Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.52 KB, 12 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>1. Mở bài</b>
Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đị sơng Đà. (Nguyễn Tn
là một tác giả lớn có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học của Việt Nam).
<b>2. Thân bài</b>
Từ trên tàu bay nhìn xuống "con sơng Đà tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu
tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo"
"Mùa xuân xanh màu ngọc bích", khác với sơng Gâm, sơng Lơ "màu xanh canh
hến". Mùa thu nước sơng "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa"
→ Sơng Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.
Nguyễn Tn nhìn sơng Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực
kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu nhung
khỏi áng cỏ sương" Dịng sơng Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử
đất Việt: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sơng hồn nhiên như nỗi niềm
cổ tích xưa.
→ Nguyễn Tn say mê miêu tả dịng sơng với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và
bằng một tình yêu thiết tha. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một
dịng sơng đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có.
<b>3. Kết bài</b>
Khẳng định lại vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sơng Đà và giá trị nội dung, nghệ
thuật của tác phẩm.
<b>1. Mở bài</b>
giả khắc họa đậm nét trong tùy bút. Khi miêu tả tính cách hung bạo của sông Đà,
tác giả sử dụng những câu văn mang nhịp điệu dồn dập, hình ảnh thơ hùng vĩ.
Nhưng khi ca ngợi dịng sơng Đà trữ tình gợi cảm ông lại dùng những câu văn dài,
êm ả, nghe như tiếng hát ngân nga.
<b>2. Thân bài</b>
* Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sơng Đà
Thác ghềnh lúc này chỉ cịn lại trong nỗi nhớ. Thuyền được trôi êm: câu văn mở
đầu đoạn hoàn toàn là thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng, mơ màng; ý lặng tờ nhắc
lại trùng điệp tạo chất thơ.
Thiên nhiên hài hòa mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, kỳ thú: Cỏ gianh đồi núi đang
ra những búp non, đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương
So sánh bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa
mở ra những liên tưởng về sự bát ngát, lãng mạn, hư hư thực thực của dịng sơng.
Người với cảnh có sự tương giao, hư thực đan xen: Tiếng còi, con hươu ngộ ngẩng
đầu nhìn và hỏi ơng khách sơng Đà. Cảnh làm cho vị tình nhân non nước sơng Đà
xúc động trong thực và mơ.
* Nghệ thuật của ngòi bút lãng mạn tài hoa, tinh tế. Nhà văn hiến cho độc giả hình
ảnh sống động, ấn tượng sâu sắc:
Lấy động tả tĩnh: Cá quẫy đủ khiến ta giật mình.
Cái tĩnh hàm chứa sự bất ngờ bởi sự biến hóa liên tiếp: thuyền thả trôi, con hươu
thơ ngộ vểnh tai, áng cỏ sương, tiếng còi sương, đàn cá dầm xanh quẫy vọt. Cảnh
và vật đều ở trạng thái động, không chịu ép mình và đều mang hơi thở vận động
của cuộc sống nhiều chiều
* Nhà văn đã trải lịng mình với dịng sơng, hóa thân vào nó để lắng nghe nhịp
sống cuộc đời mới, để nhớ, để thương cho dịng sơng, cho quê hương đất nước:
Thưởng ngoạn vẻ đẹp sông Đà, lịng ơng dậy lên cảm giác liên tưởng về lịch sử, về
tình cảm đối với cố nhân: nhắc tới đời Lí đời Trần.
Trước vẻ đẹp hoang dại nhà văn suy nghĩ về tiếng còi tàu, cuộc sống hiện đại.
Trải lòng, hóa thân vào dịng sơng trong đắm đuối của tình non sơng đất nước: Nhớ
thương hịn đá thác, lắng nghe giọng nói, trơi những con đị mình nở.
Qua đoạn trích thấy cảnh vật và con người gắn quyện với nhau chặt chẽ; thấy
những đặc sắc của văn Nguyễn Tuân. Đọc “Sông Đà” người đọc càng thêm quý
trọng tài năng và tấm lòng của con người suốt đời đi tìm cái đẹp, làm giàu có đời
sống tinh thần của tất cả độc giả chúng ta.
Mỗi nhà văn có một quan điểm sáng tác riêng theo họ xuyên suốt sự nghiệp văn
học. Nhưng có lẽ, Nguyễn Tuân là một trường hợp đặc biệt khi quan điểm sáng tác
Tùy bút Người lái đị sơng Đà in trong tập “Sông Đà”, là kết quả chuyến đi thực tế
của Nguyễn Tuân đến vùng núi Tây Bắc để khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, của
con người và tìm kiếm “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong chính cuộc sống
thường nhật. Qua “Người lái đị sơng Đà”, Nguyễn Tn với lịng tự hào của mình
đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất
nước qua hình ảnh con sơng Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát
hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới qua
hình ảnh người lái đị sơng Đà.
Nếu vẻ đẹp của sơng Đà chỉ dừng lại ở sự hung bạo thì chẳng có gì đáng để tác giả
u q, chính dịng sơng này lại mang vẻ đẹp khác biệt vơ cùng thơ mộng, trữ
tình làm người ta xao xuyến: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo
tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đến đây, Nguyễn Tuân
giúp bạn đọc hình dung ra con sơng Đà như một người thiếu nữ của Tây Bắc với
mái tóc tn dài giữa núi rừng mộng mơ mang màu sắc thay đổi theo mùa: “Mùa
xn dịng xanh ngọc bích, chứ nước Sơng Đà khơng xanh màu xanh canh hến của
Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sơng Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người
bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi
độ thu về”.
sử, hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cảnh sơng Đà cịn là “những
nương ngơ nhú lên những lá ngơ non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra
những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”.
Vẻ đẹp hung bạo, dữ tợn đen xen cùng thơ mộng, trữ tình đã làm cho Nguyễn Tuân
say mê miêu tả dịng sơng ấy với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, một tình yêu thiên
nhiên đất nước sâu nặng. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu, tự hào về một
dịng sơng, một ngọn thác, một dịng chảy đã giúp Nguyễn Tuân tạo nên những
trang văn đẹp hiếm có qua ngơn từ un bác và những liên tưởng thú vị.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng bạn đọc chưa bao giờ quên phong cách sáng tác
“ngông” độc đáo của Nguyễn Tuân cùng tùy bút và hình ảnh con sơng Đà. Tác
phẩm đã đóng góp khơng nhỏ vào nền văn học Việt Nam và được nhiều thế hệ con
người đón nhận.
Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác
phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp và cuộc sống. Và tùy bút “Người lái đò sông
Đà” là một tùy bút như vậy. Nổi bật lên trong tác phẩm là hình tượng con sơng Đà
với hai nét tính cách tiêu biểu, đó là hung bạo và trữ tình, thơ mộng. Với sự hiểu
biết sâu, gắn bó máu thịt và niềm đam mê cháy bỏng bừng vào trang văn, Nguyễn
Tn đã biến dịng sơng của tự nhiên thành dịng sơng nghệ thuật, thành một sinh
thể có tâm hồn tính cách, trước hết là những đẹp thơ mộng, trữ tình được tái hiện
qua ngịi bút của Nguyễn Tn làm say mê bao trái tim bạn đọc.
chuyển, yêu kiều, hình ảnh ẩn hiện mây trời Tây Bắc và phép so sánh mây trời ấy
cuồn cuộn như mù khói núi mèo đốt nương xn, chính điều này làm tăng thêm vẻ
hư ảo kín đáo e ấp tình tứ của dịng sơng. Động từ “bung nở” là một động từ mạnh
đứng trước hai loài hoa của mùa xuân là hoa gạo đỏ tươi và hoa ban trắng tinh
khiết làm tăng thêm cảm nhận về sự vận động của sắc màu cứ xôn xao rạo rực rồi
bừng lên lộng lẫy, trang điểm cho dịng sơng đẹp tuyệt diệu cuốn hút lòng người.
Nguyễn Tuân còn đặc biệt ấn tượng sâu sắc khi đi qua sơng Đà bằng thuyền vì mặt
sơng ở những qng sơng này “lặng tờ”, gợi khơng khí cổ kính tĩnh lặng mang tính
huyền thoại. Hai bên bờ sơng lại hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích vì có nhiều hình
ảnh lạ: “đàn hươu đang ngốn búp cỏ gianh” hiền lành như muốn hỏi ông khách
sông Đà…, những tiếng cá đập nước làm đàn hươu nai biến mất, mặt sông cá nhảy
tung lên mặt nước “như bạc rơi thoi” làm cho dịng sơng vừa đẹp vừa giàu.
Với đơi mắt chan chứa, yêu thương trìu mến tự hào, Nguyễn Tuân đã phác họa
thiên nhiên sông Đà đẹp lộng lẫy hư ảo khiến nhà văn ví dịng sơng lúc thì như một
cố nhân, lúc lại đắm say như một tình nhân trong thơ Tản Đà ở gần thì thương, đi
xa thì nhớ, gặp lại thì vui như nối lại chiêm bao đứt quãng, như “gặp lại nắng giịn
tan sau kì mưa dầm” có cảm giác đằm đằm, âm ấm rất hạnh phúc. Tài hoa của
Nguyễn Tuân đã truyền đến cho người đọc bao u thương trìu mến để sơng Đà
mãi sống trong lịng người đọc.
phong phú ngùn ngụt chất liệu sức sống khiến dịng sơng Đà của thiên nhiên vĩnh
Nguyễn Tuân là một con người hết mực tài hoa, uyên bác. Dù chỉ viết văn nhưng
ơng lại có sự am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội họa, điêu khắc, sân khấu,
điện ảnh…Biết vận dụng con mắt nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật khác để tăng
cường khả năng quan sát, biểu hiện thế giới của nghệ thuật ngôn từ. Và “Người lái
đị Sơng Đà” là một tác phẩm đỉnh cao, thể hiện sự tài hoa trong việc sử dụng ngôn
từ, cũng như những quan sát tinh tế của Nguyễn Tuân.
Hình ảnh con sơng Đà được nhìn qua lăng kính tâm hồn nghệ sĩ với nhiều vẻ đẹp
khác nhau mang lại ấn tượng độc đáo. Nguyễn Tuân cảm nhận vẻ đẹp của sơng Đà
ở nhiều góc độ tầm nhìn khác nhau, có lúc ơng quan sát con sơng từ trên cao xuống
tức là lúc đi máy bay trên sông Đà, lúc thì tầm nhìn của ơng lại gần hơn khi ông đi
thuyền trực tiếp trên con sông. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà thật “lắm
bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chơc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay
đấy”.
Dịng sơng Đà khơng chỉ có những “dịng thác hùm beo đang hồng hộc tế manh
trên sơng đá” mà nó cịn là bức tranh thủy mặc vương vấn lịng người. Con Sơng
Đà hùng vĩ dài trên năm trăm cây số, ở nơi thượng nguồn nó mang một vẻ đẹp hào
hùng và thách thức, vậy mà vượt qua đoạn thượng nguồn dịng sơng hồn tồn
mang bộ mặt khác: thơ mộng, trữ tình, thanh bình, n ả; nó giống như một cô
thiếu nữ xinh đẹp trút bỏ cái vẻ “đỏng đảnh” để trở về với vẻ đẹp dịu dàng lãng
mạn của mình - một nét tính khác của Sơng Đà được Nguyễn Tuân dùng ngòi bút
tài hoa để miêu tả mang đậm chất trữ tình.
Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sơng Đà tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu
màu sắc khác nhau. Mùa xn, nước sơng Đà xanh ngọc bích “chứ khơng xanh
màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong,
xanh sáng, xanh biếc – một sắc màu gợi cảm, trong lành. Thật tài hoa và thật trữ
tĩnh bởi đó gợi lên sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà
“lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ
ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín
đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” chắc chỉ có ở một mình Nguyễn Tn.
Ơng đã sử dụng phép so sánh thật độc đáo, tinh tế nhưng không kém phần gần gũi.
Giúp người đọc dễ dàng tưởng tượng ra vẻ đẹp thơ mộng chân thực của dịng sơng.
Quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, Tác giả ví sơng Đà
như một cố nhân đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khơn xiết. Mượn một câu thơ
trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng
Lăng” – “Yêu hoa tam nguyệt há Dương Châu “của Lý Bạch, Nguyễn Tuân dường
như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dịng sơng Tây Bắc. Dịng sơng ấy trong
sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp
lánh, hồn nhiên thanh bình. Khơng gian lắng đọng trong vẻ đẹp của “bờ sông Đà,
bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. Nguyễn Tuân đã gợi lên vẻ đẹp
của sông Đà bằng hai từ “gợi cảm”. Và quả thực, vẻ đẹp thơ mộng của dịng sơng
khiến cho người ngoạn cảnh gặp lại có cảm giác “đằm đằm ấm ấm”, gợi biết bao
thi vị. Nguyễn Tuân còn đặc biệt ấn tượng sâu sắc khi đi qua sơng Đà bằng thuyền
vì mặt sơng ở những qng sơng này “lặng tờ”, gợi khơng khí cổ kính tĩnh lặng
mang tính huyền thoại. Hai bên bờ sơng lại hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích vì có
nhiều hình ảnh lạ: “đàn hươu đang ngốn búp cỏ gianh” hiền lành như muốn hỏi
Ngịi bút và ngôn ngữ của Nguyễn Tuân tràn đầy âu yếm và nâng niu. Mỗi câu chữ
đều quyện chặt tình yêu với con sông thể hiện sinh động qua biện pháp nhân hóa.
Màu sắc và hình ảnh hiện lên đẹp như một bức tranh. Qua đơi mắt người lái đị,
hay là đơi mắt của tác giả sơng Đà tạo nên những dịng cảm xúc thật lạ kì, thần tiên
và mộng mơ quá đỗi. Có lẽ khi yêu mảnh đất này, cảm nhận nó ở mọi khía cạnh
đều tốt lên vẻ đẹp khơng phải nơi nào cũng có được. Và sơng Đà cũng vậy, một
vẻ đẹp khiến người đọc phải ngỡ ngàng.
Ham thích xê dịch, tơn thờ cái đẹp độc đáo như một thứ tôn giáo, cả cuộc đời
Nguyễn Tuân say mê tìm kiếm cái đẹp mn màu của thiên nhiên, cuộc sống, con
người. Trong hành trình khám phá bất tận ấy, Nguyễn Tuân đã gặp sông Đà như
một mối dun kì ngộ… Bởi sơng Đà mang vẻ trong mình vẻ đẹp lạ thường, vừa
vô cùng hung bạo vừa rất đỗi thơ mộng. Tất cả vẻ đẹp độc đáo, quyến rũ đến mê
hồn của sông Đà đã được Nguyễn Tuân phóng bút trong “Người lái đó sơng Đà” –
một thành quả đẹp mà nhà văn thu hoạch trong chuyến đi gian khổ mà đầy hứng
khởi tới miền Tây Bắc xa xơi. Là người nghệ sĩ suốt đời săn tìm cái đẹp, hứng thú
với những cái phi thường, khác lạ, đối nghịch, trái khốy, Nguyễn Tn khơng chỉ
kì cơng miêu tả vẻ độc đáo của sơng Đà mà cịn say mê đắm đuối vẻ đẹp trữ tình,
thơ mộng của nó. Nhiều lần, Nguyễn Tuân đã đến với sông Đà, bước chân phiêu
lãng của in dấu trên mọi nẻo bến bờ. Mỗi lần đến với dịng sơng là thêm một phát
hiện về vẻ duyên dáng của con sông Tây Bắc.
Từ trên tàu bay nhìn xuống, Nguyễn Tn thấy con sơng Đà tn dài như một áng
tóc trữ tình. Đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban,
hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi mèo đốt nương xuân. Điệp từ tuôn dài
cố nhân. Gương mặt cố nhân sông Đà tươi sáng rực rỡ như một miếng sáng, lóe lên
màu nắng tháng ba: Đường Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Gặp lại cố nhân,
người nghệ sĩ không giấu được niềm hân hoan, háo hức. Chao ôi, trông con sông
vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dần, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.
Chỉ bằng vài nét chấm phá mà diện mạo của cố nhân bỗng hiện lên sống động, tâm
trạng, cảm xúc của người nghệ sĩ cũng chan chứa, tràn khắp câu văn.
Đắm đuối trước vẻ trữ tình thơ mộng của Đà giang trong phong thái của một khách
lãng du, mê đắm, thưởng ngoạn, Nguyễn Tuân đã khám phá ra bao vẻ nên thơ, nên
họa của dịng sơng. Xi về hạ lưu, dịng sơng lững lờ, êm trơi như nhớ thương
Không phải đến “Người lái đị sơng Đà, lần đầu tiên, dịng sông Đà đi vào văn
chương nghệ thuật. Thực ra từ lâu, sông Đà đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào
cho các văn nghệ sĩ. Thế nhưng, chỉ dưới ngòi bút tài hoa, uyên bác của Nguyễn
Tuân, vẻ đẹp hoang dại mà thơ mộng, bí ẩn mà diễm lệ của con sơng Tây Bắc mới
thực sự hiện ra, nổi hình, nổi sắc, mới trẻ nên có thần, có hồn và lay động người
đọc. Khám phá vẻ đẹp sông Đà trong trang văn Nguyễn Tuân, ta mới thêm thấm
thía chân lí nghệ thuật: Thế giới không phải được tạo lập một lần mà mỗi một lần
người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện là một lần thế giới lại được tạo lập”
Nguyễn Tuân là một nhà văn duy mĩ bởi ơng quan niệm cuộc đời hành trình đi tìm
cái đẹp và khẳng định cái đẹp. “Suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp”. Ông là nhà
văn lớn nổi tiếng nhất của Việt Nam thế kỉ XX, là nghệ sĩ tài hoa, độc đáo, giàu
“Người lái đị Sơng Đà” là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến Tây Bắc, đặc
biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là một trong 15 bài tùy bút in trong tập
Sông Đà (1960) - tập tùy bút cho thấy diện mạo của một Nguyễn Tuân đã căn bản
thay đổi để trở thành một nhà văn mới trong thời đại mới.
Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hung vĩ, hiểm nguy
của một dịng sơng lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ
sông, cảnh ghềnh Hát Lóong “nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió”, cảnh những
hút nước rùng rợn; cảnh thác đá gào thét; dịng sơng với biết bao cửa tử cửa sinh…
Cuối đoạn trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của dịng sơng.
Qua làn mây mùa xn, nước sơng Đà xanh màu ngọc bích. Đó là dịng xanh ngọc
bích trong sáng, q giá và êm nhẹ của sơng Đà mùa xn Đó cịn là sự thiên vị
của một niềm yêu khi so sánh với “màu xanh canh hến” của sông Gâm, sông Lô.
Qua ánh nắng mùa thu, nước sơng Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì
rượu bữa. Hình ảnh so sánh nước sơng Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi
vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu
về” đã không chỉ làm hiện lên màu sắc rất đặc trưng của nước sông Đà mùa thu mà
còn thể hiện sức mạnh tiềm tàng, ẩn chứa những đe dọa của một dịng sơng vẫn
mn đời báo ốn, đánh ghen với con người.
Tâm hồn coi sông Đà như một cố nhân. Tác giả tiếp tục bộc lộ những cảm xúc khi
sắp gặp lại dịng sơng, nhìn dịng sơng “thấy loang loáng như đứa trẻ con nghịch
chiếu gương vào mặt mình rồi bỏ chạy” là cái nhìn của của người chưa ra đến cửa
Tản Đà “bọt nước lênh bênh… bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người tình
nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh dịng sơng trở nên quyến rũ, có linh
hồn, giàu sức hút.
Đoạn văn đã sử dụng hình ảnh miêu tả tràn đầy sức sống, gợi lên sự trù phú, tô
điểm thêm cho vẻ đẹp trữ tình của sơng Đà. Sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để
miêu tả. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ
nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.
Sơng Đà hiện ra như một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, vừa là một con sông hung
bạo gây bao khó khăn, nguy hiểm cho con người Tây Bắc, vừa là một dịng sơng
rất đỗi trữ tình, tạo nên nét thơ mộng cho cảnh sắc đất nước, Sông Đà quả là “chất
vàng” của Tây Bắc. Qua hình tượng Sơng Đà, văn phong tài hoa, uyên bác cùng
tình yêu đất nước của Nguyễn Tuân thật sự để lại ấn tượng sâu sắc nơi người đọc.
---Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôi:
Soạn văn 12 ngắn gọn
Tác giả - Tác phẩm Ngữ Văn 12
Phân tích tác phẩm lớp 12