Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo từ thực tiễn tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NÔNG THỊ MINH TRẦM

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHẠM NHÂN TRONG HOẠT
ĐỘNG KIỂM SÁT GIAM GIỮ, CẢI TẠO TỪ THỰC TIỄN
TỈNH CAO BẰNG

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Công Giao

Hà Nội - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Các tài liệu và
số liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn
chính xác.
Luận văn này được thực hiện một cách độc lập dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS. Vũ Công Giao.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Người cam đoan

Nông Thị Minh Trầm




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CỦA PHẠM NHÂN TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT GIAM GIỮ,
CẢI TẠO .......................................................................................................................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc bảo đảm quyền của phạm nhân ................... 8
1.2. Hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo và ý nghĩa của nó với việc bảo đảm quyền
của phạm nhân................................................................................................................. 15
1.3. Bảo đảm quyền của phạm nhân trong pháp luật quốc tế ......................................... 18
1.4. Bảo đảm quyền của phạm nhân qua hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo theo
quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam ............................................................ 22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHẠM NHÂN
TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT GIAM GIỮ, CẢI TẠO Ở TỈNH CAO
BẰNG ............................................................................................................................. 29
2.1. Khái quát về cơ sở giam giữ, cải tạo và tình hình phạm nhân chấp hành hình
phạt tại tỉnh Cao Bằng ..................................................................................................... 29
2.2. Kết quả và hạn chế trong việcbảo đảm quyền của phạm nhân qua hoạt động
kiểm sát giam giữ, cải tạo của Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Cao Bằng ........................ 36
2.3. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra ................................................................... 50
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM,GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHẠM
NHÂN TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT GIAM GIỮ, CẢI TẠO, TỪ THỰC
TIỄN TỈNH CAO BẰNG ............................................................................................. 58
3.1.Quan điểm về bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam
giữ, cải tạo, từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng .......................................................................... 58
3.2. Giải pháp bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ,
cải tạo, từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng .................................................................................. 61
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 75



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

THAHS

Thi hành án hình sự

KSV

Kiểm sát viên

VKSND

Viện Kiểm sát Nhân dân


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang


2.1

Bảng phân loại phạm nhân theo tội danh của Trại tạm

31

giam Công an tỉnh Cao Bằng, từ năm 2015 - 2019
2.2

Bảng phân loại phạm nhân theo giới tính của Trại tạm

33

giam Cơng an tỉnh Cao Bằng, từ năm 2015 - 2019
2.3

Bảng phân loại phạm nhân theo trình độ học vấn của Trại
tạm giam Cơng an tỉnh Cao Bằng, từ năm 2015 - 2019

35


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân quyền (quyền con người) là vấn đề hiện thu hút sự quan tâm lớn
của toàn nhân loại.Tất cả các quốc gia văn minh đều nỗ lực thúc đẩy và bảo
vệ nhân quyền. Là thành viên của hơn 10 điều ước quốc tế về quyền con
người, Việt Nam luôn cố gắng thực hiện các cam kết của mình, chủ động hợp
tác với các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong nhiều hoạt động bảo đảm

quyền con người.
Thực tiễn bảo đảm quyền con người ở nước ta trong thời gian qua cho
thấy, việc này cần phải thực hiện trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt trong
những lĩnh vực nhạy cảm mà các quyền con người dễ bị vi phạm như hoạt
động thi hành án phạt tù thì càng phải được chú trọng. Thực tế ở nước ta cũng
cho thấy, cần phải tăng cường kiểm sát việc thi hành án phạt tù (kiểm sát
giam giữ, cải tạo) để bảo đảm quyền con người của phạm nhân tại các cơ sở
giam giữ luôn được tôn trọng và bảo vệ một cách hiệu quả.
Ở Việt Nam, Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) là cơ quan tư pháp độc
lập có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Tại Điều 25 Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã khẳng định: “Viện Kiểm sát
Nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tịa án, cơ quan thi hành án
hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự,
người có thẩm quyền, cơ quan, tổ chức, các nhân có liên quan trong việc thi
hành án hình sự”.Trong các hoạt động kiểm sát tư pháp thì hoạt động kiểm
sát thi hành án phạt tù tại các trại giam có ý nghĩa đặc biệt, vì kết quả của q
trình này có ảnh hưởng trực tiếp và to lớn đến việc bảo vệ quyền của một
nhóm người rất dễ bị tổn thương, đó là những người bị tước tự do vì vi phạm
pháp luật.
1


Trong thời gian qua, công tác kiểm sát thi hành án phạt tù của ngành
kiểm sát nói chung và của VKSND tỉnh Cao Bằng nói riêng đã đạt được
nhiều kết quả tốt đẹp, góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phạm
nhân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động kiểm sát thi
hành án phạt tù tại VKSND tỉnh Cao Bằng cũng đang bộc lộ nhiều hạn chế
nhất định ảnh hưởng đến việc bảo đảm các quyền của phạm nhân. Mặc dù
công tác kiểm sát được thực hiện thường xuyên nhưng vẫn còn thiếu chiều
sâu. Kỹ năng của KSV trong việc phát hiện, xử lý vi phạm của cơ quan thi

hành án cũng còn hạn chế bởi nhiều ngun nhân khác nhau. Chính vì vậy,
học viên quyết định lựa chọn đề tài: “Bảo đảm quyền của phạm nhân trong
hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng” để thực
hiện luận văn thạc sỹ của mình, với mong muốn góp phần hoàn thiện thêm cơ
sở lý luận và thực tiễn về việc bảo đảm quyền của phạm nhân trên phạm vi cả
nước nói chung và tại tỉnh Cao Bằng nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam, quyền của phạm nhân là đề tài dành được sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều cơ quan, tổ chức cá nhân. Chính vì vậy mà trong thời
gian qua đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này đã được thực
hiện và cơng bố, trong đó có thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu như:
-“Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và
thực tiễn” của GS.TS. Võ Khánh Vinh và PGS.TS. Nguyễn Mạnh Kháng;
-"Quyền con người trong thế giới hiện đại"- đề tài khoa học cấp nhà
nướcĐề tài KX 07-16, năm 1995 do GS Hoàng Văn Hảo và GS Phạm Ích
Khiêm đồng chủ nhiệm;
-“Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người”, do Nguyễn
Đăng Dung, Vũ Công Giao, La Khánh Tùng (đồng chủ biên) NXB ĐHQG
Hà Nội, 2010, tái bản năm 2011, 2015;
2


-“Luật nhân quyền quốc tế: Những vấn đề cơ bản” Vũ Công Giao, Lã
Khánh Tùng, NXB Lao động - xã hội, 2011;
-“Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự” Nguyễn
Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Lê Văn Cảm, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng
(đồng chủ biên), NXB ĐHQG Hà Nội, 2011;
- “Một số kiến nghị để hồn thiện pháp luật thi hành án hình sự Việt
Nam nhằm bảo vệ quyền con người của người chấp hành án phạt tù” của
Nguyễn Thị Lan đăng trên Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội số

3/2015;
-Luận án Tiến sĩ Luật học: “Giáo dục phạm nhân trong các trại giam ở
Việt Nam” của Ngô Văn Trù, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
2015;
-Luận văn thạc sĩ Luật học: “Vai trò của VKSND trong việc bảo vệ
quyền con người – thực tiễn VKSND huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng”
của Vũ Thị Hồng, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2018;
-Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Bảo đảm quyền của phạm nhân từ thực
tiễn Tổng cục VIII, Bộ Cơng an” của Hồng Hữu Duy, Học viện Khoa học xã
hội, 2015;
-Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền
công dân – qua thực tiễn tại Viện Kiểm sát Nhân dân huyện Vụ Bản, tỉnh Nam
Định” của Trần Hoàng Nhung, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội,
2015;…
Các cơng trình nghiên cứu kể trên đã phân tích vấn đề bảo đảm quyền
con người, quyền của phạm nhân dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Những
cơng trình đó đã cung cấp một lượng tri thức, thông tin lớn – là nguồn tư liệu
tham khảo quý báu cho việc thực hiện luận văn này.
Tuy nhiên, kể từ khi Quốc Hội thông qua Bộ luật Hình sự năm 2015
(sửa đổi và bổ sung năm 2017), Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và Luật thi
hành án hình sự năm 2019, mới chỉ có rất ít đề tài nghiên cứu về bảo đảm
3


quyền của phạm nhân mà cập nhật những quy định của các văn bản pháp luật
mới đã nêu. Đặc biệt là vấn đề bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt
động kiểm sát giam giữ, cải tạo của VKSND. Ngoài ra, chưa có cơng trình
nghiên cứu nào về vấn đề này ở địa bàn tỉnh Cao Bằng. Vì vậy, luận văn này
vẫn có tính cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, luận văn
này vẫn có tính cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo
đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo của
VKSND; đánh giá thực tiễn bảo đảm quyền của phạm nhân tại VKSND tỉnh
Cao Bằng; từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát
giam giữ, cải tạo để đảm bảo quyền cho phạm nhân ở địa bàn nghiên cứu.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn xác định những
nhiệm vụ nghiên cứu cần thực hiện gồm:
-Nghiên cứu cơ sở lý luận về bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt
động kiểm sát giam giữ, cải tạo. Cụ thể là phân tích khái niệm quyền con
người, quyền của phạm nhân; đặc điểm, các quyền cơ bản của phạm nhân cần
được bảo đảm; các hoạt động chính của VKSND trong kiểm sát giam giữ, cải
tạo và ý nghĩa của nó đối với việc bảo đảm quyền cho phạm nhân,…
-Khảo sát, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt
động kiểm sát của VKSND tỉnh Cao Bằng trong khoảng 5 năm gần đây, qua
đó chỉ ra được những ưu điểm, hạn chế, và lý giải nguyên nhân của thực
trạng đó.

4


-Đề xuất được các quan điểm, giải pháp để nâng cao chất lượng kiểm sát
hoạt động giam giữ, cải tạo của VKSND nhằm đảm bảo quyền cho phạm
nhân từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng bảo đảm quyền của phạm
nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo của VKSND tỉnh Cao Bằng.

4.2.Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Về mặt nội dung, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề bảo đảm
quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo của
VKSND, không mở rộng đến các hoạt động kiểm sát khác của VKSND, cũng
như những hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng khác.
Về mặt không gian, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về thực trạng bảo
đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo tại tỉnh
Cao Bằng, không mở rộng đến các địa phương khác.
Về mặt thời gian, luận văn chỉ khảo sát, phân tích thực trạng thực thi
pháp luật về bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam
giữ, cải tạo tại VKSND tỉnh Cao Bằng trong thời gian từ năm 2015 (khi Bộ
luật TTHS mới được thông qua) đến năm 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt
Nam về quyền con người và bảo đảm quyền con người.

5


5.2.Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã kết hợp sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh được sử dụng để làm rõ các
vấn đề lý luận và nội dung trong quy định của luật pháp quốc tế, pháp luật
Việt Nam về bảo đảm quyền của phạm nhân nói chung và trong hoạt động
kiểm sát giam giữ, cải tạo nói riêng.
- Phương pháp quan sát thực tế và trao đổi ý kiến với những chuyên
gia, cán bộ, kiểm sát viên có kinh nghiệm thực tiễn, để tìm ra những khó

khăn, vướng mắc trong việc bảo đảm quyền của phạm nhân nói chung và
trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo nói riêng ở tỉnh Cao Bằng, từ đó
đưa ra các giải pháp sát với thực tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu về bảo đảm quyền của phạm nhân
trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo ở một địa phương là tỉnh Cao
Bằng, vì vậy cung cấp nhiều kiến thức, thông tin về đề tài nghiên cứu cho
VKSND và các cơ quan nhà nước khác ở tỉnh này mà có liên quan đến việc
bảo đảm quyền của phạm nhân nói chung.
Bên cạnh đó, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
VKSND các địa phương khác, góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động
kiểm sát giam giữ, cải tạo nhằm bảo đảm quyền của phạm nhân của toàn
ngành kiểm sát trong thời gian tới.
Ngoài ra, luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
những cơ sở học thuật trong việc giảng dạy, nghiên cứu về vấn đề quyền con
người.

6


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận, pháp luật về bảo đảm quyền của phạm
nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động
kiểm sát giam giữ, cải tạo ở tỉnh Cao Bằng.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm quyền của phạm nhân trong
hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo, từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng.


7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CỦA PHẠM NHÂN TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT
GIAM GIỮ, CẢI TẠO
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc bảo đảm quyền của phạm nhân
1.1.1.Khái niệm và đặc điểm quyền của phạm nhân
Cho tới nay, vẫn chưa có một văn bản pháp lý nào đưa ra định nghĩa cụ
thể về quyền của phạm nhân. Do đó, để có thể hiểu quyền của phạm nhân là
gì, trước hết cần phải biết phạm nhân là ai và họ có đặc điểm gì khác so với
cơng dân bình thường.
Thứ nhất, về khái niệm phạm nhân
Theo từ điển tiếng Việt, phạm nhân là:“Người có tội, người bị xử án và
đang ở tù”[47,tr.34]. Cịn trong Từ điển Luật học, khái niệm phạm nhân
được hiểu theo hai nghĩa.Theo nghĩa rộng, phạm nhân là người đã bị Tịa án
tun là có tội phải chịu hình phạt và bản án đã có hiệu lực pháp luật. Theo
nghĩa hẹp, phạm nhân là người phạm tội đã bị Tòa án kết án hình phạt tù
nhưng đang được cải tạo trong các trại giam, hoặc là người bị kết án tử hình
nhưng chưa thi hành.
Tại khoản 1, 2 Điều 3 Luật THAHS năm 2019 quy định, người chấp
hành án là người bị kết án, phải chịu hình phạt theo bản án, quyết định của
Tịa án có hiệu lực pháp luật và đã có quyết định thi hành, cịn phạm nhân là
người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn và tù chung thân.
Từ những định nghĩa nêu trên, có thể thấy có hai dấu hiệu cơ bản để
phân biệt phạm nhân với những đối tượng khác, đó là: Phạm nhân là người đã
thực hiện hành vi phạm tội theo quy định của pháp luật và hành vi đó đã bị
kết án bằng một bản án có hiệu lực pháp luật (đây là yếu tố để phân biệt
8



phạm nhân đối với người bị tạm giữ hoặc tạm giam); Phạm nhân phải là đối
tượng đang chấp hành án phạt tù tại các cơ sở giam giữ, không bao gồm
người phạm tội bị xử phạt bằng hình thức phạt tiền, phạt cải tạo khơng giam
giữ,....
Từ những phân tích như trên, có thể đưa ra một định nghĩa chung như
sau:“Phạm nhân là người thực hiện hành vi phạm tội, đã bị tịa án kết án
phạt tù có thời hạn, tù chung thân và đang chấp hành án tại các cơ sở giam
giữ”.
Thứ hai,về khái niệm “Quyền”
Khái niệm quyền trong khoa học pháp lí dùng để chỉ những điều mà
pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tổ chức mà theo
đó cá nhân, tổ chức được hưởng, được làm, được địi hỏi mà khơng bị chủ thể
nào ngăn cản, hạn chế một cách tuỳ tiện. Dấu hiệu đặc trưng thứ nhất của
quyền, theo nghĩa là một thuật ngữ pháp lý, là phải có sự ghi nhận trong pháp
luật và được bảo đảm thực hiện bởi các quy định của pháp luật. Dấu hiệu thứ
hai là phải có sự thừa nhận về mặt xã hội, gắn liền với chủ thể cá nhân, được
thể hiện cụ thể trong thực tế đời sống thông qua các quan hệ xã hội cụ thể của
cá nhân trong một cộng đồng nhất định.
Thứ ba, về khái niệm quyền con người và quyền của phạm nhân
Quan niệm về quyền con người đã được nhiều nhà tư tưởng bàn đến từ
thời cổ đại và không ngừng được phát triển, bổ sung cùng với quá trình phát
triển của lịch sử nhân loại. Ở Việt Nam, bên cạnh thuật ngữ "quyền con
người”, cịn có thuật ngữ "nhân quyền”. Cả hai thuật ngữ này đều bắt nguồn
từ thuật ngữ tiếng Anh "Human rights” (dịch trực tiếp sang tiếng Việt là
quyền con người; còn dịch qua Hán - Việt là nhân quyền). Theo Đại Từ điển
tiếng Việt, quyền con người và nhân quyền là hai từ đồng nghĩa [28, tr6].

9



Theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lenin, vấn đề quyền con người về
bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội. Quyền con người là những
giá trị đặc thù chỉ con người mới có, với tư cách là con người, là thành viên
xã hội loài người [13, tr.14]. Theo quan điểm Mác-xít, quyền con người
khơng phải chỉ là phép cộng đơn giản của hai mặt tự nhiên và xã hội, mà có
những thuộc tính phức tạp thể hiện sự thống nhất giữa hai mặt đối lập.
Trên phạm vi quốc tế, theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp
quốc về quyền con người,“Quyền con người là những bảo đảm pháp lý tồn
cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động
hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do
cơ bản của con người” [28, tr.22].
Quyền con người từ lâu đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện chính trị,
pháp lý của nhiều quốc gia. Ví dụ, trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm
1776 đã ghi nhận:“Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền được bình đẳng,
tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được, trong đó có
quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”.Trong Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của Pháp năm 1791, các quyền con người và quyền cơng
dân cũng được khẳng định và cụ thể hố thành các quyền cụ thể.
Ở Việt Nam, vấn đề quyền con người từ lâu đã được phản ánh trong
nhiều văn kiện chính trị, pháp lý của Đảng và Nhà nước. Theo Từ điển Luật
học “Quyền con người là các quyền tất yếu mà con người phải được hưởng
và các quốc gia phải tơn trọng” [12, tr.338]. Cũng có một định nghĩa khác
được sử dụng khá phổ biến, theo đó, quyền con người được xem là những
năng lực và nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người, với tư cách là thành viên
cộng đồng nhân loại, được thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp lý quốc tế.

10



Từ những định nghĩa nêu trên, có thể hiểu: “Quyền con người là những
nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người, được ghi
nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế”.
Quyền con người là những giá trị tự nhiên, vốn có, thuộc về tất cả mọi
thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt về bất kỳ yếu tố nào.
Mặc dù vậy, theo quy định của pháp luật, đối với những người thực hiện hành
vi phạm tội sẽ bị xử phạt bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hình
phạt tù (gồm tù có thời hạn và tù chung thân). Việc họ trở thành phạm nhân
đồng nghĩa với việc tư cách pháp lý của họ sẽ thay đổi so với một cơng dân
bình thường. Điều đó thể hiện rất rõ nét ở việc phạm nhân bị tước hoặc bị hạn
chế một số quyền cơ bản như: tự do hội họp, tự do đi lại, tự do cư trú, quyền
ứng cử…Tuy nhiên, hạn chế đó khơng có nghĩa là họ mất hết các quyền con
người, cũng như khơng cịn tư cách chủ thể của quyền con người. Trong thời
gian chấp hành án, phạm nhân vẫn được hưởng các quyền cơ bản như quyền
được sống, quyền lao động, học tập...Nói cách khác, phạm nhân vẫn là con
người, do vậy họ vẫn được hưởng các quyền nhất định dựa trên đặc điểm,
hoàn cảnh, địa vị của họ. Họ chỉ bị tước hoặc hạn chế một số quyền theo luật
định, để bảo vệ lợi ích cao hơn là sự an toàn của cộng đồng.
Như vậy, từ những phân tích trên, có thể hiểu quyền của phạm nhân
cũng là một phần của các quyền con người nói chung, được pháp luật quy
định và bảo đảm thực hiện cho những người đang chấp hành án phạt tù tại
các cơ sở giam giữ.
1.1.2.Khái niệm và ý nghĩa của việc bảo đảm quyền của phạm nhân
Quyền con người mang bản chất tự nhiên, bẩm sinh, vốn có, tất cả mọi
người sinh ra đều được hưởng những quyền con người cơ bản như quyền
được sống, quyền được tự do ăn, mặc,… Tuy nhiên, trong nhiều hồn cảnh,
bản thân mỗi con người khơng thể tự mình bảo đảm quyền của mình. Con
11



người chỉ có thể được hưởng quyền một cách trọn vẹn khi xã hội, pháp luật
ghi nhận và có cơ chế để bảo vệ các quyền của họ. Đối với các phạm nhân
cũng vậy, quyền của phạm nhân sẽ chỉ là nhu cầu và khả năng ở dạng tiềm
năng mà khơng thể trở thành hiện thực nếu như khơng có các điều kiện để
bảo đảm thực hiện.
Theo Từ điển tiếng Việt, “bảo đảm” có nghĩa là “làm cho chắc, thực
hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết”[48, Tr.24]. Quá
trình bảo đảm bất kỳ một điều gì, trong đó bao gồm bảo đảm quyền của phạm
nhân, đều chịu sự tác động của những yếu tố khách quan và chủ quan, ví dụ
như yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật.. đặc biệt là pháp luật - yếu tố
do nhà nước tạo lập và tổ chức thực hiện. Như vậy, trong thực tế, bảo đảm
quyền của phạm nhân về cơ bản chính là việc nhà nước sử dụng cơng cụ pháp
luật và tồn bộ thiết chế của mình để tạo điều kiện thực hiện và chống lại sự
xâm hại đến các quyền của nhóm đối tượng này.
Trong các yếu tố bảo đảm đã nêu trên thì pháp luật là yếu tố cơ bản,
đóng vai trị quan trọng nhất, bởi lẽ pháp luật là hệ thống các quy tắc cư xử
do nhà nước ban hành và bắt buộc tất cả các chủ thể trong xã hội phải tuân
thủ. Khi các quyền của phạm nhân được pháp luật ghi nhận thành các điều
luật cụ thể thì tất cả các chủ thể có liên quan đều phải chấp hành nghiêm
chỉnh, nếu như chủ thể nào làm trái với những ngun tắc đó thì sẽ bị xử lý
bằng những chế tài nhất định. Do vậy, pháp luật là yếu tố khơng thể thiếu để
hiện thực hố các quyền của phạm nhân.
Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật đã ghi nhận những quyền cơ bản của
phạm nhân, trong đó thể hiện rõ nét nhất qua các quy định về quyền con
người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013, và đặc biệt là quy định về
quyền của phạm nhân trong Luật THAHS năm 2019, BLHS và BLTTHS.

12



Một yếu tố nữa cũng có vai trị quan trọng trong việc bảo đảm quyền của
phạm nhân chính là các chủ thể có nghĩa vụ/trách nhiệm quản lý phạm nhân.
Có khá nhiều chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật cùng với phạm
nhân, tuy nhiên chủ thể tiếp cận gần nhất và có tần suất cao nhất với các
phạm nhân chính là giám thị tại các cơ sở giam giữ, cải tạo. Theo quy định
của pháp luật thì giám thị có nghĩa vụ theo dõi, giám sát việc cải tạo, rèn
luyện của các phạm nhân trong quá trình chấp hành án. Chính vì vậy, quyền
của phạm nhân có được bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật hay không
phụ thuộc rất lớn vào việc chấp hành pháp luật và đạo đức của các giám thị
trại giam. Bên cạnh giám thị cịn có nhiều chủ thể khác cũng có vai trị quan
trọng trong việc bảo đảm quyền của phạm nhân như VKSND, các tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,…
Trong q trình cải tạo phạm nhân vẫn phải thực hiện các hoạt động
sống cơ bản của con người như ăn, mặc, ngủ, khám chữa bệnh, lao động,…do
đó, chất lượng của cơ sở vật chất như phòng giam, thức ăn hàng ngày, thuốc
men,…cũng là những yếu tố quyết định đến việc bảo đảm một số quyền của
phạm nhân theo quy định của pháp luật. Yếu tố này có mối liên hệ chặt chẽ
đối với hai yếu tố đã nêu trên, tức là hệ thống pháp luật và con người. Nếu cơ
sở vật chất tốt, phù hợp với quy định của pháp luật và các chủ thể có liên
quan có trách nhiệm cao thì quyền của phạm nhân sẽ được bảo đảm một cách
toàn diện và đầy đủ. Ngược lại, dù bất kỳ yếu tố nào trong số các yếu tố đã
nêu có chất lượng kém thì quyền của phạm nhân đều sẽ không được bảo đảm
trong thực tế.
Như vậy, từ những phân tích ở trên, có thể hiểu “Bảo đảm quyền của
phạm nhân là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, pháp
lý để phạm nhân thực hiện được các quyền của họ mà đã được pháp luật ghi
nhận”.


13


Bảo đảm quyền của phạm nhân có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao
chất lượng, hiệu quả của việc giáo dục, cải tạo phạm nhân. Thực tế cho thấy
chỉ khi các quyền của họ được bảo đảm, phạm nhân mới yên tâm chấp hành
án, nỗ lực cải tạo, học tập, rèn luyện để trở thành người tốt. Mỗi khi có một
quyền của phạm nhân bị vi phạm đều có thể xảy ra những rủi ro trong việc
quản lý phạm nhân, chẳng hạn như khiến cho phạm nhân phản kháng, hoặc
làm cho họ trở nên lười biếng, bất cần, thiếu tích cực trong lao động, cải tạo.
Như vậy, có thể nói rằng, hiệu quả bảo đảm quyền của phạm nhân tỷ lệ thuận
với những thành tựu, kết quả trong hoạt động của các cơ sở giam giữ.
1.1.3. Các quyền của phạm nhân cần được bảo đảm
Trong thời gian chấp hành án phạt tù, phạm nhân bị hạn chế một số
quyền, nhưng vẫn được hưởng các quyền cơ bản khác của con người. Thực
tiễn cơng tác thi hành án hình sự cho thấy, việc hiểu rõ phạm nhân bị hạn chế
những quyền gì và vẫn được hưởng những quyền gì có ý nghĩa cực kì quan
trọng đối với cơ quan thi hành án. Nó khơng chỉ dừng lại ở mức độ nhận
thức, mà còn thể hiện trong việc vận dụng các quy định của pháp luật trong
công tác quản lý, giáo dục phạm nhân. Đồng thời, nhận thức về quyền của
phạm nhân còn là cơ sở để tiến hành các biện pháp quản lý, ngăn chặn, xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật.
Từ các quy định có liên quan của luật nhân quyền quốc tế và pháp luật
tố tụng hình sự của Việt Nam,có thể khái quát các quyền cơ bản của phạm
nhân cần được bảo đảm thành các nhóm như sau:
- Nhóm quyền được bảo vệ an tồn về thân thể, tơn trọng nhân phẩm:
Nhóm quyền này gồm các quyền cụ thể như: quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, danh dự, nhân phẩm; quyền bình đẳng trước pháp luật; quyền được
bảo vệ khỏi các hành động tra tấn, đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo…Đây là


14


nhóm quyền rất quan trọng và thường bị vi phạm trong quá trình giam giữ, vì
vậy cần phải được các trại giam chú trọng một cách đặc biệt.
- Nhóm quyền được bảo đảm về y tế: Nhóm này bao gồm các quyền
như: quyền được thăm, khám sức khoẻ; quyền được điều trị khi bị ốm, đau,
tai nạn; quyền được bảo đảm các điều kiện vệ sinh, được tiếp cận các dịch vụ
chăm sóc y tế khác… Đây cũng là nhóm quyền rất quan trọng đối với những
người đang trong hoàn cảnh bị giam giữ, bởi lẽ trong bối cảnh đó họ thường
gặp nhiều rủi ro về sức khoẻ.
- Nhóm quyền bảo đảm các điều kiện sống cơ bản, trong đó bao gồm
các quyền như: quyền về nơi ở (nơi giam giữ); quyền được cung cấp khẩu
phần lương thực, thực phẩm thích đáng để duy trì sức khoẻ; quyền được bảo
đảm có lương thực, thực phẩm khơng ơ nhiễm và phù hợp về văn hoá; quyền
được cung cấp các nhu yếu phẩm (chăn, màn, quần áo, đồ vệ sinh…) tối
thiểu. Đây cũng là nhóm quyền quan trọng khác, bởi nó bảo đảm nhu cầu tối
thiểu về ăn, mặc, ở của phạm nhân.
- Nhóm các quyền khác: Nhóm này bao gồm nhiều quyền khác của
phạm nhân, bao gồm quyền được lao động, học văn hố, học nghề; quyền
được thực hành tơn giáo, tín ngưỡng; quyền được liên lạc với bên ngồi;
quyền được người thân thăm gặp; quyền được xét ân xá, đặc xá; quyền được
khiếu nại, tố cáo,…Đây cũng là những quyền không thể thiếu với phạm nhân,
là cơ sở để bảo đảm đời sống bình thường và hài hồ đến mức độ nhất định
của phạm nhân trong môi trường bị tước tự do.
1.2. Hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo và ý nghĩa của nó với việc
bảo đảm quyền của phạm nhân
1.2.1.Hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo của Viện kiểm sát
Theo quy định của Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 thì VKSND
là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước

15


Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến
pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất.
Theo quy định trên,VKSND có hai chức năng cơ bản là thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, trong đó chức năng thứ hai là hoạt
động của Viện KSND để kiểm tra tính hợp pháp của các hành vi, quyết định
của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay
từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
đến việc thi hành án, giải quyết khiếu nại tố cáo trong hoạt động tư pháp.
Hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo cũng là một trong các hoạt động kiểm
sát của VKSND.
Thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định
của Luật THAHS năm 2019 buộc phạm nhân phải chịu sự giam giữ, quản lý,
giáo dục, cải tạo tại trại giam để trở thành người có ích cho xã hội. Như vậy,
có thể thấy kiểm sát thi hành án phạt tù hay kiểm sát giam giữ, cải tạo chính
là một. Kiểm sát thi hành án phạt tù (kiểm sát giam giữ, cải tạo) là hoạt động
của VKSND trong việc áp dụng các biện pháp do pháp luật quy định để kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và các cơ quan quản lý, thi hành án
hình sự, trong đó bao gồm các cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm
trong việc thi hành án phạt tù, nhằm bảo đảm việc thi hành án phạt tù được
thực hiện đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời.
Đối tượng của công tác kiểm sát giam giữ, cải tạo là việc tuân theo pháp
luật của Tòa án, cơ quan quản lý, thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức được
giao nhiệm vụ thi hành án hình sự và cá nhân có trách nhiệm trong thi hành
án phạt tù.

16


Phạm vi công tác kiểm sát thi hành án phạt tù bắt đầu từ khi bản án của
Tịa án có hiệu lực pháp luật đến khi bản án phạt tù được chấp hành xong,
hoặc người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt tù. Trong quá trình kiểm
sát việc chấp hành pháp luật trong công tác quản lý và giáo dục người chấp
hành án phạt tù, nếu phát hiện có vi phạm của cơ quan, tổ chức thì tùy theo
tính chất, hậu quả, loại vi phạm mà VKSND quyết định áp dụng biện pháp
loại trừ vi phạm, cụ thể như: ra quyết định trả tự do, kháng nghị yêu cầu đình
chỉ thi hành hoặc bãi bỏ quyết định vi phạm, chấm dứt hành vi vi phạm, kiến
nghị khắc phục, phòng ngừa vi phạm, khởi tố hoặc yêu cầu khởi tố về hình
sự. Bằng cách đó, VKSND góp phần khắc phục những sai lầm, khơi phục lại
những quyền, lợi ích hợp pháp không bị pháp luật tước bỏ của người đang
phải chấp hành án.
1.2.2.Ý nghĩa của hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo đối với việc bảo
đảm quyền của phạm nhân
Công tác kiểm sát giam giữ, cải tạo là một trong những chức năng,
nhiệm vụ quan trọng của VKSND trong việc kiểm sát hoạt động tư pháp.
Trong quá trình thực hiện chức năng của mình, VKSND sử dụng các quyền
năng và biện pháp đa dạng để bảo vệ quyền con người của phạm nhân, như:
kháng nghị hoặc kiến nghị các quyết định và hành vi vi phạm pháp luật trong
thi hành án phạt tù; quyết định trả tự do cho người đang chấp hành án phạt tù
khơng có căn cứ và trái pháp luật; khởi tố hoặc yêu cầu cơ quan điều tra khởi
tố về hình sự... Các biện pháp này nhằm bảo đảm trong thi hành án phạt tù,
quyền con người, các quyền và lợi ích hợp pháp của phạm nhân phải được
mọi tổ chức, cá nhân tôn trọng, bảo vệ. Mọi bản án có hiệu lực phải được
thực hiện nghiêm chỉnh, mọi vi phạm pháp luật trong công tác giam giữ, quản
lý phạm nhân phải được kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh.


17


1.3.Bảo vệ quyền của phạm nhân trong pháp luật quốc tế
Vấn đề bảo vệ quyền của phạm nhân rất được quan tâm trong pháp luật
quốc tế. Có nhiều văn kiện của ngành luật này đề cập đến việc bảo vệ các
quyền của phạm nhân, trong đó tiêu biểu như sau:
1.3.1.Tuyên ngôn nhân quyền thế giới 1948
Ngay sau khi Liên hợp quốc (LHQ) được thành lập (ngày 24-10-1945),
công việc soạn thảo một văn kiện về Quyền con người (QCN) đã được Đại
hội đồng (ĐHĐ) LHQ triển khai, giao Ủy ban Nhân quyền trực thuộc LHQ
thực hiện. Sau 2 năm (1947-1948) làm việc khẩn trương của các chuyên gia,
văn kiện đã hoàn thành, đó là bản “Tun ngơn thế giới về quyền con người”
(gọi tắt là Tuyên ngôn). Ngày 10-12-1948, bản Tuyên ngôn được ĐHĐ LHQ
thông qua (Nghị quyết 217A - III).
Tuyên ngơn gồm lời nói đầu và 30 điều. Trong “Lời nói đầu”, Tun
ngơn dẫn ra những tư tưởng tiến bộ của nhân loại và những vấn đề cấp bách
của cộng đồng quốc tế phải ứng phó, gồm: (1) “Tự do, cơng lý và hịa bình”;
(2) Nhu cầu về “quyền tự do ngơn luận, tự do tín ngưỡng, tơn giáo và “thoát
khỏi” sự khốn cùng”; (3) “Quyền con người phải được một chế độ pháp trị
bảo đảm”; (4) Dựa vào Hiến chương LHQ, Tuyên ngôn“tái xác nhận”, xác
định và cam kết tơn trọng, thực thi trên tồn cầu những quyền và tự do căn
bản của con người. Bản Tuyên ngôn này “được xem như một tiêu chuẩn và
mục tiêu chung cho tất cả các quốc gia, dân tộc hướng tới”.
Trong phần nội dung, 30 điều của Tuyên ngôn quy định khá đầy đủ về
các quyền dân sự, chính trị, kinh tế xã hội và văn hóa. Trong đó, về các
quyền dân sự, chính trị, Tun ngơn quy định: “Khơng ai bị phân biệt đối xử
về chủng tộc, màu da, nam nữ, ngơn ngữ, tơn giáo, chính kiến…” (Điều 2);
“Mọi người đều có quyền được sống, tự do, và an tồn thân thể” (Điều 3);
“Không ai bị tra tấn hay bị những hình phạt hoặc những đối xử tàn ác, vơ

18


nhân đạo, làm hạ thấp nhân phẩm” (Điều 5); “Ai cũng có quyền được cơng
nhận là thể nhân trước pháp luật ở bất cứ đâu” (Điều 6); “Mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật” (Điều 7); “Mọi người đều có quyền được hưởng
ngun tắc “suy đốn là vơ tội” (Điều 11); “Khơng ai có thể bị xâm phạm
một cách độc đốn vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín”…Đây là những quyền
và tự do quan trọng, có tác động trực tiếp và gián tiếp đến cuộc sống của tất
cả mọi người, trong đó có những người bị tước tự do.
Cho đến nay, sau Hiến chương LHQ 1945, Tuyên ngôn nhân quyền thế
giới 1948 được xem là văn kiện chính trị đặc biệt, được tất cả quốc gia, dân
tộc trên thế giới, khơng phân biệt chế độ chính trị, hệ tư tưởng, trình độ phát
triển, bản sắc văn hóa thừa nhận và được xem là giá trị chung của nhân loại.
Những tư tưởng chính trị và những quy định về các quyền cơ bản của Tuyên
ngôn được xem là mục tiêu vươn tới của tất cả các quốc gia, dân tộc. Các quy
định của Tuyên ngôn cũng được sử dụng để bảo vệ những nhóm xã hội khác
nhau, trong đó bao gồm các phạm nhân.
1.3.2.Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân năm 1955
Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân là văn kiện được
thông qua tại cuộc họp lần thứ nhất của Liên hợp quốc về ngăn ngừa tội
phạm và đối xử với người phạm tội, tổ chức tại Geneva năm 1955, và được
Hội đồng Kinh tế - Xã hội của Liên hợp quốc phê chuẩn bằng các Nghị quyết
663C ngày 31/7/1957 và 2076 ngày 13/5/1977).
Văn kiện nêu trên ghi nhận một cách cụ thể, rõ ràng những quyền cơ bản
của tù nhân cần được các quốc gia, mà cụ thể là cơ sở giam giữ của các quốc
gia tôn trọng và bảo đảm. Những quy định cơ bản, quan trọng nhất có thể kể
như sau:

19



-Các loại tù nhân khác nhau phải được giam trong các nhà tù hoặc các
khu riêng biệt của nhà tù có tính đến độ tuổi, giới tính, lý lịch phạm tội, lý do
pháp lý của việc giam giữ và những điều cần thiết trong đối xử với họ;
-Mọi nơi ăn chốn ở cho tù nhân và đặc biệt là nơi ngủ phải được đáp
ứng được các yêu cầu về y tế, có chú ý đúng mức đến các điều kiện khí hậu
và đặc biệt là các điều kiện về dung tích khơng khí…;
-Nước uống phải ln sẵn cho mọi tù nhân bất cứ khi nào họ cần;
-Nhục hình, hình phạt bằng cách nhốt vào buồng tối và tấtcả những hình
phạt độc ác, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm với tư cách là những hình
phạt cho các tội vi phạm kỉ luật phải bị cấm hoàn toàn;….
Ngoài ra, Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân còn ghi
nhận, nhà tù và các cơ sở giam giữ khác phải được thanh tra thường xuyên
bởi những thanh tra viên có trình độ và kinh nghiệm do cơ quan có thẩm
quyền chỉ định. Nhiệm vụ của họ là nhằm đảm bảo rằng những cơ sở đó được
quản lý theo các quy định pháp luật hiện hành, nhằm phát huy tác dụng, mục
đích của hình phạt cải tạo.
1.3.3.Những nguyên tắc cơ bản trong việc đối xử với tù nhân năm
1990
Những nguyên tắc cơ bản trong việc đối xử với tù nhân là văn bản pháp
lý được Đại học đồng Liên Hợp quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết
45/111 ngày 14/12/1990. Đây cũng là văn bản quốc tế có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc bảo vệ, tơn trọng những quyền con người của phạm nhân. Có
tất cả 11 nguyên tắc trong văn kiện này, trong đó hai nguyên tắc quan trọng
nhấtđó là:
-Mọi tù nhân phải được đối xử với sự tôn trọng theo đúng nhân phẩm
vốn có và giá trị của họ với tư cách là con người (Nguyên tắc 1);
20



×