Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử của tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (789.08 KB, 72 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NƠNG QUỐC TOẢN

VAI TRỊ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT
ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN
TỈNH CAO BẰNG

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi

Hà Nội, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được cơng bố trong bất cứ
cơng trình nào.
Tác giả luận văn

NÔNG QUỐC TOẢN


MỤC LỤC



MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XẾT XỬ CUAT TÒA
ÁN NHÂN DÂN . ................................................................................................. 10
1.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân .............................................................. 10
1.2. Những vấn đề lý luận về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động
động xét xử của Tòa án nhân dân . ......................................................................... .19
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG ....................................................... 33
2.1. Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân tại tỉnh Cao Bằng ............................................................................................. 33
2.2. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện vai trò của Viện kiểm sát
nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Cao
Bằng ....................................................................................................................... 38
2.3. Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế. ........................................................ .45
CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG ........................ 51
3.1. Yêu cầu trong việc nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong
hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân . ............................................................ 51
3.2. Giải pháp nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động
xét xử của Tòa án nhân dân.... ............................................................................ 53
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 66


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT


VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKS

Viện kiểm sát

KSV

Kiểm sát viên

TTHS

Tố tụng hình sự

TTDS

Tố tụng dân sự

TTHC

Tố tụng hành chính

HĐXX

Hội đồng xét xử

TAND


Tịa án nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo quy định của pháp luật, ngành kiểm sát nhân dân có hai chức năng
là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân,
góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Trong những năm vừa qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp nói chung và công tác thực hành quyền công tố, kiểm
sát xét xử nói riêng của VKSND được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và
đã có nhiều chỉ đạo sát sao, quyết liệt, cụ thể: Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 01/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ: "Nâng cao chất lượng công tố của
Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người
bào chữa và những người tham gia tố tụng khác…".[3] Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: “Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm
tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Nghị quyết số 49NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
khẳng định: “Trước mắt, viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng
như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp...
tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”. "Nâng cao
chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của
hoạt động tư pháp" [4]. Các chủ trương, quan điểm đó đã được cụ thể hóa
trong Hiến pháp năm 2013, tại khoản 1, Điều 107 và khoản 2, Điều 3 Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 khẳng định: “Viện kiểm sát nhân dân là
cơ quan thực hành quyền công tố…của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
1



Việt Nam” [19]. Nhờ đó, trong những năm qua hoạt động thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, thực hành quyền cơng tố và
kiểm sát xét xử nói riêng của ngành kiểm sát đã đạt được những kết quả nhất
định như: Đã hạn chế tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm, đã phát hiện, khởi tố,
xử lý kịp thời các hành vi phạm tội và tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân góp phần hiệu quả trong cơng
cuộc đấu tranh phịng và chống tội phạm, giữ vững an ninh trật tự, an tồn xã
hội. Bên cạnh đó, thực tiễn cho thấy cơng tác thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử vẫn còn những hạn chế, bất cập như: Một số vụ án truy tố, xét
xử oan, sai hàng chục năm sau mới phát hiện như vụ: Hàn Đức Long, Nguyễn
Thanh Chấn … gây hoang mang, bức xúc trong nhân dân, tình trạng bỏ lọt tội
phạm, chất lượng xét hỏi của KSV cịn hạn chế, KSV chưa làm tốt cơng tác
ch̉n bị cho hoạt động xét xử, chất lượng tranh tụng trong nhiều phiên tòa
hưa thực sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, các vụ án dân sự thường bị kéo
dài, các vụ án hành chính khó xử lý do liên quan đến bị đơn là người có chức
quyền, …
Để xảy ra tình trạng đó cho thấy rằng trong khi thực hiện chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử của Tịa án, khơng phải lúc
nào trách nhiệm và quyền hạn của Viện kiểm sát cũng được thực hiện một
cách đầy đủ và trọn vẹn vì một số lý do như: Một số quy định chưa rõ ràng,
cụ thể; năng lực, trình độ, bản lĩnh của đội ngũ Kiểm sát viên chưa được đồng
đều; quan hệ phối hợp giữ nội bộ ngành Kiểm sát, quan hệ giữa ngành Kiểm
sát và Tòa án nhân dân và với các ban ngành hữu quan khác đôi khi còn bộc
lộ sự bất cập, chưa thực sự tốt do đó dẫn tới nhận thức pháp luật khác nhau.
Từ đó đưa đến hệ quả khơng có sự thống nhất trong quá trình thực hiện những
quy định của pháp luật. Tất cả những nguyên dân đó dẫn đến chất lượng, hiệu
quả trong cơng tác xét xử của Tịa án các cấp chưa thật sự được như mong
2



đợi. Vì vậy, nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về “Vai
trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng”, làm rõ cơ sở lý luận, những trách nhiệm,
quyền hạn của Viện kiểm sát mà Nhà nước đã giao cho; hiệu quả đã đã đạt
được; những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, qua đó tìm ra những bất cập, khó
khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về vị trí,
vai trị, chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân trong hoạt động
thực hành quyền cơng tố và kiểm sát tại Tịa án nhân dân. Trên cơ sở đó đưa
ra các giải pháp khắc phục, đề xuất phương hướng cơ bản hoàn thiện pháp
luật và các giải pháp bảo đảm thực hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân,
đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp. Từng bước hạn chế và tiến tới tránh
oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội trong xét xử các vụ án hình sự; đảm
bảo việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động, hành chính của Tòa án các cấp được kịp thời, đúng quy
định của pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua q trình nghiên cứu, tìm hiểu về vai trị của Viện kiểm sát nhân
dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân trong thời gian qua nhận thấy
đã có một số cơng trình nghiên cứu của các tác giả về vấn đề này, như:
- Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Hồi Nhơn, tỉnh
Bình Định”, của Nguyễn Hữu Phước (2016) [11]. Tác giử đã đề cập đến
một số vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đánh giá thực trạng vấn đề này tại
địa phương huyện Hồi Nhơn, tỉnh Bình Định và đề xuất một số giải pháp
nhằm thực hiện có hiệu quả hơn nội dung này tại địa phương.

3



- Luận văn thạc sỹ Luật hình sự, “Nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố của Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện trong cải cách tư
pháp ở nước ta” của Lương Thúy Hà (2012) [12]. Đã đề cập đến một số vấn
đề lý luận về thực hành quyền công tố của VKSND, pháp luật về thực hành
quyền công tố của VKSND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội và đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố
của VKSND cấp huyện.
- Luận văn Luật học, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi” của
Phan Thị Sa (2018) [13]. Đã làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động thực hành
quyền công tố của VKSND trong hoạt động xét xử vụ án hình sự ở nước ta.
Từ đó đánh giá thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự tại VKSND huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong thời
gian qua và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác thực hành
quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của VKSND
huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.
- Luận văn Luật học, “Vị trí, vai trị và chức năng của Viện kiểm sát

trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” của Lê Văn Thắng (2012)
[14]. Đã nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận chung về vị trí, vai trò
của VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, đồng thời đi sâu nghiên cứu
những quy định pháp lý hiện hành có liên quan đến vị trí, vai trị của VKS
trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm. Thực trạng về VKS, phân tích các
số liệu thực tế của VKSND thành phố Hà Nội về hoạt động của VKS trong
giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm để minh hoạ cho những vấn đề mà luận
văn nghiên cứu.
- Đề tài khoa học cấp tỉnh, “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất


lượng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố,
4


kiểm sát điều tra các vụ án hình sự xảy ra trên địa bàn tỉnh Cao Bằng” của
tiến sĩ Lê Minh Long (2020) [26]. Đề tài nghiên cứu đánh giá toàn diện
thực trạng, chất lượng hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân khi thực hành
quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự. Dự báo và đề xuất một
số giải pháp góp phần đảm bảo khách quan khi thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Phân tích
làm rõ khái niệm, dấu hiệu pháp lý và đặc điểm hình sự của tội phạm
Nghiên cứu làm sáng tỏ mặt lý luận về hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra của Viện KSND đối với các vụ án hình sự.
Các cơng trình nghiên cứu trên với những cách tiếp cận khác nhau, đã
làm rõ một số vấn đề liên quan trực tiếp và gián tiếp đến các vấn đề lý luận,
thực tiễn cũng như định hướng, giải pháp giải quyết vấn đề liên quan đến đề
tài. Một số cơng trình nghiên cứu đã tập trung vào nội dung vai trò của
VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại một số địa phương
cụ thể, và đề xuất các giải pháp gắn liền với điều kiện kinh tế, xã hội của địa
phương đó. Các kết quả nêu trên sẽ được tác giả tiếp tục kế thừa có chọn lọc,
vận dụng hợp lý vào các nội dung cụ thể của luận văn. Tuy nhiên, tác giả
nhận thấy, vai trò của VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
cần tiếp tục được làm rõ thêm một số vấn đề, đặc biệt là trong quá trình thực
thi Bộ luật Hình sự 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, cũng như yêu cầu
thực hiện chiến lược cải cách tư pháp hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu về
vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử Tòa án nhân dân
tỉnh Cao Bằng là rất cần thiết, trên cơ sở đó sẽ đưa ra các giải pháp để tiếp tục
tăng cường hoạt động này nhằm đáp ứng được yêu cầu của địa phương và tiến
trình cải cách tư pháp hiện nay.
Từ thực tiễn kiểm sát xét xử các vụ án dân sự, hình sự, hành chính tại địa

bàn tỉnh Cao Bằng cho thấy vẫn đang tồn tại một số vấn đề vướng mắc, bất
5


cập cần được xem xét, ngiên cứu và làm sáng tỏ. Để giải quyết được vấn đề
đó cần có một cơng trình nghiên cứu về vai trị của Viện kiểm sát nhân dân
trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án
nhân dân, phân tích thực trạng thực hành quyền cơng tố và kiểm sát hoạt
động xét xử của Tòa án nhân dân từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân
hai cấp tỉnh Cao Bằng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về vai trò của VKSND
trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử của Tịa án
nhân dân, phân tích thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động xét xử của Tòa án nhân dân từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân
hai cấp tỉnh Cao bằng trong hai năm 2018 và 2019. Cụ thể là vị trí, vai
trị, chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát
hoạt động tư pháp trong việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hơn nhân gia
đình, thương mại, lao động, hành chính và các lĩnh vực khác theo quy
định của pháp luật. Những kết quả cụ thể đã đạt được; những hạn chế, tồn
tại, nguyên nhân… Trên cơ sở đó luận văn sẽ đưa ra những quan điểm,
giải pháp khắc phục những hạn chế, yếu kém, tồn tại để từ đó giúp cho
công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát
nhân nói chung, VKSND tỉnh Cao Bằng nói riêng đạt được hiệu quả cao
hơn nữa trong thời gian tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về vai trị, vị trí, chức
năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố và

kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân.
6


- Đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét
xử các vụ án hình sự; kiểm sát hoạt động giải quyết các vụ, việc dân sự,
hơn nhân gia đình, thương mại, lao động, hành chính và các lĩnh vực khác
theo quy định của pháp luật. Từ đó chỉ ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân
và các giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát xét xử các vụ án hình
sự, dân sự, hành chính và các việc khác của VKSND nhân dân nói chung,
Viện KSND tỉnh Cao Bằng nói riêng trong q trình thực hành quyền cơng tố
và kiểm sát hoạt động xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát hoạt động tư pháp
trong lĩnh vực dân sự, hành chính và các lĩnh vực khác theo quy định của
pháp luật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định của háp luật về vị trí, vai
trị của VKSND trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử
của Tòa án nhân dân từ thực tiễn xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành
chính và các lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật của Tòa án hai cấp
tỉnh Cao Bằng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu công tác thực hành quyền công
tố và kiểm sát xét xử của VKSND cấp huyện và cấp tỉnh trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ án hình sự, dân sự, hành chính theo quy
định của pháp luật.
- Phạm vi về thời gian: Số liệu được sử dụng nghiên cứu được tổng
hợp từ kết quả thống kê, báo cáo công tác ngành kiểm sát Cao Bằng từ năm
2016-2019 và 6 tháng đầu năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
7


Nghiên cứu trên cơ sở của phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác- Lênin và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật, về cải cách tư
pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu và sử dụng ở
mức độ khác nhau trong những nội dung khác nhau như: Phương pháp
phân tích - tổng hợp; Phương pháp luật học so sánh; Phương pháp
nghiên cứu trường hợp điển hình, khảo sát thực tiễn; Phương pháp chuyên
gia; Phương pháp lịch sử.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận văn góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận và quy định pháp
luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự; kiểm
sát giải quyết các vụ, việc dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại và các
việc khác theo quy định của pháp luật từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân
hai cấp tỉnh Cao Bằng. Nhận thức được những kết quả, hạn chế, nguyên nhân
và giải pháp trong việc nâng cao chất lượng cơng tác kiểm sát hoạt động xét
xử của tịa án nhân dân. Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện công
tác này hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho các cơ
quan cấp trên trong việc xây dựng, hoạch định chính sách khi xem xét sửa
đổi, bổ sung các quy định liên quan đến công tác kiểm sát xét xử của
VKSND, là nguồn tư liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ, công chức trong
ngành kiểm sát tỉnh Cao Bằng và các địa phương khác, đặc biệt là đối với đội

ngũ cán bộ, công chức mới được tuyển dụng trong ngành Kiểm sát nhân dân.
8


7. Kết cấu của luận văn
Luận văn có kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân.
Chương 2. Thực trạng thực hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Cao Bằng.
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp nâng cao vai trò của Viện kiểm sát
nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Cao
Bằng.

9


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân
Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013 và Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014, VKSND là
cơ quan có chức năng thực hành quyền cơng tố, kiểm sát hoạt động tư pháp
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.1.1. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong
bộ máy Nhà nước
1.1.1.1. Vị trí của Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nước
Theo Hiến pháp năm 2013, VKSND là cơ quan nằm trong khối các cơ
quan tư pháp, thực hiện hai chức năng chính là thực hành quyền cơng tố và

kiểm sát hoạt động tư pháp trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Theo đó, VKSND là cơ quan Hiến định. Viện trưởng do Quốc hội trực
tiếp bầu ra, nhiệm kỳ của Viện trưởng VKSND tối cao theo nhiệm kỳ của
Quốc hội. Viện trưởng VKSND tối cao phải xây dựng và báo cáo trước Quốc
hội tại các kỳ họp; trong thời gian Quốc hội không họp, Viện trưởng VKSND
Tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Chủ tịch nước khi có yêu cầu. Chế độ báo cáo công tác của Viện trưởng
các Viện kiểm sát khác do luật định. VKSND gồm VKSND tối cao và các
Viện kiểm sát khác do luật định. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức,
nhiệm kỳ của Viện trưởng các Viện kiểm sát khác và của Kiểm sát viên do
luật định.

10


1.1.1.2. Chức năng của Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nước
Trong bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân là
cơ quan có hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp, cụ thể:
Hoạt động thực hành quyền công tố của VKSND trong tố tụng hình sự
chính là việc VKS thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm
tội. Hoạt động này được thực hiện ngay từ khi VKS tiến hành thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố; thực hành quyền công tố và kiểm sát quá trình khởi tố, điều tra,
truy tố; kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.
VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm:
Tất cả các hành vi phạm tội, người phạm tội đều phải được phát hiện, khởi tố,
điều tra và xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Không

để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền cơng
dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm
một cách trái pháp luật. Việc khởi tố, điều tra, truy tố phải kịp thời, khách
quan, tồn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật
trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố phải được phát hiện kịp thời; khắc
phục và xử lý nghiêm minh. Khơng có vùng cấm trong cơng cuộc đấu tranh
và phịng chống tội phạm.
VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố thông qua công
tác thực hành quyền công tố trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố của cơ quan điều tra và cơ quan được giao tiến
hành một số hoạt động điều tra; trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình
sự; trong giai đoạn truy tố tội phạm của VKS và trong giai đoạn xét xử các vụ
án hình sự của Tòa án.
11


1.1.1.3. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
VKSND có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trên phạm vi cả nước.
Ngồi ra, Viện KSND cịn thực hiện một số công tác: Thống kê tội
phạm; xây dựng pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; Đào tạo, bồi dưỡng;
nghiên cứu khoa học; hợp tác quốc tế và các công tác khác để xây dựng
VKSND.
1.1.1.4. Chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự
Ở Việt Nam, từ thời Pháp thuộc, Viện công tố đã được thành lập, mơ
hình này tiếp tục tồn tại sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 trong cơ cấu hệ
thống tổ chức của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Hiến pháp năm

1946 tuy không đề cập đến Viện công tố nhưng trong cơ cấu của Tồ án có
các Cơng tố viên làm nhiệm vụ buộc tội nhân danh Nhà nước trước phiên tồ
trong các vụ án hình sự. Sau ngày hồ bình lập lại ở miền Bắc, Viện cơng tố
được tách ra khỏi Tồ án nhưng trực thuộc Chính phủ và hình thành một hệ
thống cơ quan Nhà nước độc lập với Toà án từ Trung ương tới địa phương.
Hoạt động chủ yếu của Viện công tố vẫn là hoạt động cơng tố trước Tồ án.
Sau này, do u cầu của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là
pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, nên Hiến pháp
năm 1959 đã định ra thêm một loại hình cơ quan Nhà nước mới trong bộ máy
Nhà nước, đó là hệ thống cơ quan Viện kiểm sát. Ngồi chức năng cơng tố,
Viện kiểm sát các cấp còn thực hiện một chức năng thứ hai là kiểm sát việc
tuân theo pháp luật. Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 tuy có sửa đổi
một số quy định về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, nhưng chức năng
12


công tố, vẫn giao cho Viện kiểm sát đảm nhiệm. Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi, bổ sung năm 2002) và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đều khẳng định
VKSND có hai chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp. Như vậy, ở Việt Nam chức năng thực hành quyền
công tố từ trước đến nay vẫn luôn được giao cho Viện kiểm sát thực hiện.
Trong lĩnh vực hình sự, Viện kiểm sát là chủ thể duy nhất được thực
hành quyền công tố.
Chức năng thực hành quyền công tố của VKSND thể hiện việc buộc tội
của Nhà nước đối với người phạm tội trong lĩnh vực hình sự, được thực hiện
ngay từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự.
Các nhà khoa học về lịch sử Nhà nước và pháp luật cũng chỉ ra rằng,
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật không phải chỉ xuất hiện sau

Cách mạng tháng Mười Nga (1917) khi Lênin xây dựng Nhà nước Xô Viết một Nhà nước kiểu mới, mà đã có từ thời Vua Pier Đệ nhất (1772), khi yêu
cầu củng cố quyền lực của nhà Vua, nhu cầu cần có sự quản lý Nhà nước
mạnh mẽ. Viện cơng tố ở Nga được nhìn nhận khơng chỉ là một cấu trúc quản
lý thuận tiện, hợp lý mà trước hết là sức mạnh gắn kết Nhà nước, là nền tảng
cho pháp chế thống nhất, là trật tự pháp luật. Hoạt động chủ yếu của Viện
công tố Nga lúc này là giám sát sự tuân thủ pháp luật trong Nhà nước, cịn
hoạt động buộc tội trước Tồ án chỉ là một trong những chức năng của Viện
công tố.
Khi tiến hành kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, VKS có nhiệm vụ và
quyền hạn kiểm sát việc khởi tố vụ án, kiểm sát các hoạt động điều tra và lập
hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người
13


tham gia tố tụng, áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để loại trừ vi
phạm pháp luật của cơ quan điều tra và những người tiến hành tố tụng, tham
gia tố tụng khác.
1.1.1.5. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử vụ án dân sự, vụ án hành
chính
 Trong hoạt động xét xử các vụ án dân sự
Căn cứ BLTTDS năm 2015, Luật tổ chức VKSND và Quy chế công tác
kiểm sát dân sự, khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết
các vụ việc dân sự Viện kiểm sát nhân dân có các nhiệm vụ, quyền hạn sau:
Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc
dân sự, VKSND có các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu;
2. Kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự;
3. Kiểm sát việc Tòa án xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ; yêu cầu

Tòa án xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự hoặc tự mình xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho
việc thực hiện quyền kháng nghị;
4. Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ hoặc không áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án;
5. Kiểm sát kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai
chứng cứ và hịa giải;
6. Nghiên cứu hồ sơ vụ việc;
7. Tham gia phiên tòa, phiên họp; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa, phiên họp, người tham gia tố
tụng tại phiên tòa, phiên họp; phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải
quyết vụ việc tại phiên tòa, phiên họp;
14


8. Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án;
9. Yêu cầu Tòa án cùng cấp hoặc cấp dưới chuyển hồ sơ vụ việc dân sự
để xem xét, quyết định việc kháng nghị;
10. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án,
quyết định của Tòa án theo quy định của pháp luật;
11. Yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự hoãn thi hành bản án, quyết định
của Tòa án để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm;
quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án khi thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm;
12. Tiếp nhận, giải quyết đơn đề nghị, thông báo, kiến nghị xem xét lại
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm, thủ tục đặc biệt;
13. Kiến nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân (HĐTP TAND) tối cao theo thủ tục đặc biệt;

14. Kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các
hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật; kiến nghị Tòa án khắc phục vi
phạm trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ
chức, người có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi
phạm pháp luật; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục và áp dụng
các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước và thực
hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị khác theo quy định của pháp luật;
15. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc giải quyết
vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật.
 Trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính
Luật TTHC năm 2015 quy định VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng
hành chính. Trong tố tụng hành chính, mặc dù VKSND khơng thực hành
15


quyền công tố, song vẫn nhân danh quyền lực Nhà nước thực hiện chức năng
"kiểm sát hoạt động tư pháp"; cụ thể là kiểm sát tính hợp pháp của các hành
vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tố tụng hành chính, bảo
đảm mọi vi phạm pháp luật trong tố tụng hành chính phải được phát hiện, xử
lý kịp thời, nghiêm minh. Chính vai trị này phân định rất rõ vị trí pháp lý của
VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng; không phải là người tham gia tố tụng.
Quy định VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng đã được khẳng định gần 20
năm nay vẫn phát huy tác dụng, mang lại hiệu quả cao, không làm ảnh hưởng
đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án, đương sự và
người tham gia tố tụng khác. Vì vậy, để bảo đảm vị trí độc lập, hiến định của
VKSND; thực hiện nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm sát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện quyền tư pháp, cần thiết phải giữ nguyên địa vị
pháp lý của VKSND như quy định hiện hành (là cơ quan tiến hành tố tụng
trong tố tụng hành chính).
Trong tố tụng hành chính, VKSND tham gia tố tụng với chức năng kiểm

sát việc tuân theo pháp luật trong q trình giải quyết vụ án hành chính và
được quy định tại Điều 23 Luật TTHC. Và đây được xem là một trong những
nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng hành chính. Theo đó, một trong
những nội dung quan trọng của nguyên tắc này thể hiện: "Viện kiểm sát nhân
dân... tham gia các phiên toà, phiên họp của Tồ án”. Như vậy, qua quy định
trên thì tại các phiên tòa xét xử sơ thẩm, phiên tòa xét xử phúc thẩm, phiên
tòa giám đốc thẩm, phiên tòa tái thẩm, và tại các phiên họp của Tòa án về việc
giải quyết các vụ án hành chính phải có sự tham gia của Kiểm sát viên . Nội
dung cơ bản của nguyên tắc này đã được Luật TTHC quy định chi tiết tại các
chương liên quan. Về sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên tòa cấp sơ thẩm
và phiên tòa cấp phúc thẩm được quy định tại Điều 130 và Điều 194 Luật
TTHC. Theo đó, cả hai điều luật đều quy định:
16


"1. Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân cơng
có nhiệm vụ tham gia phiên tồ, nếu vắng mặt thì Hội đồng xét xử quyết định
hỗn phiên tồ và thơng báo cho Viện trưởng Viện kiếm sát cùng cấp, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt hoặc khơng thể tiếp tục tham gia
phiên tồ, nhưng có Kiểm sát viên dự khuyết tham gia phiên toà từ đầu thì người
này được thay thế Kiểm sát viên vắng mặt tham gia phiên toà xét xử vụ án”
Theo quy định tại hai điều luật này thì tại phiên tịa cấp sơ thẩm và
phiên tòa cấp phúc thẩm, Kiểm sát viên phải tham dự phiên tòa. Viện trưởng
VKSND cùng cấp phải có trách nhiệm phân cơng Kiểm sát viên tham dự. Vì
một lý do nào đó, Kiểm sát viên khơng tham dự đuợc phiên tịa thì Hội đồng
xét xử phải ra quyết định hỗn phiên tịa căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 136
Luật TTHC và việc hỗn phiên tịa này phải được thông báo cho VKSND
cùng cấp biết. Tuy nhiên, nếu như có Kiểm sát viên dự khuyết thay thế tham
dự phiên tịa ngay từ đầu thì phiên tịa có thể vẫn tiếp tục được xét xử nếu như

Kiểm sát viên vắng mặt hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa.
Đối với việc xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, Tòa án
cấp trên giúp Tòa án cấp dưới thấy được những sai lầm, thiếu sót trong hoạt
động xét xử đối với những vụ án cụ thể và sửa chữa những sai lầm, khuyết
điểm đó, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các đương sự. Do tính chất đặc biệt
của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nên trong số các chủ thể được quyền
kháng

nghị

theo

thủ

tục

này

thuộc

về thẩm

quyền

của

Viện

trưởng VKSNDTC và Viện trưởng VKSND cấp tỉnh. Bên cạnh đó, tại các
phiên tịa giám đốc thẩm và tái thẩm theo quy định chung tại Điều 220 Luật

TTHC thì phải có sự tham gia của Kiểm sát viên cùng cấp.
Về sự tham gia của Kiểm sát viên tại các phiên họp của Tòa án về việc
giải quyết vụ án hành chính đã được Luật TTHC quy định cụ thể. Theo quy
17


định tại khoản 3 Điều 207 Luật TTHC thì tại các phiên họp của Hội đồng xét
xử phúc thẩm xem xét đối với các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị thì Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham
gia phiên họp phúc thẩm và phát biểu ý kiến về việc giải quyết kháng cáo,
kháng nghị trước khi Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định. Tương tự, tại
phiên họp xem xét lại các quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao theo thủ tục đặc biệt quy định tại Chương XV cùa Luật TTHC
cũng phải có sự tham dự của Viện trưởng VKSNDTC.
Qua việc phân tích các điều luật nêu trên, có thể khẳng định rằng tại các
phiên tòa cấp sơ thẩm, phúc thẩm, phiên tòa giám đốc, tái thẩm, phiên họp
của Tòa án giải quyết vụ án hành chính... thì bắt buộc phải có sự tham dự của
Kiểm sát viên. Tuy nhiên, những quy định của pháp luật tố tụng hành chính
về sự có mặt của kiểm sát viên tại các phiên tòa chưa chặt chẽ dẫn đến việc áp
dụng pháp luật trong thực tiên sẽ nhiều khó khăn.
Viện kiểm sát với chức năng kiểm sát việc tn theo pháp luật trong tố
tụng hành chính góp phần giúp cho hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án,
đương sự được diễn ra theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Vì
vậy, Luật TTHC năm 2015 tiếp tục dành một số điều khoản quy định về vấn
đề này, trong đó chủ yếu tập trung tại Chương VI về chứng cứ, chứng minh.
Đối với việc xác minh và thu thập chứng cứ, khoản 6 Điều 84 Luật TTHC
năm 2015 kế thừa quy định trước đây của Luật TTHC năm 2010 khi quy định
“Viện kiểm sát có quyền u cầu Tịa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ
trong quá trình giải quyết vụ án. Trường hợp kháng nghị bản án hoặc quyết
định của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì Viện

kiểm sát có thể xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc
kháng nghị”; bên cạnh đó, việc kiểm sát hoạt động thu thập chứng cứ, chứng
minh có những điểm mới sau:
18


Thứ nhất, đối với hoạt động trưng cầu giám định và yêu cầu giám định,
khoản 5 Điều 89 Luật TTHC năm 2015 đã bổ sung quy định Viện trưởng
VKSND tối cao được quyền yêu cầu giám định lại trong trường hợp đặc biệt.
Thứ hai, Luật TTHC năm 2015 đã có sự quy định cụ thể, rõ ràng và chi
tiết hơn giúp cho Tịa án thuận lợi trong cơng tác xử lý các hành vi có dấu
hiệu vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án hành chính được
kịp thời, đúng pháp luật.
1.2. Những vấn đề lý luận về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong
hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân
1.2.1. Cơ sở chính trị và cơ sở pháp lý về vai trị của Viện kiểm sát
nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân
1.2.1.1. Trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự
Đối với việc xét xử các vụ án hình sự, VKS có chức năng thực hành
quyền công tố, kiểm sát xét xử nhằm bảo đảm việc truy tố, xét xử đúng người,
đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Không để xảy ra oan, sai hay bỏ lọt tội
phạm.
Thực chất giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn tố
tụng hình sự tiếp theo giai đoạn truy tố, đây là giai đoạn bao gồm hai phần
cơ bản chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên tịa. Quy chế cơng tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự khẳng định, tùy theo tính chất
và nội dung vụ án mà VKS phối hợp với Tòa án để chuẩn bị các nội dung
sau: phương án giải quyết; thời gian, địa điểm xét xử; những người cần
triệu tập đến phiên tịa; thơng tin về sức khoẻ, tâm lý của bị can, bị cáo;
việc tuyên truyền và những vấn đề khác có liên quan đến việc xét xử vụ án.

Đối với vụ án phức tạp, thì có thể mời lãnh đạo các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng và một số cơ quan hữu quan khác tham dự.

19


Đối với việc xét xử các vụ án hình sự, VKS có chức năng thực hành
quyền cơng tố, kiểm sát xét xử nhằm bảo đảm việc truy tố, xét xử đúng người,
đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Không để xảy ra oan, sai hay bỏ lọt tội
phạm.
VKSND các cấp có trách nhiệm thực hành quyền cơng tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp tại địa phương, địa bàn do mình quản lý. Viện kiểm sát
quân sự các cấp thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
theo địa bàn do đơn vị mình quản lý theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự và Luật Tổ chức VKSND.
1.2.1.2. Trong hoạt động xét xử các vụ án dân sự, hành chính
Để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đảm bảo pháp luật được
thực hiện nghiêm minh, Hiến pháp và pháp luật đã quy định cụ thể Viện kiểm
sát có quyền tham gia các phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự, và
phát biểu ý kiến; thẩm quyền kháng nghị bán án, quyết định của Tịa án có vi
phạm pháp luật theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và xác minh,
thu thập tài liệu, chứng cứ.
Như vậy, khi Tòa án thực hiện hoạt động xét xử, VKSND là cơ quan có
trách nhiệm thực hành quyền cơng tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động xét xử của Tịa án, góp phần bảo đảm việc xét xử đúng pháp
luật nghiêm minh và kịp thời.
Khi xét xử các vụ án hình sự, các nhân hay pháp nhân chỉ bị coi là có tội
nếu đã bị Tịa án xét xử tuyên có tội và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật.
Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát
nhằm góp phần tạo căn cứ, đề ra hướng xử lý cho việc xét xử, ban hành bản

án và các quyết định tố tụng của Tịa án các cấp. Đồng thời, đó cũng là là căn
cứ pháp lý để Cơ quan thi hành án tiến hành hoạt động thi hành án cả về dân
sự và hình sự, làm cho việc thi hành bản án nhanh, gọn, có hiệu quả nhất.
20


Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án
(sau đây viết tắt là kiểm sát xét xử) là một nội dung quan trọng thuộc chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp - một trong 02 chức năng Hiến định của
VKSND. Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm sát xét xử, VKSND có trách nhiệm
trực tiếp giám sát mọi hoạt động tố tụng của Tòa án (với tư cách là cơ quan
tiến hành tố tụng), Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Thư ký tòa án (với tư cách là những người tiến hành tố tụng) và những người
tham gia tố tụng; phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật, áp dụng những biện
pháp do pháp luật quy định nhằm bảo đảm cho mọi hoạt động của các chủ thể
trong quá trình tiến hành tố tụng tuân theo đúng quy định của pháp luật.
Để bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất, cần
phải có sự kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước nói chung và
việc thực hiện quyền lực tư pháp nói riêng. Trong các hình thức giỏm sát việc
thực hiện quyền lực tư pháp thì hình thức giám sát của VKSND qua thực hiện
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp (trong đó có nội dung kiểm sát đối với
hoạt động xột xử của Tịa án), là hình thức giám sát nhân danh quyền lực nhà
nước. Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất được pháp luật quy định có trách
nhiệm tham gia vào tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng, kể cả tố tụng
hình sự, dân sự, hành chính, do vậy có điều kiện để phát hiện ra các vi phạm
của các chủ thể trong quá trình tiến hành tố tụng, đồng thời có quyền áp dụng
các biện pháp do luật định để khắc phục kịp thời các vi phạm này. Đây cũng
là trách nhiệm, quyền hạn của Viện kiểm sát.
Theo quy định của pháp luật, Tòa án cấp trên có quyền thẩm tra những
bản án, quyết định của Tịa án cấp dưới và hủy bỏ bản án, quyết định của Tịa

án cấp dưới trong trường hợp có vi phạm pháp luật hoặc khơng có cơ sở đúng
đắn - đây là cơ chế kiểm sốt nội bộ trong ngành Tịa án nhằm bảo đảm cho
các chủ thể thuộc hệ thống Tòa án thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo
21


×