho hoạt động sản xuất hàng hóa xuất khẩu và chỉ một phần nhỏ là phế
liệu. Luận văn có phạm vi nghiên cứu hẹp chỉ ở một đơn vị là Cục Hải quan tỉnh
Thanh Hóa.
- Nguyễn Thị Khánh Ly - Luận văn thạc sỹ 2015 “Quản lý nhà nước về hoạt
động nhập khẩu thép phế liệu ”. Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá về hoạt động
quản lý nhà nước đối với mặt hàng thép phế liệu giai đoạn 2009-2014. Đối với cơ quan
quản lý nhà nước Luận văn tập trung chủ yếu cơ quan đó là Bộ tài ngun và Mơi
trường. Các văn bản pháp luật Luận văn nghiên cứu hiện nay cơ bản đã hết hiệu lực
thi hành hoặc đã sửa đổi, bổ sung.

2


- Nguyễn Xuân Tạo - Luận án thạc sỹ 2017 “Pháp luật môi trường trong hoạt
động nhập khẩu phế liệu ở Việt Nam”. Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ vai trị của
pháp luật về bảo vệ mơi trường đối với hoạt động nhập khẩu phế liệu; thực trạng pháp
luật môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu ở Việt Nam và khái quá tình hình
thực thi pháp luật môi trường giai đoạn 2015-2017.
- Nguyễn Văn Cẩn - Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2017 “Hoàn thiện thể chế nâng
cao hiệu qủa cơng tác điều tra hình sự của cơ quan hải quan”. Đề tài tập trung vào cơng
tác điều tra hình sự của cơ quan hải quan, trong đó có phân tích một số thủ đoạn của đối
tượng buôn lậu, vận chuyển trái phép phế liệu nhập khẩu.
Ngồi ra, cịn một số cơng trình nghiên cứu khác như Luận văn Tiến sỹ năm

2007 của Nguyễn Văn Phương “Pháp luật về môi trường về hoạt động nhập khẩu
phế liệu của Việt Nam”; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở năm 2009 của TS.
Nguyễn Anh Tuấn “Nghiên cứu cơ sở khoa học về tiêu chuẩn phế liệu và đề xuất
các giải pháp kiểm sốt ơ nhiễm trong hoạt động nhập khẩu phế liệu làm nguyên
liệu sản xuất” ... và các bài báo, bài viết liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước
đối với hoạt động nhập khẩu phế liệu
Qua nghiên cứu tác giả nhận thấy các cơng trình đã được nghiên cứu tập
chung nghiên cứu các khía cạnh như thuế, điều kiện nhập khẩu mà chưa nghiên
cứu, đánh giá tổng thể về công tác kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu
làm nguyên liệu sản xuất. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, các văn bản pháp
luật về quản lý nhà nước về hoạt động nhập khẩu phế liệu cơ bản đã có sự thay đổi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Đưa ra giải pháp hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của
cơng tác kiểm sốt hải quan đối với đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản
xuất theo pháp luật Việt Nam.
Nhiệm vụ cụ thể:
- Hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về kiểm soát hải quan
đối với đối với phế liệu nhập khẩu và pháp luật về kiểm soát hải quan đối với đối
với phế liệu nhập khẩu.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về kiểm
soát Hải quan đối với phế liệu nhập khẩu và thực tiễn kiểm soát Hải quan đối với
phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật ở Việt Nam.

3


- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả cơng tác
kiểm sốt hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp
luật ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Các quy định pháp luật điều chỉnh đối với phế liệu
nhập khẩu và các quy định của pháp luật về kiểm soát hải quan đối với phế liệu
nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất.
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động kiểm soát của hải quan Việt Nam đối với
phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật và
các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về quản lý nhà nước đối với
phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất.
Các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu hệ thống văn bản pháp luật, thu thập, nghiên cứu
các tài liệu trong và ngoài nước về các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của Luận
văn để làm rõ những khoảng trống cần nghiên cứu của luận văn;
- Phương pháp hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp được sử dụng chủ yếu ở
chương 1 để làm rõ các vấn đề lý luận về kiểm soát hải quan đối với đối với phế liệu
nhập khẩu và pháp luật về kiểm soát hải quan đối với đối với phế liệu nhập khẩu.;
- Phương pháp thu thập, thống kê số liệu (từ các website về cơ sở dữ liệu luật
như:;;;
;;
Số liệu thống kê từ Cục Điều tra chống
buôn lậu, Cục giám sát quản lý về hải quan, Cục Công nghệ thông tin và Thống kê
thuộc Tổng cục Hải quan, Bộ Tài nguyên và Môi trường….);
- Phương pháp so sánh, đối chiếu, đánh giá được sử dụng chủ yếu ở chương 2
nhằm phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về kiểm soát
Hải quan đối với phế liệu nhập khẩu và thực tiễn kiểm soát Hải quan đối với phế
liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật ở Việt Nam;
- Phương pháp phân tích, luận giải, tổng hợp được sử dụng chủ yếu ở chương
3 nhằm đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác


4


kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp
luật ở Việt Nam trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận về kiểm
soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu và pháp luật kiểm soát hải quan đối với
phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất.
Về mặt thực tiễn: Góp phần làm rõ thực trạng pháp luật điều chỉnh đối với phế
liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất và thực tiễn kiểm soát hải quan đối với phế
liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất ở Việt Nam. Đồng thời đưa ra một số giải
pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả của cơng tác kiểm sốt hải quan đối với đối với
phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật ở Việt Nam cho hải
quan Việt Nam
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu thành 03 chương, cụ thể:
Chương 1. Cơ sở lý luận về kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm
nguyên liệu sản xuất theo pháp luật Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm
nguyên liệu sản xuất theo pháp luật Việt Nam
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát hải quan theo pháp luật đối
với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất ở Việt Nam

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT HẢI QUAN ĐỐI VỚI PHẾ LIỆU NHẬP

KHẨU LÀM NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT
1.1. Khái quát về kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu
1.1.1. Sự cần thiết khách quan kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu
Phế liệu là một trong những loại hàng hóa đặc biệt, tùy thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia mà Nhà nước có những chính sách ngoại thương đặc
thù với loại hàng hóa này. Trong những năm qua, bên cạnh việc tái chế chất thải,
tận dụng phế liệu phát sinh trong nước làm nguyên liệu sản xuất, để đáp ứng nhu
cầu nguyên liệu của một số ngành sản xuất, Nhà nước đã cho phép nhập khẩu phế
liệu với các điều kiện quy định cụ thể tại Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản
hướng dẫn thi hành.
Tuy nhiên, việc nhập khẩu và sử dụng phế liệu nhập khẩu nếu khơng được
quản lý, kiểm sốt chặt chẽ sẽ bị lợi dụng để đưa chất thải vào nước ta, gây ô nhiễm
môi trường. Trước thực tế một số nước (là thị trường nhập khẩu phế liệu lớn của thế
giới) đã hạn chế, cấm nhập khẩu một số loại phế liệu tạo nên sự dịch chuyển lượng
lớn phế liệu nhập khẩu vào các nước trong khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt
Nam và việc kiểm sốt quy trình nhập khẩu, trung chuyển, quá cảnh hàng hóa là
phế liệu chưa chặt chẽ dẫn đến tồn đọng lượng lớn lô hàng phế liệu nhập khẩu
không xác định được chủ hàng tại các cảng biển nước ta, nhất là tại cảng Hải Phịng
và Tân Cảng Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, việc nhập khẩu phế liệu, dây
chuyền cơng nghệ sản xuất, tái chế nếu khơng được kiểm sốt chặt chẽ sẽ là kẽ hở
để nước ta có nguy cơ trở thành nơi tiếp nhận chất thải và công nghệ sản xuất, tái
chế lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường từ các nước khác trên thế giới.
Do đó cần thiết phải tăng cường quản lý hoạt động nhập khẩu, sử dụng phế
liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất, thực hiện có hiệu quả các biện pháp phịng
vệ thương mại, kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu phế liệu từ xa, giảm thiểu nguy
cơ gây ô nhiễm môi trường
Mặt khác, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thủ tục hải quan là một
trong những vấn đề được các Nhà nước quan tâm và tiến hành cải cách thủ tục hành
chính, xem đó như là một biện pháp để thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại, thu
hút đầu tư nước ngoài và tạo điều kiện cho doanh nghiệp. Thủ tục hải quan ngày


6


càng đơn giản hố, thơng thống hơn nhằm tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập
khẩu. Lợi dụng các thủ tục thơng thống về Hải quan trong xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hố, những đối tượng bn lậu ln tìm mọi cách để buôn lậu, vận chuyển trái
phép phế liệu qua biên giới, bằng nhiều phương thức và thủ đoạn ngày càng tinh vi
như làm giả giấy phép, thông báo phế liệu nhập khẩu, nhập khẩu phế liệu không đáp
ứng điều kiện, tiêu chuẩn,... gây thiệt hại nghiêm trọng cho lợi ích của Nhà nước và
ảnh hưởng đến môi trường, đời sống nhân dân.
Hải quan với nhiệm vụ là cơ quan “bảo vệ biên giới” thực hiện nhiệm vụ “gác
cổng cho nền kinh tế, bảo vệ chủ quyền, an ninh kinh tế, trật tự pháp luật trong lĩnh
vực xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện
vận tải. Theo quy định của pháp luật Việt Nam phế liệu là loại hàng hóa nhập khẩu
có điều kiện, chịu sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ của cơ quan hải quan.
Để kịp thời phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động
nhập khẩu phế liệu, giảm thiểu nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, tác động tiêu cực
đến nền kinh tế thì cần thiết phải kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu.
1.1.2. Khái niệm kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu
Trước đây, khái niệm kiểm soát hải quan được hiểu thuần túy là hoạt động
chống buôn lậu, gian lận thương mại của lực lượng hải quan. Theo đó, trong một
thời gian dài, khái niệm kiểm sốt hải quan đồng nghĩa với công tác chống buôn
lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.
Theo từ điển tiếng Việt, kiểm sốt hải quan có hai nghĩa: xem xét để phát
hiện, ngăn chặn những gì trái quy định; đặt trong quyền hạn của mình.
Theo Cơng ước của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) – Công ước về đơn
giản hóa, hài hịa hóa thủ tục hải quan có khái niệm: “Kiểm soát hải quan (Customs
control) là các biện pháp được cơ quan hải quan tiến hành nhằm bảo đảm thực thi
pháp luật hải quan.”

Theo khái niệm này, công tác kiểm sốt hải quan có phạm vi hoạt động rất
rộng, bao gồm tất cả các hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, có mục đích đảm bảo
cho các đối tượng chịu sự quản lý về hải quan tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của
pháp luật hải quan. Ở một số nước, trong một số trường hợp, thuật ngữ “customs
control” cịn được dùng trong ngơn ngữ thơng thường với hàm nghĩa “việc Nhà nước
tiến hành các thủ tục, biện pháp cần thiết để đảm bảo hàng hóa, phương tiện được xuất
ra hay nhập vào một quốc gia theo đúng các quy định hiện hành”.

7


Theo quy định tại khoản 11 Điều 4 Luật Hải quan năm 2014, “Kiểm soát hải
quan là biện pháp tuần tra, điều tra, xác minh hoặc biện pháp nghiệp vụ khác do cơ
quan hải quan áp dụng để phòng, chống bn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua
biên giới và hành vi khác vi phạm pháp luật về hải quan.”
Theo quan niệm trên thì kiểm sốt hải quan là một hoạt động không phải chỉ
là một biện pháp nghiệp vụ hải quan cụ thể mà nó là một số các biện pháp nghiệp
vụ của cơ quan hải quan để thực hiện nhiệm vụ phịng, chống bn lậu, vận chuyển
trái phép hàng hóa qua biên giới và các hành vi vi phạm pháp luật hải quan.
So với Công ước Kyoto sửa đổi năm 1999, khái niệm về kiểm soát hải quan
của Hải quan Việt Nam cụ thể, rõ ràng hơn và chỉ tập trung vào hoạt động của
ngành Hải quan nhằm phịng, chống bn lậu và các hành vi vi phạm pháp luật hải
quan mà không bao hàm các hoạt động mang tính quản lý nhà nước như kiểm tra
hải quan, giám sát hải quan.
Như vậy, kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu là việc cơ quan hải
quan áp dụng các biện pháp nghiệp vụ kiểm soát hải quan đối với hoạt động nhập
khẩu phế liệu, tiến hành điều tra, xác minh và xử lý vi phạm (nếu có) đảm bảo chính
sách quản lý nhà nước đối với mặt hàng này được thực thi trên thực tế.
1.1.3. Đặc điểm kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu
Hiện nay, mặt hàng phế liệu là một trong những mặt hàng trọng điểm chịu sự

kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt trong quá trình làm thủ tục hải quan có một số đặc
điểm chính sau:
Thứ nhất, hoạt động kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu đảm bảo
cho hoạt động nhập khẩu phế liệu được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Với
chức năng, nhiệm vụ là cơ quan thực thi pháp luật, hoạt động kiểm sốt hải quan
đảm bảo chính sách quản lý của nhà nước đối với mặt hàng phế liệu khi nhập khẩu
được thực thi trên thực tế, đảm bảo nhập khẩu phế liệu đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo
quy định, đúng mục đích và đúng tối tượng có nhu cầu.
Thứ hai, tổ chức và tiến hành các hoạt động nghiệp vụ để phát hiện, bắt giữ
và xử lý các hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và các
hành vi vi phạm khác thuộc chức năng đấu tranh của lực lượng kiểm sốt hải quan
trong đó có các hành vi vi phạm pháp luật hải quan, pháp luật bảo vệ môi trường
đối với hoạt động nhập khẩu phế liệu.

8


Nhiệm vụ phịng, chống bn lậu, vận chuyển trái phép qua biên giới là một
trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng đã được Luật Hải quan 2014 giao cho cơ
quan hải quan các cấp tổ chức thực hiện và việc thực hiện nhiệm vụ này được giao
cho lực lượng chun trách thực hiện đó là lực lượng kiểm sốt hải quan.
Để thực hiện thẩm quyền của cơ quan hải quan trong việc áp dụng các biện
pháp phịng, chống bn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, Điều 89
Luật Hải quan năm 2014 trao cho cơ quan hải quan những thẩm quyền như tổ chức lực
lượng, xây dựng cơ sở dữ liệu, áp dụng biện pháp nghiệp vụ kiểm sốt hải quan, thu
thập thơng tin trong nước và ngoài nước liên quan đến hoạt động hải quan để chủ động
phịng, chống bn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, phục vụ thơng
quan hàng hóa và kiểm tra sau thông quan; phối hợp với các cơ quan hữu quan bảo vệ
bí mật về người cung cấp thông tin các vụ buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua
biên giới theo quy định của pháp luật; thực hiện kiểm soát hải quan đối với hàng hóa,

phương tiện vận tải; chủ trì, phối hợp với cơ quan nhà nước hữu quan thực hiện các
hoạt động phòng, chống bn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới trong
địa bàn hoạt động hải quan; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp
thông tin, tài liệu để phục vụ việc kiểm tra, điều tra, xác minh hành vi buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới....
Ngồi ra, cơ quan hải quan có quyền xử lý vi phạm pháp luật hải quan (xử lý
vi phạm hành chính, xử lý hình sự) theo quy định pháp luật xử lý vi phạm hành
chính, pháp luật hình sự, tố tụng hình sự.
Tất cả thẩm quyền nhà nước trao cho lực lượng kiểm soát hải quan nhằm kịp
thời phát hiện, ngăn chặn, bắt giữ và xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hải
quan, đảm bảo được quyền “kiểm sốt biên giới” giữ gìn trật tự quản lý kinh tế
ngoại thương.
Thứ ba, hoạt động kiểm soát hải quan đối với phế liệu chỉ trong phạm vi địa
bàn hoạt động hải quan
Theo quy định tại khoản 13 Điều 4 Luật hải quan năm 2014 “Lãnh thổ hải
quan gồm những khu vực trong lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nơi Luật hải quan được áp dụng”
Theo quy định tại Điều 7 Luật Hải quan năm 2014 địa bàn hoạt động hải
quan được xác định bao gồm khu vực cửa khẩu đường bộ, ga đường sắt liên vận
quốc tế, cảng hàng không dân dụng quốc tế; cảng biển... Trong địa bàn hoạt động

9


hải quan, cơ quan hải quan chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát, kiểm sốt đối với
hàng hóa, phương tiện vận tải và xử lý vi phạm pháp luật về hải quan.
Để xác định ranh giới, chi tiết phạm vi địa bàn hoạt động hải quan, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 01/2015/NĐ-CP quy định chi tiết phạm vi địa bàn
hoạt động hải quan; trách nhiệm phối hợp trong phịng, chống bn lậu, vận chuyển
trái phép hàng hóa qua biên giới (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số

12/2018/NĐ-CP). Việc xác định địa bàn hoạt động hải quan của cơ quan hải quan
có ý nghĩa rất lớn tạo cơ sở để cơ quan hải quan xác định ở đâu, khi nào cơ quan hải
quan sẽ chủ trì trong hoạt động kiểm soát, đấu tranh và xử lý vi phạm trong lĩnh vực
hải quan và khi nào cơ quan hải quan là cơ quan phối hợp.
1.2. Pháp luật về kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm
nguyên liệu sản xuất
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất
Theo Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2014: “Phế liệu là vật liệu được thu
hồi, phân loại, lựa chọn từ những vật liệu, sản phẩm đã bị loại bỏ từ quá trình sản
xuất hoặc tiêu dùng để sử dụng làm nguyên liệu cho một quá trình sản xuất khác”.
Bên cạnh việc hiểu khái niệm phế liệu, chúng ta cũng cần phân biệt khái
niệm phế liệu với phế thải (hay chất thải) vì trên thực tế, sự không rõ ràng giữa 2
khái niệm này trở thành khe hở cho tình trạng nhập khẩu trái qui định, nhập khẩu
chất thải vào Việt Nam.
Theo Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2014: “Chất thải là vật chất được thải
ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác”. Còn “Chất
thải nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, lây nhiễm, dễ cháy, dễ nổ,
gây ăn mòn, gây ngộ độc hoặc có đặc tính nguy hại khác”.
Mặc dù tại định nghĩa này, sự khác biệt giữa chất thải và phế liệu chưa được
làm rõ, tuy nhiên, có thể thấy điểm khác nhau cơ bản nhất giữa phế liệu và phế thải
là: phế liệu có giá trị sử dụng, có thể làm ngun liệu đầu vào của q trình sản
xuất, trong khi đó, chất thải thì khơng có giá trị sử dụng vì khơng thể sử dụng cho
bất kỳ mục đích nào, bao gồm cả mục đích làm nguyên liệu sản xuất. Có 2 nguồn
cung cấp phế liệu là thu mua trong nước và nhập khẩu từ nước ngoài. Ở Việt Nam,
trước đây tỷ lệ thu gom trong nước chiếm đa số. Tuy nhiên, tới thời điểm hiện tại,
đa số các phế liệu được nhập khẩu từ nước ngoài do việc thu gom trong nước không
đáp ứng được nhu cầu của hoạt động sản xuất tại các ngành. Ví dụ ngành thép, nếu

10



trước đây việc thu mua trong nước cung ứng phần lớn cho các doanh nghiệp tái chế
thì đến nay, nguồn cung ứng trong nước ngày càng chiếm tỷ lệ ít hơn do: Thứ nhất:
nguồn sắt thép phế liệu chiến tranh đã dần dần bị khai thác hết; Thứ hai: do là một
nước đang phát triển, đặc biệt là công nghiệp chưa phát triển, chính vì vậy, sắt thép
phế liệu có nguồn gốc từ các vật liệu tận dụng là rất hạn chế. Chính bởi vậy, phế
liệu có nguồn gốc nhập khẩu từ nước ngoài ngày càng chiếm tỷ lệ lớn hơn trong
tổng lượng phế liệu cung cấp cho các nhà sản xuất.
Phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, phế liệu nhập khẩu là loại hàng hóa nhập khẩu theo giấy phép, điều
kiện, thuộc phạm vi quản lý chuyên ngành của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Theo
quy định tại khoản 1 Điều 76 Luật Bảo vệ mơi trường thì phế liệu nhập khẩu từ
nước ngoài vào Việt Nam phải đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật môi trường và thuộc
danh mục phế liệu được phép nhập khẩu do Thủ tướng Chính phủ quy định. Tổ
chức, cá nhân nhập khẩu phải đáp ứng các điều kiện pháp luật quy định về kho bãi,
nhà máy, công nghệ…
Thứ hai, phế liệu nhập khẩu bị áp dụng biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn từ
xa trước khi làm thủ tục hải quan
Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn từ xa giúp cơ quan hải quan đánh giá sơ bộ
và đưa ra các biện pháp cụ thể đối với hàng hóa nhập khẩu. Đối với các hàng hóa mà
phải đáp ứng điều kiện nhập khẩu, hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa nguy hiểm như
phế liệu, hóa chất độc hại, hàng hóa nhiễm chất phóng xạ… nếu khơng thỏa mãn điều
kiện thì sẽ khơng được xếp dỡ xuống cảng, để tránh việc “ùn tắc”, tồn đọng tại cảng
biển hoặc có phương án trong việc kiểm sốt hàng hóa để sự cố xảy ra.
Thứ ba, Phế liệu nhập khẩu là mặt hàng thuộc diện quản lý chuyên ngành vì
vậy thơng thường phải kiểm tra chi tiết hồ sơ hải quan hoặc kiểm tra thực tế hàng
hóa. Theo hệ thống VNACC/VCIS ở Việt Nam hiện nay khi làm thủ tục hải quan,
phế liệu nhập khẩu được phân luồng vàng (kiểm tra hồ sơ) hoặc luồng đỏ (kiểm tra
hồ sơ và kiểm tra thực tế hàng hóa). Việc phân luồng hàng hóa trong q trình làm
thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu là một cơng cụ, thủ tục và hình thức hữu hiệu giúp cơ

quan Hải quan thực hiện việc giám sát, kiểm tra và quản lý hàng hóa ra và vào lãnh
thổ Việt Nam.
Có nhiều tiêu chí quản lý rủi ro tác động ảnh hưởng đến việc phân luồng như
tiêu chí tuân thủ pháp luật của người khai hải quan, chính sách quản lý mặt hàng đối

11


với hàng hóa,... các tiêu chí này được tích hợp trên hệ thống và khi người khai hải
quan khai thì hệ thống sẽ tự động phân luồng.
Đối với phế liệu nhập khẩu tác động, ảnh hưởng đến môi trường thuộc danh
mục hàng hóa nhập khẩu có điều kiện theo chính sách quản lý chuyên ngành. Do
đó, việc phân luồng đối với các tờ khai nhập khẩu các loại hàng hóa này thì mức
thấp nhất là mức 2 - luồng vàng và trong những thời điểm nhất định khi Chính phủ
có các biện pháp siết chặt nhập khẩu thì các mặt hàng này cơ bản được phân luồng
ở mức 3 - luồng đỏ, ví dụ trong giai đoạn từ tháng 6/2018 đến tháng 12/2018 khi
Chính phủ thực hiện các biện pháp siết chặt hoạt động nhập khẩu phế liệu làm
nguyên liệu sản xuất thì tất cả các tờ khai nhập khẩu mặt hàng này đều được hệ
thống phân luồng đỏ.
Thứ tư, về hồ sơ hải quan khi nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất
được pháp luật quy định rất chặt chẽ.
Do đây là hàng hóa ảnh hưởng đến mơi trường thuộc diện quản lý chuyên
ngành của Bộ Tài nguyên và Mơi trường nên trong hồ sơ nhập khẩu ngồi các giấy
tờ thơng thường như tờ khai hải quan, hóa đơn (invoice), C/O (chứng nhận xuất xứ
hàng hóa)... theo quy định pháp luật chuyên ngành thì hồ sơ nhập khẩu phế liệu phải
có Giấy xác nhận đủ điều kiện về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm
nguyên liệu sản xuất, Giấy thông báo kết quả kiểm tra của cơ quan kiểm tra chuyên
ngành…Các giấy tờ này có thể nộp bản giấy hoặc dưới dạng điện tử thông qua
Cổng thông tin một cửa quốc gia. Đây được xem như cơ sở để cơ quan hải quan
đánh giá hàng hóa nhập khẩu đủ điều kiện nhập khẩu và thơng quan cho hàng hóa

nhập khẩu.
Thứ năm, phế liệu nhập khẩu phải làm thủ tục hải quan ngay tại cửa khẩu nhập.
Cụ thể ở Việt Nam hiện nay, theo quy định tại Quyết định số 15/2017/QĐ-TTg ngày
12/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục hàng hóa nhập khẩu phải làm
thủ tục hải quan tại cửa khẩu nhập cơ bản những hàng hóa ảnh hưởng xấu đến bảo vệ
mơi trường phải làm tại Chi cục hải quan cửa khẩu trong đó có phế liệu nhập khẩu.
Ngồi ra, ngày 17/11/2015, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 2026/QĐ-TTg
phê duyệt đề án giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động kiểm tra chuyên
ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Như vậy, khác với các loại hàng
hóa nhập khẩu thông thường khác, đối với phế liệu nhập khẩu pháp luật quy định
địa điểm làm thủ tục hải quan ngay tại cửa khẩu nhập.

12


Thứ sáu, phế liệu nhập khẩu được doanh nghiệp sử dụng trực tiếp làm
nguyên liệu sản xuất mà không được phép chuyển giao, bán lại hoặc sơ chế đơn
giản bán cho tổ chức, cá nhân khác.
Khác với các loại hàng hóa khác, chỉ những doanh nghiệp thực sự có nhu cầu
nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất mới được nhập khẩu. Pháp luật
nghiêm cấm việc doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu về để bán lại hoặc chỉ sở chế
đơn giả sau đó bán lại cho tổ chức, cá nhân khác. Điều này được quy định tại khoản
6 Điều 56 Nghị định số Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính
phủ về quản lý chất thải và phế liệu (sửa đổi bổ sung tại Nghị định số 40/2019/NĐCP ngày 13/5/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường).
1.2.2. Nội dung của pháp luật kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu
Pháp luật kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu là hệ thống các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình cơ quan hải
quan thực hiện kiểm soát việc nhập khẩu phế liệu để làm nguyên liệu sản xuất của
các doanh nghiệp.

Phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất khi nhập khẩu vào Việt Nam
chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật như các văn bản pháp luật hải quan,
môi trường, tiêu chuẩn kỹ thuật, xử lý vi phạm (hành chính, hình sự). Kiểm sốt hải
quan đối với phế liệu nhập khẩu là quá trình tổ chức thực thi các văn bản này để
đảm bảo phế liệu nhập khẩu hợp pháp, tránh tình trạng bn lậu, vận chuyển trái
phép phế liệu qua biên giới. Theo đó, pháp luật kiểm soát hải quan đối với phế liệu
nhập khẩu gồm những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, quy định về điều kiện nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản
xuất. Xuất phát từ bản chất và công dụng của phế liệu, nhà nước ban hành chính
sách, quy định loại phế liệu được nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất thường là
những loại có nguy cơ ảnh hưởng đến mơi trường, sức khỏe của con người ở mức
độ thấp), loại phế liệu không được nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất (thường là
những loại có nguy cơ ảnh hưởng đến mơi trường, sức khỏe của con người ở mức
độ cao). Đối với loại phế liệu được phép nhập khẩu thì cũng đặt ra các tiêu chuẩn kỹ
thuật về môi trường khi nhập khẩu trong đó nêu các hàm lượng tạp chất, tạp chất
nguy hại, yêu cầu về phân loại, làm sạch... để đảm bảo giảm thiểu ở mức độ thấp
nhất về môi trường khi phế liệu nhập khẩu được đưa vào sản xuất.

13


Thứ hai, quy định về điều kiện tổ chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu. Xuất
phát từ ý nghĩa phế liệu được nhập khẩu về làm nguyên liệu sản xuất nên pháp luật
đặt ra các quy định về chủ thể nhập khẩu pháp đáp ứng các điều kiện về bảo vệ môi
trường trong nhập khẩu phế liệu như các yêu cầu đối với nhà kho, bãi chứa, lưu giữ
phế liệu về an toàn cháy nổ, an toàn vệ sinh; yêu cầu đối với nhà máy, cơ sở sản
xuất phải đáp ứng về mặt công nghệ, công suất, năng lực tài chính khi nhập khẩu
phế liệu làm nguyên liệu sản xuất.
Thứ ba, quy định về trình tự, thủ tục và hồ sơ hải quan khi nhập khẩu phế liệu.
Đây là thủ tục hành chính bắt buộc để phế liệu nhập khẩu hợp pháp trước khi

đưa vào sản xuất. Theo đó, tổ chức, cá nhân nhập khẩu phải thực hiện các thủ tục hải
quan, nộp các loại giấy tờ, tài liệu bắt buộc theo các quy định về hồ sơ hải quan khi
nhập khẩu phế liệu. Các giấy tờ này chứng minh loại phế liệu được nhập khẩu, chứng
minh tổ chức, cá nhân đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu theo quy định pháp luật về
bảo vệ môi trường và các tài liệu khác theo quy định chung của pháp luật hải quan.
Thứ tư, quy định việc kiểm tra, giám sát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu.
Để kiểm soát tuân thủ pháp luật cơ quan hải quan sẽ thực hiện việc kiểm tra,
giám sát hải quan bao gồm kiểm tra về hồ sơ hải quan và kiểm tra thực tế (có dấu
hiệu vi phạm hoặc hệ thống phân luồng ngẫu nhiên). Pháp luật quy trình cụ thể
những trường hợp phải kiểm tra, trình tự tiến hành kiểm tra, tỷ lệ kiểm tra ( 5%,
10% hoặc 100%) , phương pháp kiểm tra (trực tiếp, qua máy soi, qua phân tích,
phân loại hoặc giám định), xử lý kết quả kiểm tra (giải phóng hàng, thơng quan, tạm
dừng, buộc tái xuất,...) và thực hiện giám sát hải quan trong suốt q trình lơ hàng
làm thủ tục hải quan.
Thứ năm, quy định các biện pháp kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập
khẩu. Bên cạnh các biện pháp nghiệp vụ về công tác kiểm sốt hải quan như với các
hàng hóa khác như điều tra nghiên cứu nắm tình hình, sưu tra, trinh sát, chun án
thì phế liệu cịn áp dụng các biện pháp kiểm sốt ngăn chặn từ xa, trao đổi thơng tin
tình báo, xây dựng chuyên đề đấu tranh.
Thứ sáu, quy định việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong cơng tác
kiểm sốt hải quan đối với phế liệu nhập khẩu.
Trong q trình thực hiện kiểm sốt hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm
nguyên liệu sản xuất, căn cứ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền được giao, cơ
quan hải quan tiến hành xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động này. Đối với

14


phế liệu nhập khẩu, để hàng hóa được thơng quan các đối tượng thường sử dụng các
phương thức thủ đoạn như làm giả hồ sơ, khai sai tên hàng, khai sai số lượng (vượt

hạn ngạch), ...do đó, đối với các vụ việc liên quan đến các mặt hàng này thường là
các vụ việc phức tạp, cơ quan hải quan sẽ tiến hành điều tra, xác minh làm rõ vi
phạm. Tùy theo tính chất, mức độ mà xử lý vi phạm hành chính hoặc hình sự. Trong
đó, cơ quan hải quan là cơ quan có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra,
khởi tố vụ án đối với các tội danh bn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên
giới và mua bán hàng cấm theo quy định của pháp luật hình sự.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả thực hiện pháp luật kiểm soát
hải quan đối với phế liệu nhập khẩu
Thứ nhất, các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường đối với phế liệu nhập
khẩu (bao gồm cả các quy định về xử lý vi phạm). Nội dung này đòi hỏi các quy
định pháp luật về bảo vệ môi trường đối với phế liệu phải quy định thống nhất, chi
tiết, rõ ràng và phù hợp với thực tiễn để đảm bảo quá trình thực thi, áp dụng của cơ
quan hải quan được thuận tiện, dễ áp dụng.
Thứ hai, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ hải
quan làm cơng tác kiểm sốt hải quan đối với phế liệu nhập khẩu. Nội dung này đòi
hỏi cán bộ được giao làm công tác giải quyết thủ tục hải quan, kiểm soát hải quan
phải nắm vững các quy định pháp luật hải quan, các quy định pháp luật về bảo vệ
môi trường để đảm bảo doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu tuân thủ chính sách mặt
hàng của nhà nước đối với loại mặt hàng này. Tránh tình trạng “bỏ lọt”, tiếp tay cho
các đối tượng buôn lậu, gian lận trong hoạt động hoạt động nhập khẩu phế liệu.
Thứ ba, công tác thu thập, xử lý thông tin. Việc thu thập, xử lý có ý nghĩa,
vai trị quan trọng, ảnh hưởng đến hiệu quả cơng tác kiểm sốt hải quan. Thơng qua
cơng tác thu thập, xử lý thông tin cơ quan hải quan có thể đánh giá, phân loại, đánh
giá mức độ tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, xác định các doanh nghiệp trọng
điểm, đối tượng sưu tra, đối tượng đấu tranh chuyên án. Nguồn thông tin này từ cơ
sở dữ liệu hải quan, trao đổi với nước ngoài, tin báo, tố giác tội phạm...
Thứ tư, cơ chế phối hợp. Trong q trình thực hiện cơng tác kiểm sốt hải
quan đối với phế liệu nhập khẩu thì cơ quan hải quan thường xuyên phải phối hợp
với các cơ quan, tổ chức như Tổng cục môi trường, Bộ Tài nguyên Môi trường, Sở
Tài nguyên và Môi trường, cảng vụ hàng hải, ngân hàng... để thu thập, trao đổi

thông tin phục vụ côn tác kiểm soát hải quan.

15


Thứ năm, điều kiện bảo đảm, cơ sở vật chất phục vụ cơng tác kiểm sốt hải
quan đối với phế liệu nhập khẩu.
1.3. Kinh nghiệm của hải quan một số nước trong kiểm soát phế liệu
nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất và bài học cho Việt Nam
1.3.1. Kinh nghiệm một số nước EU
Nhằm bảo vệ môi trường cũng như sức khoẻ cộng đồng, những tiêu chuẩn
đặt ra cho hàng hố nhập khẩu từ nước ngồi vào các nước EU là rất chặt chẽ. Chính
vì vậy, chất thải từ các quốc gia ngồi khu vực rất khó xâm nhập vào lãnh thổ các quốc
gia này. Tuy nhiên, một số quốc gia EU vẫn cho phép nhập khẩu một số loại phế liệu
làm nguyên liệu sản xuất, đặc biệt là các loại sắt thép phế liệu. Ví dụ như trường hợp
của Ukraina, sau khi Quốc hội nước này bỏ phiếu áp dụng tăng thuế xuất khẩu thép phế
liệu thêm 30 euro/tấn (tháng 10/2002) - có nghĩa là thép phế liệu sẽ ở lại trong biên giới
của Ukraina, tạo điều kiện cho các Công ty sản xuất thép trong nước. Ngay lập tức, các
Nhà máy luyện thép của EU lên tiếng phản đối việc làm này của Ukraina. Các Nhà
máy EU kêu gọi các biện pháp trả đũa và bảo vệ sau khi Ukraina áp dụng thuế quan
xuất khẩu thép phế (thuế quan sẽ có hiệu lực từ 1/1/2003).
Với Thổ Nhĩ Kỳ, Hiệp hội các nhà sản xuất sắt thép Thổ Nhĩ Kỳ cũng thực
hiện cách làm của EU. Các Công ty sản xuất thép Thổ Nhĩ Kỳ đã yêu cầu Chính
phủ áp dụng các biện pháp với các sản phẩm cuộn cán nóng và phơi thép từ
Ukraina. Thổ Nhĩ Kỳ là nước nhập khẩu sản phẩm cuộn cán nóng lớn từ Ukraina
(600.000 tấn/năm). Các nhà máy thép tại EU cũng đã phản ứng gay gắt đề xuất của
Hiệp hội Thép Mỹ về việc hạn chế lượng thép phế xuất khẩu với lý do nguồn cung
trong nước đã cạn kiệt trước nhu cầu bùng nổ từ khu vực Đông Á. Nếu việc cắt
giảm này được thực hiện thì nó sẽ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến giá thép phế liệu
ở EU. Lý do là, lúc đó các khách hàng tại Đơng Á sẽ phải chuyển hướng tìm kiếm

nguồn hàng ở thị trường này, do vậy nguồn cung ứng phế liệu sắt thép tại các quốc
gia thuộc EU sẽ không thể đáp ứng sự gia tăng nhu cầu và nó sẽ tác động mạnh đến
giá thép phế liệu trên thị trường, gây ảnh hưởng lớn đến ngành sản xuất thép của
các nước trong khối. Những thông tin trên cho thấy, các quốc gia Châu Âu, trong đó
có EU vẫn cho phép nhập khẩu phế liệu sắt thép làm nguyên liệu sản xuất. Nhu cầu
nhập khẩu phế liệu sắt thép của các quốc gia này là tương đối cao. Biến động về giá,
sự không ổn định về nguồn cung phế liệu sắt thép thường gây nên những lo ngại đối
với các nhà sản xuất thép ở đây. Song song với việc cho phép nhập khẩu phế liệu

16


sắt thép làm nguyên liệu sản xuất, các quốc gia này thường đặt ra các quy định về
bảo vệ môi trường rất khắt khe đối với các chủ thể kinh doanh, sử dụng chúng. Họ
thường áp dụng công nghệ tiên tiến trong việc kiểm tra, giám sát cũng như xử lý
chất thải từ quá trình tái chế phế liệu sắt thép nhập khẩu.
1.3.2. Các qui định quốc tế có liên quan
Trong hoạt động nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, các Cơng ước,
Hiệp định có liên quan là: Công ước Basel về vận chuyển các chất thải nguy hại
xuyên biên giới; Một số Hiệp định trọng WTO như: Hiệp định về rào cản kỹ thuật
trong thương mại (Hiệp định TBT). Trong khuôn khổ Công ước Basel. Liên quan
đến vấn đề quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu sắt thép làm nguyên liệu sản xuất
chúng ta đã tham gia cơng ước Basel 1989 về kiểm sốt vận chuyển qua biên giới
các phế thải nguy hiểm và việc tiêu huỷ chúng. Mục đích ra đời của Cơng ước Basel
là nhằm bảo vệ sức khoẻ con người và môi trường do những tác động có thể gây ra
từ chất thải. Các nước tham gia Công ước đều ý thức được những thiệt hại mà các
phế thải nguy hiểm và các phế thải khác, cũng như việc vận chuyển chúng qua biên
giới có thể gây ra đối với sức khoẻ con người và môi trường. Công ước Basel thừa
nhận mọi quốc gia có quyền cấm việc đưa vào hoặc tiêu huỷ các phế thải độc hại và
các phế thải khác của nước ngồi trên lãnh thổ nước mình. Tại Điều 5 Công ước

Basel quy định về nghĩa vụ chung của các nước thành viên đó là: có quyền cấm
nhập khẩu các chất thải nguy hiểm hoặc các chất thải khác để tiêu huỷ, cấm hoặc
không cho phép xuất khẩu các phế thải vào lãnh thổ của các thành viên khác đã cấm
nhập các loại phế thải đó. Có thể nói Cơng ước Basel về kiểm soát vận chuyển phế
thải qua biên giới là một thoả thuận pháp lý quốc tế quan trọng về vấn đề vận
chuyển, nhập khẩu phế thải qua biên giới giữa các quốc gia. Nó ngăn chặn một cách
hữu hiệu tình trạng xuống cấp của mơi trường do tác động của việc vận chuyển và
nhập khẩu phế thải ngây ra, hạn chế việc biến các nước nghèo trở thành bãi rác thải
của các nước giàu có. Hiện nay, hiện tượng các doanh nghiệp của các nước phát
triển đang cố gắng tìm cách xuất khẩu rác thải là vấn đề cần quan tâm, do chi phí
cho việc tái chế, tiêu huỷ cũng như kho bãi chứa rác thải là rất cao. Là thành viên
của Công ước này, các qui định hoạt động nhập khẩu phế liệu của Việt Nam cũng
cần tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ mà Công ước này đưa ra.

17


1.3.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc là quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế rất nhanh và đã trở thành
cường quốc kinh tế trên thế giới trong những năm gần đây (hiện Trung Quốc là nền
kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Hoa Kỳ), các ngành sản xuất phát triển nhanh và
mạnh, kèm theo đó là nhu cầu về nguyên liệu đầu vào, nguyên liệu cho ngành sản
xuất ngày càng cao, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác ngày một nhiều và có nguy
cơ cạn kiệt thì nhu cầu nhập khẩu các loại phế liệu làm nguyên liệu sản xuất tăng
mạnh ở Trung Quốc [38].
Theo thống kê, các nước mà Trung Quốc nhập khẩu chất thải rắn nhiều nhất là
Hoa Kỳ, Nhật Bản, Anh, Hồng Kông . Năm 2017, Trung Quốc đã nhập khẩu 13,93
triệu tấn chất thải rắn từ Hoa Kỳ, chiếm 32% tổng lượng chất thải rắn nhập khẩu,
giá trị nhập khẩu là 5,5 tỷ USD, chiếm 21% tổng lượng chất thải rắn nhập khẩu.
Ngoài ra, năm 2017, Trung Quốc đã nhập khẩu 796 triệu tấn chất thải rắn từ Nhật

Bản và 347 triệu tấn chất thải rắn Vương quốc Anh, với giá trị nhập khẩu là 30 tỷ
USD ở Nhật Bản và 1,4 tỷ USD ở Anh. Hồng Kơng có tỷ lệ doanh thu tương đối
cao là buôn bán chất thải rắn.
Năm 2017 Chính phủ Trung Quốc có chính sách cấm nhập khẩu giấy thải
chưa phân loại, nhựa, v.v. đối với 24 loại phế liệu, chất thải rắn. Về nhập khẩu, việc
điều chỉnh chính sách này được cho là có nhiều tác động hơn so với năm 2014 (lần
điều chỉnh chính sách năm 2014 giảm được khoảng 5 triệu tấn chất thải nhập khẩu).
Các biện pháp quản lý nhập khẩu chất thải rắn có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 8 năm 2011 và được thực hiện bởi các Bộ, ngành liên quan sau: Bộ Bảo vệ
môi trường, Bộ Thương nại, Tổng cục Hải quan, Tổng cục giám sát, thanh tra và
bảo trì chất lượng, với nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất, các hình thức cấm nhập khẩu
Nhằm kiểm sốt tốt các hoạt động nhập khẩu chất thải rắn, Chính phủ có kế
hoạch kết hợp sử dụng hợp lý lượng chất thải rắn từ nước ngoài nhập khẩu vào quốc
gia để làm nguyên liệu sản xuất và kết hợp các kế hoạch khác của quốc gia để
hướng tới tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải ra ngồi mơi trường. Chính phủ
u cầu các phịng ban mơi trường, thương mại, giám sát chất lượng phải nỗ lực

18


phối hợp và tăng cường giám sát các doanh nghiệp nhập khẩu chất thải rắn hoặc có
những hoạt động về nhập khẩu chất thải rắn vào Trung Quốc [39].
Gần đây nhất, Bộ Sinh thái và Môi trường, Bộ Thương mại, Ủy ban Cải cách
và Phát triển và Tổng cục Hải quan đã cùng ban hành "Thông báo điều chỉnh" và điều
chỉnh "Danh mục quản lý chất thải nhập khẩu" theo lô: kim loại phế liệu, tàu phế liệu,
phụ tùng xe phế liệu, 16 loại chất thải rắn, như xỉ luyện và nhựa thải công nghiệp, đã
được điều chỉnh để cấm nhập khẩu và được thực hiện từ ngày 31 tháng 12 năm 2018;
16 chất thải rắn như chất thải thép không gỉ, chất thải titan và chất thải gỗ đã được điều
chỉnh để cấm nhập khẩu sẽ được thực hiện từ ngày 31 tháng 12 năm 2019.

Việc hạn chế và cấm nhập khẩu chất thải rắn là một biện pháp chính để thực
hiện cơng cuộc phát triển mới, tập trung vào việc cải thiện chất lượng môi trường
sinh thái và bảo vệ an ninh sinh thái quốc gia và sức khỏe của người dân. Báo cáo
của Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 19 đã xác định rõ việc tăng cường
xử lý chất thải rắn và chất thải là một phần quan trọng trong nỗ lực giải quyết các
vấn đề mơi trường. Báo cáo cơng tác của Chính phủ kể từ năm 2019 sẽ tăng cường
xử lý chất thải rắn và rác thải, và cấm nhập rác thải nước ngoài vào cuối 2019.
Thứ hai, giấy phép nhập khẩu
Chất thải rắn nhập vào lãnh thổ Trung Quốc với mục đích sử dụng làm ngun
liệu sản xuất sẽ khơng được phép nhập khẩu nếu như doanh nghiệp nhập khẩu
khơng có giấy phép nhập khẩu (xem hình 1.1. phần Phụ lục).
Thứ ba, tiêu chuẩn môi trường, thanh tra, kiểm tra và kiểm định
Đối với những loại chất thải được phép nhập khẩu vào lãnh thổ Trung Quốc
phải đạt các yêu cầu sau:
- Đạt tiêu chuẩn bảo vệ môi trường quốc gia và được xem xét là đủ điều kiện
sau khi kiểm tra, giám sát và kiểm định với các cơ quan chức năng có thẩm quyền;
- Chất thải từ nước ngồi không được xuất sang Trung Quốc cho tới khi đủ các
điều kiện của Chính phủ Trung Quốc nêu ra (Thực hiện kiểm tra trước khi xuất hàng).
Thứ tư, hình thức xử phạt
Khi có những hình thức nhập khẩu trái với quy định và pháp luật Trung Quốc
thì các chủ hàng phải chịu hình thức xử phạt sau:
- Đối tượng vận chuyển chất thải rắn từ các quốc gia khác vào lãnh thổ Trung
quốc để chôn lấp, lưu trữ hoặc thải bổ các chất thải nói trên; Doanh nghiệp, cá nhân

19


×