Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tải Cảm nhận về đoạn trích "Lẽ ghét thương" của Nguyễn Đình Chiểu - 5 bài văn mẫu lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.18 KB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Cảm nhận về đoạn trích "Lẽ ghét thương" của Nguyễn</b>


<b>Đình Chiểu Ngữ văn 11</b>



<b>Dàn ý chi tiết</b>
<b>1. Mở bài</b>


- Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Đình Chiểu


- Giới thiệu khái quát về đoạn trích Lẽ ghét thương


<b>2. Thân bài</b>


* Vài nét khái quát về tác phẩm:


- Xuất xứ: Lẽ ghét thương là đoạn trích nằm ở phần đầu của tập truyện thơ
"Lục Vân Tiên"


- Nội dung chính: Cuộc gặp mặt, trị chuyện của ông Quán và bốn chàng nho
sinh đi thi, qua đó thấy được lẽ ghét thương phân minh của nhân vật ơng Qn
(hay chính là hóa thân của tác giả)


* Cảm nhận về 4 câu thơ đầu: "Quán rằng... hay thương"


- Quan điểm của ông Quán - người đã trau dồi mài kinh sử cũng học và thi
trước sự ngụy biện của hai tên Trịnh Hâm và Bùi Kiệm khi bị thua trong cuộc
so tài: "Vì chưng hay ghét cũng là hay thương"


* Cảm nhận về 12 câu tiếp theo: "Tiên rằng... lằng nhằng dối dân": Tầm hiểu
biết sâu rộng của ông Quán khi ông bàn về "lẽ ghét"


- Ghét việc tầm phào: Những việc chẳng có nghĩa lí gì, chẳng đâu vào đâu



- Ơng đưa ta điển cổ, điển tích để chứng minh:


+ Đời Kiệt, đời Trụ: Hoang dâm vô độ, không chăm lo cho nhân dân để dân rơi
vào cuộc sống cùng cực


+ Đời U, đời Lệ: "đa đoan" lắm chuyện rắc rối khiến dân chúng không khỏi
lầm than


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

=> Khẳng định "lẽ ghét" và tình yêu thương mn dân của ơng Qn hay cũng
chính là của tác giả.


* Cảm nhận về 14 câu tiếp: "Thương là thương đức thánh nhân... đuổi về nhà
giáo dân"


- Niềm thương xót của ơng Qn cho những bậc hiền tài của đất nước:


+ Thánh nhân Khổng Tử lậ đận trong việc truyền đạo


+ Thầy Nhan Tử tài đức nhưng cuộc đời kết thúc quá sớm


+ Gia Cát Lượng, Đồng Tử, Hàn Dũ, thầy Liêm, Lạc đều là người tài giỏi, mưu
trí, học cao hiểu rộng nhưng không gặp thời


- Nghệ thuật điệp từ, liệt kê thể hiện rõ tấm lòng yêu thương da diết đầy tính
bác ái của tác giả đối với những người tài giỏi nhưng bạc mệnh.


* Cảm nhận về hai câu cuối bài thơ: "Xem qua... lại thương"


- Nửa phần "ghét" kết hợp với nửa phần "thương": Thái độ dứt khốt của ơng


Qn


- Sự ghét - thương ln tồn tại song song dù nó có trái ngược nhau nhưng đều
bắt đầu từ "thương" - nguồn của tình cảm


<b>3. Kết bài</b>


- Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Lẽ ghét thương


- Nêu suy nghĩ, cảm xúc của bản thân.


<b>Bài làm</b>


Nguyễn Đình Chiểu là ngôi sao sáng trên bầu trời văn học trung đại Việt Nam.
Các sáng tác của ông đã thể hiện rõ quan điểm nghệ thuật:


<i>Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm</i>


<i>Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

dẫn. Đó là một nhà Nho ở ẩn, thực chất cũng chính là bản thân Đồ Chiểu tự bộc
bạch tình cảm của mình trước sự đời.


Lục Vân Tiên khơng phải là tác phẩm đề cao trung, hiếu, tiết, hạnh mà là tác
phẩm đề cao nhân nghĩa và phê phán tất cả những cái gì là bất nhân, bất nghĩa.
Bao trùm tác phẩm là những tình cảm rất đẹp đẽ, hổn nhiên của những con
người biết cứu giúp nhau trong hoạn nạn, yêu thương nhau lúc khó khăn,
những con người sống chí tình chí nghĩa. Ngịi bút của nhà thơ bao giờ cùng
sôi nổi, tràn đầy yêu thương. Viết Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu như có ý
muốn nêu lên những tấm gương về ln lí đạo đức. Mà nói đến đạo đức phong


kiến thì đều cơ bản là ái quốc. Trung quân là trung với nước, với lẽ phải, với
lương tri con người.


Đoạn trích Lẽ ghét thương trong Lục Vân Tiên gồm hai mươi sáu câu thơ lục
bát, là lời của ông Quán. Trong lời ông Quán ta thấy rõ tư tưởng trung quân của
Nguyễn Đình Chiểu trước hết không phải xuất phát từ vua mà từ dân, từ lợi ích
của dân. Nhà thơ thấy chỉ có thể trung với những ông vua tốt, biết chăm lo cho
dân, chứ đối với những tên vua xấu, vua ác làm hại dân, gây đau khổ cho dân
thì ơng lên án gay gắt. Bởi vậy cái ghét, tình thương của ơng xt phát từ một
tấm lòng yêu thương sâu xa nồng thắm:


<i>Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương.</i>


Lẽ ghét thương là những lời tâm huyết về nỗi ghét, tình thương nhân bản của
Nguyễn Đình Chiểu. Trong đoạn trích nói về lẽ ghét thương có hai mươi sáu
câu thì trong đó có mười câu nói về lẽ ghét, mười sáu câu nói về tình thương,
về lẽ thương (dài gần gấp đơi so với lời nói về ghét). Ta thấy căn nguyên, gốc
rễ của cái ghét: ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm, những cái tầm phào,
những cái đa đoan, những cái dối trá, những cái mê dâm là vì chúng làm dối
dân, làm dân nhọc nhằn, dân luống chịu lầm than muôn phần, làm dân đến nỗi
sa hầm sẩy hang. Như vậy căn nguyên của cái ghét là bởi vì tình thương sâu
sắc đối với người dân. Những kẻ có quyền, có ơ lọng đã lợi dụng chỗ dựa để
lừa gạt, làm hại dân... Thực ra là những ông vua bạo ngược, những kẻ kéo bè
kéo phái gây chiến tranh hại dân... đời Kiệt, Trụ; đời U, Lệ; đời Ngũ Bá, đời
Thúc, Quý.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>Đề dân đến nồi sa hẩm sẩy hang.</i>


<i>Khiến dăn luống chịu lẩm than muôn phần.</i>



<i>Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.</i>


<i>Sớm đâu tối đánh lằng nhằng dối dân.</i>


Nỗi ghét được giãi bày sâu đậm, cao độ. Bằng việc sử dụng điệp từ ghét trong
câu thơ tám tiếng:


<i>Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.</i>


Đã diễn tả thái độ căm thù, khinh bỉ cực sâu. Đặc biệt nghệ thuật tăng cấp: cay
- đắng - vào tận tâm tả cụ thể màu sắc, mùi vị và độ sâu tăng dần của cái ghét:
Từ cái ghét có vị cay, sang cái ghét có vị đắng, đến cái ghét có độ sâu của lịng
người: ghét vào tận tâm. Như vậy, nhà thơ đã vận dụng quy luật chuyển đổi
cảm giác: Từ vị giác (cay - đắng kết hợp với từ ghét tạo nên một thứ cảm xúc
đặc biệt ghét cay, ghét đắng, đến ghét vào tận tâm. Với cách diễn đạt tăng cấp
này; Nguyễn Đình Chiểu cho thấy cái ghét của ơng Qn chính là lịng căm cao
độ, sâu cay. Ông căm thù tất cả những kẻ làm tổn hại đến cuộc sống, hạnh phúc
của nhân dân. Chính điều này đã thể hiện rõ tính nhân dân sâu sắc của thơ Đồ
Chiểu).


Từ lẽ ghét, ơng Qn bộc lộ tình thương bao la. Lời tự bạch của ông qua mười
sáu câu thơ đã tỏ rõ thái độ kính yêu, trân trọng và tấm lòng cảm thương sâu
sắc với những bậc hiền tài, đức hạnh, những người làm việc giúp dân. Mở đầu
là ơng nói tình thương của mình đối với Khổng Tử vất vả, gian lao trong công
việc truyền đạo Nho:


<i>Thương là thương đức thánh nhân</i>


<i>Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuông.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Nếu đoạn thơ mười câu nói về lẽ ghét của ơng Qn thì ở đoạn thơ mười sáu
câu ơng Qn lại bộc lộ lịng thương u trực tiếp đối với những người có tài
cao, chí lớn, muốn cứu đời, giúp dân... mà gặp rủi ro bất trắc nên nguyện vọng
cứu đời, cứu dân không thực hiện được trọn vẹn.


Đoạn thơ mười sáu câu đã thể hiện rõ tính chất bác ái, nhân bản bao la. Vẫn là
nghệ thuật điệp từ thương lặp lại 9 lần với những cặp câu đốì xứng hài hịa.
Đặc biệt, mở đầu đoạn thơ nhà thơ dùng hai từ thương: Thương là thương đức
thánh nhân. Từ thương lặp lại nhiều lần đã biểu hiện niềm yêu thương tha thiết
của ông Quán đối với Khổng Tử khi gặp gian nan, vất vả trên đường hành đạo.


Lịng thương của ơng Qn rộng lớn bao la, thương cả những người chết yểu
khi công danh còn dang dở:


<i>Thương thầy Nhan Tử dở dang</i>


<i>Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.</i>


<i>Thương cả những người không gặp may trên đường đời:</i>


<i>Thương ông Gia Cát tài lành</i>


<i>Gặp cơn Hán mạt đã đành phui pha.</i>


Và cả những người bị oan khiên bị giáng chức, ngồi tù: Đổng Tử, Nguyên
Lượng.. Từ tình thương những người cụ thể, ơng Qn bộc lộ tình thương đến
sơ phận cay đắng của con người trước những quy luật khắc nghiệt của tạo hóa
và xã hội. Đó cũng chính là tình cảm gắn bó máu thịt với nhân dân mà cốt lối là
mong cho dân tộc được hạnh phúc, bình an.



Đoạn trích có bố cục chặt chẽ, mạch lạc và lơ-gích. Có câu mở dầu nói về nỗi
ghét:


<i>Quản rằng: Ghét việc tầm phào</i>


<i>Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.</i>


Đối lập lại là những câu nói về tình thương và cũng có câu mở đầu:


<i>Thương là thương đức thánh nhân</i>


Kết cho cả hai đoạn là câu nói về cả ghét - thương:


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.</i>


Những điệp từ ghét - thương trong các ý nhỏ vừa tách biệt, vừa liên kết các ý
đã làm cho đoạn thơ liền mạch, chặt chẽ... tạo nên giọng thơ vừa trang nghiêm,
vừa thống thiết xót xa.


Thơng qua lời ơng Qn, Nguyễn Đình Chiểu đã giãi bày tâm huyết của mình
về lẽ ghét, tình thương với con người. Lời giãi bày đó thể hiện được quan điểm
đạo đức yêu - ghét trước cuộc đời mà xuất phát của tình cảm đó là bởi vì cuộc
sống của nhân dân. Bởi vậy có thể khẳng định tư tưởng cốt lõi của đoạn trích là
ở tấm lịng yêu thương nhân dân sâu sắc, tha thiết của nhà thơ.


<b>Bài làm 2</b>


Nguyễn Đình Chiểu là tiêu biểu cho một nhân cách cao đẹp trong bối cảnh đất
nước loạn lạc, chế độ phong kiến suy tàn, đế quốc xâm lược. Ở con người vĩ
đại ấy, trước hết ta thấy được cái ý chí nghị lực phi thường vượt qua số phận


nghiệt ngã. Sau là thấy được cái tấm lịng chính nghĩa thể hiện trong văn, thơ
một cách thật thâm thúy và sâu sắc. Đọc thơ văn của ông, người ta rút ra được
những bài học về đạo đức, về tấm lịng u nước thương dân của một nhà nho
chân chính. Lại cũng phân biệt được đâu chính, đâu tà, thế nào là thương, ghét,
thế nào biểu dương, phê phán. Một ví dụ tiêu biểu nhất cho những lời tâm
huyết ấy của Nguyễn Đình Chiểu chính là đoạn trích Lẽ ghét thương thuộc
truyện thơ Lục Vân Tiên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

như thế chẳng ai hiểu được ý nghĩ của ông Quán, chẳng thế mà Lục Vân Tiên
mới phải xin ông Quán giải thích. Ngay từ những lời đầu, nhân vật này đã thể
hiện cái sự ghét của mình một cách rất sâu sắc. Ơng ghét "chuyện tầm phào",
suy rộng ra thì ghét những kẻ mồm năm miệng mười, chuyên buôn chuyện,
dựng chuyện nhảm nhí, vơ nghĩa. Cái sự ghét của ơng nó tăng tiến dần dần,
chẳng phải chỉ ghét khơi khơi, mà là "ghét vào tận tâm", cái ghét đã ăn vào
máu và linh hồn, chẳng bao giờ thay đổi được. Ông Quán ghét những cái rộng
lớn, tầm vóc ấy là nỗi căm ghét các triều đại thối nát suy tàn, "ghét đời Kiệt,
Trụ mê dâm", "ghét đời U, Lệ đa đoan", "ghét đời Ngũ bá phân vân", "ghét
thúc quý phân băng". Ông Quán ghét những triều đại mà vua quan chỉ lo ăn
chơi sa đọa, chìm đắm tửu sắc, tranh quyền đoạt lợi, trọng dụng nịnh thần để
đất nước phải lầm than, nhân dân phải đói khổ vật vã. Âý chính là cái lẽ ghét
cũng là do thương mà ra cả, ông Quán thương xót cho số phận dân đen phải lao
đao cực khổ, phải chịu nhiều vất vả chỉ vì cái thú sa đọa của triều đình xưa.
Chính vì cái tình thương cao cả như vậy nên cái ghét bỏ của ơng Qn, hay là
Nguyễn Đình Chiểu cũng mang tầm vóc lịch sử như thế.


Khác với lẽ ghét, nếu Nguyễn Đình Chiểu chỉ chung các triều đại xa xưa, thì ở
lẽ thương ơng lại nói về các cá nhân, các bậc thánh nhân với một nỗi niềm tiếc
hận. Ông thương cho Khổng Tử, người khai sinh ra nền Nho giáo với nhiều
tinh hoa tốt đẹp, ấy thế mà chẳng phải thời vận. Dù đã bôn ba gắng sức truyền
bá, nhưng kết quả chẳng mấy ai hưởng ứng, mang lại một nỗi hụt hẫng, chán


chường vì khơng tìm được người chung chí hướng. Rồi lại thương cho thầy
Nhan Tử, cũng là thương cho lớp những bậc anh tài đoản mệnh, chưa đóng góp
được cho đời đã phải lìa xa nhân thế. Ông Quán thương cả cho những bậc cao
nhân khi xưa như Gia Cát Lượng, Đổng Trọng Thư, Đào Uyên Minh, Hàn Dũ,
Chu Đơn Di, Trình Hạo, Trình Di. Tất cả họ đều là những bậc kỳ tài, nhân cách
cao cả, tuy nhiên kẻ thì khơng gặp thời, người khơng được trọng dụng, thế nên
dù có biết bao tài năng đi nữa thì cũng phải chịu cảnh tàn lụi, tài năng bị chôn
vùi. Điều ấy để lại cho hậu thế về sau biết bao cảm xúc, vừa thương tiếc lại
cũng vừa ngưỡng mộ, xót xa. Tuy ơng Qn khơng đề cập, nhưng chắc hẳn sâu
trong tâm khảm ông là nỗi mong ước đất nước có những bậc kỳ tài như thế, lại
có những vị vua anh minh, để họ có cơ hội ra phị vua giúp nước, để nhân dân
có một cuộc sống tốt đẹp hơn, chứ không phải chịu cái cảnh lầm than cơ cực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

chính, một người quân tử đức hạnh, lẽ ghét thương đã được khai thác một cách
rạch ròi, sáng tỏ tựa như tấm lòng của tác giả. Thơng qua đó, ta càng thêm thấu
hiểu tấm lòng yêu nước thương dân, tấm lòng yêu thương, ca ngợi những con
người có nhân cách và tài năng tốt đẹp của Nguyễn Đình Chiểu. Cùng với đó là
tấm lòng căm ghét cái nhiễu nhương rối ren của triều đình phong kiến xưa, tuy
Nguyễn Đình Chiểu khơng trực tiếp nói ra nhưng đọc thơ ta có thể nhận thấy rõ
ràng những lời phê phán ấy.


<b>Bài làm 3</b>


Nguyễn Đình Chiểu là một trong số những tác giả tiêu biểu của nền văn học
trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm xuất sắc, thể hiện rõ tư tưởng nhân
nghĩa và lòng yêu nước, thương dân. Tác phẩm “Truyện Lục Vân Tiên” là một
trong số những tác phẩm xuất sắc, nổi tiếng bậc nhất của ơng. Đọc tồn bộ tác
phẩm nói chung và đoạn trích “Lẽ ghét thương” nói riêng, người đọc sẽ thấy
được tấm lòng thương dân sâu sắc và lẽ thương ghét rạch ròi của nhà thơ mù
xứ Nam Bộ.



Mười sáu câu thơ đầu đoạn trích đã tái hiện lại cuộc đối thoại giữa ông Quán và
Lục Vân Tiên, để từ đó thể hiện quan niệm về lẽ ghét của ông Quán. Trước hết,
những câu thơ mở đầu đoạn trích chính là lời tự giới thiệu của ơng Qn về
mình:


Qn rằng: kinh sử đã từng


Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.


Hỏi thời ta lại nói ra


Vì chưng hay ghét cũng là hay thương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Trước lời giới thiệu của ông Quán, Vân Tiên đã đáp lại một cách khiêm
nhường, từ đó, thể hiện ước muốn được nghe ơng Qn giải thích, nói rõ hơn,
tường tận hơn về lẽ ghét thương.


Tiên rằng: Trong đục chưa tường


Chẳng hay thương ghét, ghét thương thế nào?


Sau lời đối đáp giữa ông Quán và Vân Tiên, ơng Qn đã đi sâu giải thích, làm
rõ quan điểm của mình về lẽ ghét:


Quán rằng: Ghét việc tầm phào


Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.


Có thể thấy, cái đầu tiên ơng Qn ghét đó chính là “việc tầm phào”. Như


chúng ta đã biết, “việc tầm phào” là những việc vu vơ, hão huyền, những việc
vô nghĩa. Đặc biệt, cái ghét ấy như được nhấn mạnh, tăng lên bội phần khi từ
“ghét” được tác giả nhắc đi nhắc lại ba lần cùng với đó là cấp độ ngày cảng
một tăng lên. Để rồi, từ đó, tác giả đã liệt kê, làm rõ những “việc tầm phào” mà
ông ghét trong những câu thơ tiếp theo:


Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,


Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.


Ghét đời U, Lệ đa đoan,


Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.


Ghét đời Ngũ, Bá phân vân,


Chuộng bề dối trá, làm dân nhọc nhằn.


Ghét đời Thúc quý phân băng,


Sớm đầu tối đánh, lằng nhằng hại dân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

dân. Đặc biệt, những việc làm, hành động của các đời vua bạo chúa ấy đã khiến
cho đời sống của nhân dân “lầm than muôn phần”, phải chịu cảnh “sa hầm sẩy
hang”. Như vậy, có thể thấy, ơng Qn đã đứng trên lập trường, vị trí của nhân
dân để bày tỏ thái độ ghét của mình, đồng thời qua đó có thể thấy ơng đã gián
tiếp nói lên nỗi thống khổ của nhân dân dưới các thời vua chúa bạo ngược,
không chăm lo, quan tâm đời sống của nhân dân.


Không chỉ dừng lại ở việc làm rõ quan điểm về thái độ, tình cảm “ghét” của


mình, ơng Qn cịn đưa đến cho người đọc những suy ngẫm về điều “thương”.


Thương là thương Đức thánh nhân


Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuôn.


Thương thầy Nhan tử dở dang


Ba mươi mốt tuổi, tách đàng công danh.


Thương ông Gia Cát tài lành,


Gặp cơn Hán mạt, đã đành phơi pha.


Thương thầy Đồng tử cao xa,


Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.


Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,


Lỡ bề giúp nước lại lui về cày,


Thương ông Hàn Dũ chẳng may,


Sớm dâng sớ biểu tối đày đi xa.


Thương thầy Liêm Lạc đã ra


Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

cho Gia Cát Lượng có tài nhưng khơng gặp thời nên cũng đành “phôi pha”,
thương cho thầy Đổng tử có chí lớn, học rộng nhưng khơng được trọng dụng
nên khơng được thi tài năng. Ơng cịn thương cho Nguyên Lượng, Hàn Dũ,
Liêm, Lạc - những con người có tài, muốn giúp nước giúp dân nhưng khơng
được. Có thể thấy, điểm chung của những đối tượng mà ông Quán thương
chính là sự tài đức, có chí, nhưng vì thời vận nên họ không đạt được mong ước,
sở nguyện của bản thân mình. Bày tỏ quan điểm về lẽ thương nhưng ẩn sau đó
ơng Qn cũng bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc của mình với những con người
đó.


Đưa ra quan điểm của mình về lẽ ghét và lẽ thương, ông Quán đã thể hiện rõ
quan điểm yêu, ghét rạch rịi của mình. Thêm vào đó, trong hai câu cuối của
đoạn trích, ơng cũng đã làm rõ mối quan hệ giữa ghét và thương.


Xem qua kinh sử mấy lần,


Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.


Với nghệ thuật đối cùng cắt ngắt nhịp 4/4, hai câu thơ khép lại bài thơ như một
lời chiêm nghiệm của ông Quán về lẽ ghét, thương. Đồng thời, thêm vào đó,
với cách nói “nửa phần” được lặp lại hai lần cho thấy với tác giả, thương và
ghét ln lồng vào nhau, trong thương có ghét, trong ghét lại vẫn có thương.


Tóm lại, với việc sử dụng thể thơ lục bát cùng ngôn ngữ giản dị, chân chất,
đậm sắc thái của người Nam Bộ, đoạn trích “Lẽ ghét thương” đã thể hiện một
cách rõ nét và sâu sắc quan điểm yêu ghét rạch ròi, phân minh của tác giả.
Đồng thời, qua đó cũng giúp người đọc cảm nhận được tình cảm yêu thương
nhân dân của nhà thơ.


<b>Bài làm 4</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Đoạn trích “Lẽ ghét thương” được trích ra từ tác phẩm “Lục Vân Tiên”. Tác
phẩm được ông sáng tác khi ông đã bị mù, cốt truyện xung quanh cái ác và cái
thiện. Ơng ln đề cao tinh thần nghĩa hiệp, phê phán cái ác và đưa ra một quy
luật bất biến: chính nghĩa ln thắng gian tà. Đoạn trích được trích ra từ phần
đầu của tác phẩm, kể về cuộc gặp mặt, trò chuyện của ông Quán và bốn chàng
nho sinh đi thi.Qua đoạn trích có thể thấy rõ được lẽ ghét thương phân minh
của ông Quán được bộc lộ rõ như thế nào.


Người đọc có thể thấy rõ được quan điểm của ơng Quán, một người đã trau dồi
mài kinh sử cũng học và thi, qua bốn câu thơ:


Quán rằng: “Kinh sử đã từng.


Coi rồi lại khiến lịng hằng xót xa


Hỏi thời ta phải nói ra


Vì chưng hay ghét cũng là hay thương.


Ơng Quán đã thẳng thắn đưa ra ngay suy nghĩ của mình trước sự ngụy biện hai
tên Trịnh Hâm và Bùi Kiệm khi bị thua trong cuộc so tài. Ông cảm thấy bất
bình và rồi ơng đã giải thích cho chính cái ngun căn ấy “ Vì chưng hay ghét
cũng là hay thương”.


Qua mười hai câu tiếp theo, ta có thể cảm nhận rõ hơn rất nhiều về tầm hiểu
biết sâu rộng của ông Quán khi ông bàn về “lẽ ghét”:


Tiên rằng: “Trong đục chưa tường,



Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?”


Quán rằng: “Ghét việc tầm phào,


Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm.


Ghét đời Kiệt, Trụ,mê dâm


Để dân đến nỗi sa hầm sảy hang.


Ghét đời U, Lệ đa đoan,


Kiến dân luống chịu lầm than muôn phần.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn


Ghét đời Thúc Quý phân băng


Sớm đầu, tối đánh, lằng nhằng dối dân.”


Vân Tiên muốn hiểu rõ hơn về ý tứ của ông Quán, đồng thời cũng muốn học
hỏi thêm nhiều điều đã không ngần ngại hỏi lại “Trong đục chưa tường,/Chẳng
hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?”Ơng Qn đã khơng ngần ngại câu trả lời
mà cịn giải thích rõ tại sao. Ơng nhấn mạnh rằng ông ghét việc tầm phào, ghét
đến tận tâm can của ông. Việc tầm phào ở đây nghĩa là những việc chẳng có
nghĩa lí gì, chẳng đâu vào với đâu, những việc đó khiến ơng căm ghét tột cùng.
Để làm rõ, ông đã đưa ra nhiều điển cổ , điển tích để chứng minh. Đời Kiệt,
đời Trụ hoang dâm vô độ, không lo cho dân, để cho dân rơi vào cuộc sống
cùng cực.Đến đời U, đời Lệ “đa đoan” lắm chuyện rắc rối, kiến dân chúng
không khỏi lầm than.Rồi đến nhà Ngũ Bá, Thúc Quý triền miên chiến tranh


làm cho nhân dân khổ cực thêm.Qua những dẫn chứng mà ơng đưa ra, ơng ln
đứng về phía nhân dân, bình xét lịch sử. Nguyễn Đình Chiểu đã làm rõ được
“lẽ ghét” qua nghệ thuật lặp từ “ ghét” được lặp lại tám lần và tình u thương
dân mn phần qua từ “dân” được lặp lại bốn lần. Có thể thấy rằng ơng Qn
mà cũng chính là tác giả có lịng thương dân sâu sắc như thế nào.


Mười bốn dịng tiếp theo của cuối đoạn trích, ta càng cảm nhận được ơng Qn
là một người có lịng nhân hậu, ông thương những bậc hiền tài của đất nước
nhưng cuộc đời của họ luôn gặp những rủi ro khôn lường:


Thương là thương đức thánh nhân,


Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông.


Thương thầy Nhan Tử dở dang


Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.


Thương ông Gia Cát tài lành


Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha.


Thương thầy Đồng Tử cao xa


Chí đà có chí, ngơi mà khơng ngơi


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Lỡ bề giúp nước lại lui về cày


Thương ông Hàn Dũ chẳng may



Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa


Thương thầy Liêm, Lạc đã ra


Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.


Nếu như mười hai câu thơ đầu ông thể hiện rõ lòng căm thù , ghét cay, ghét
đắng bao nhiêu thì sang những câu thơ cuối ơng lại bộc lộ ra niềm thương xót
bấy nhiêu cho những hiền tài của đất nước. Từ thánh nhân Khổng Tử lận đận
trong việc truyền đạo đến thầy Nhan Tử tài đức vậy lại kết thúc cuộc đời quá
sớm. Hay Gia Cát, Đồng Tử, Hàn Dũ, thầy Liêm, Lạc đều là người tài giỏi,
mưu trí, học cao hiểu rộng nhưng đều khơng gặp thời. Ở đây, tác giả đã sử
dụng nghệ thuật điệp từ cũng như liệt kê để thể hiện rõ tấm lịng u thương da
diết đầy tính bác ái đối với những con người tài giỏi nhưng bạc mệnh.


Hai câu cuối của bài thơ tác giả đã đúc kết lại lẽ ghét thương của mình:


Xem qua kinh sử mấy lần


Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.


Nửa phần ghét kết hợp với nửa phần thương, qua đó cho thấy thái độ dứt khốt
rõ ràng của ơng Qn cũng như tác giả. Và sự thương và ghét ấy nó ln tồn tại
song song dù nó có trái ngược nhau, nhưng song đều bắt đầu từ “thương” – cái
nguồn của tình cảm.


Với những biệt pháp nghệ thuật như điệp từ, liệt kê, sử dụng điển tích, điển cố,
ta có thể thấy được tài năng trong sáng tác văn chương của Nguyễn Đình
Chiểu. Chính những phép nghệ thuật ấy đã giúp đoạn thơ mang tính chất triết lí
cao nhưng lại dạt dào cảm xúc. Từ đó ta càng thấy được ghét, thương tưởng


chừng như đối lập mà lại hoàn toàn là thống nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<b>Bài làm 5</b>


Nguyễn Đình Chiểu là một trong những tác giả nổi tiếng nhất của văn học
Trung đại Việt Nam. Ông để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm nổi bật như: Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc, Chạy giặc,… và không thể không nhắc đến truyện thơ Lục
Vân Tiên với trích đoạn Lẽ ghét thương đã in những dấu ấn đậm nét trong lòng
bạn đọc suốt bao thế hệ qua.


Đoạn trích Lẽ ghét thương được trích từ câu 473 đến câu 504, kể về sự kiện
bốn chàng nho sinh lên kinh dự thi tình cờ gặp nhau trong quán rượu của ông
Quán. Trịnh Hâm đã đưa lời thách đố làm thơ để so tài cao thấp, Vân Tiên tỏ ra
vượt trội hơn hẳn khiến cho Trịnh Hâm và Bùi Kiệm tỏ ý nghi ngờ tài năng của
chàng. Trước tình huống đó, ơng Qn đã ra và trị chuyện về lẽ ghét thương ở
đời.


Với bốn câu tự giới thiệu hết sức ngắn gọn của ông Quán, người đọc đã có đơi
nét thơng tin và hiểu về nhân cách đáng kính của ơng:


Qn rằng: Kinh sử đã từng


Coi rồi lại khiến lịng hằng xót xa.


Hỏi thời ta phải nói ra,


Vì chưng hay ghét cũng là hay thương.


Ông Quán cũng như ông Tiều, ông Ngư sống cuộc đời mai danh, ẩn tích, tránh
phường danh lợi, hướng đến cuộc sống an nhàn, thư thái trong tâm hồn. Hình


ảnh của họ cũng phảng phất hình ảnh của Đồ Chiểu sau khi bị mù trở về quê
hương làm nghề dạy học và sáng tác. Bởi vậy, các nhân vật này cũng chính là
những người thể hiện và phát ngôn những tư tưởng, quan điểm của tác giả.


Trong câu nói của ơng Qn cịn thể hiện mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa
ghét và thương. Thương và ghét là hai mặt tình cảm trong mỗi con người. Cái
người ta thương là những điều tốt đẹp, lay động trái tim, ngược lại họ thường
ghét cái xấu xa, độc ác, làm ảnh hưởng xấu đến con người. Như vậy, ghét cũng
chính là xuất phát từ lịng thương, bởi vì thương người dân nên mới ghét những
điều xấu xa, bạo ngược. Tình cảm này của ơng Qn được thể hiện một cách
tha thiết chân thành:


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm”


“Tầm phào” là những việc vu vơ, hão huyền, khơng có ý nghĩa. Đó chính là
những điều ơng Qn ghét. Cái ghét ấy càng được khắc đậm hơn qua việc lặp
lại từ “ghét” ba lần theo chiều tăng tiến. Và tám câu thơ tiếp đó là những dẫn
chứng cụ thể, trực tiếp để làm rõ những điều mà ơng Qn ghét. Ơng ghét đời
Kiệt Trụ mê dâm, đời U, Lê đa đoạn, Thời Ngũ bá phân vân,… khiến cho
người dân phải chịu nhiều cay đắng, khổ cực, chiến tranh khiến biết bao gia
đình phải li tán. Dường như trong từng câu thơ người đọc cảm nhận được nỗi
phẫn uất cuộn trào trong lòng ông Quán. Qua những lời bộc bạch hết sức chân
thành của ơng Qn, ta có thể thấy rằng, ơng hay chính Nguyễn Đình Chiểu
đứng trên lập trường nhân dân, vì dân mà nêu lên quan điểm về lẽ ghét thương.
Đồng thời lẽ ghét ấy cũng là cơ sở để tác giả thể hiện lẽ thương của mình. Ơng
thương những nhà hiền triết, bậc chí nhân, quân tử như: Khổng Tử, Đào Tiềm,
Nguyên Lượng, Hàn Dũ,… Họ đều là những con người tài giỏi, mang trong
mình tâm niệm đem tài năng ra giúp ích cho đời song lại khơng đạt được sở
nguyện. Thấp thống ở những nhân vật đó ta thấy hình ảnh của Nguyễn Đình
Chiểu, ơng cũng mang trong mình những suy nghĩ, khát vọng lớn lao nhưng


đều đi vào bế tắc. Bởi vậy khi nhắc đến những nhân vật này ta cảm nhận được
niềm cảm thông và đồng cảm sâu sắc của tác giả đối với họ. Tác giả kết thúc
tác phẩm bằng hai câu thơ: “Xem qua kinh sử mấy lần/ Nửa phần lại ghét, nửa
phần lại thương” như là một lời tóm lại lẽ ghét thương ở đời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Để tạo nên sự thành công của đoạn trích, những đặc sắc nghệ thuật ta cũng
khơng thể không nhắc đến. Văn bản được viết bằng thứ ngôn ngữ dung dị, đậm
chất Nam Bộ nhưng cũng hết sức truyền cảm, giàu cảm xúc. Sử dụng hình thức
liệt kê, phép điệp cho thấy rõ lẽ ghét thương ở đời của tác giả. Giọng thơ linh
hoạt, đa dạng lúc cuồn cuộn sục sơi khi nói về lẽ ghét, lúc lại da diết, trầm buồn
khi nói về lẽ thương.


Tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm nơi người đọc bởi sự kết tinh hài hịa giữa
nội dung và hình thức nghệ thuật. Lẽ ghét thương đã nói lên những tình cảm
u ghét chân thành, thẳng thắn mà cũng hết sức tha thiết của một tấm lòng vĩ
đại, suốt một đời yêu nước, thương dân.


</div>

<!--links-->

×