Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể từ thực tiễn tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NÔNG THỦY TIÊN

CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TỪ THỰC TIỄN
TỈNH CAO BẰNG
Chuyên ngành

: Chính sách công

Mã số

: 60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Trần Thị An

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả trong luận văn “Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa phi vật thể từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng” là trung thực. Những
ý kiến khoa học trong luận văn chưa được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.


Tác giả luận văn

Nông Thủy Tiên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH VÀ CHÍNH SÁCH VĂN
HÓA PHI VẬT THỂ .................................................................................... 14

1.1. Một số khái niệm .................................................................................. 14
1.2. Chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở
Việt Nam hiện nay ....................................................................................... 20
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT
HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TẠI TỈNH CAO BẰNG............. 24

2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội tỉnh Cao Bằng .. 24
2.2. Thực trạng của việc ban hành và thực hiện chính sách bảo tồn và phát
huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể tại Cao Bằng...................................... 30
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT
HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TỈNH CAO BẰNG ....... 48

3.1. Quan điểm về chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi
vật thể đối với tỉnh Cao Bằng ...................................................................... 48
3.2. Các giải pháp chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi
vật thể tỉnh Cao Bằng .................................................................................. 49
KẾT LUẬN .................................................................................................. 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 65


Phụ lục........................................................................................................... 68


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự phát triển của mỗi đất nước, văn hóa được coi như một nguồn
lực, một nguồn vốn có vai trò quan trọng trong phát triển bền vững. Ở Việt
Nam, nguồn vốn văn hóa được biểu hiện ở hệ thống di sản văn hóa vật thể và
di sản văn hóa phi vật thể. Di sản văn hóa là những gì được sáng tạo trong quá
khứ và truyền lại cho thế hệ sau, là những sáng tạo của cha ông, thể hiện được
chiều sâu của dân tộc, mang tính lịch sử.
Tầm quan trọng của di sản văn hóa được thế giới đặc biệt quan tâm từ
sau Chiến tranh thế giới thứ 2 khi nhiều di sản - bằng chứng của nền văn hóa
trong quá khứ - bị phá hủy và có nguy cơ biến mất hoàn toàn. Tuy nhiên, lúc
ấy thế giới mới chỉ chú ý đến di sản văn hóa vật thể và phải qua một thời gian
khá dài di sản văn hóa phi vật thể mới được quan tâm toàn diện trong chính
sách bảo vệ di sản của thế giới và của các quốc gia. Sự ra đời của chính sách
văn hóa phi vật thể đã thể hiện cam kết mạnh mẽ của các quốc gia phải có
những hành động khẩn trương và mạnh mẽ, đúng đắn để bảo vệ di sản văn
hóa phi vật thể của các quốc gia trên thế giới.
Chính vì vậy, bảo vệ di sản nói chung và di sản văn hóa phi vật thể nói
riêng đang là vấn đề được quan tâm tại rất nhiều quốc gia trên thế giới, trong
đó có Việt Nam.
Với đặc thù là một tỉnh miền núi, điều kiện kinh tế khó khăn, tỉnh Cao
Bằng nằm trong tốp cuối của cả nước về phát triển kinh tế. Chính vì vậy các
chủ trương, chính sách về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể đã
được ban hành nhưng do gặp các rào cản về kinh phí, về chất lượng nguồn
nhân lực và cả nhận thức về văn hóa nên chính sách chưa thực sự được triển

1



khai, các chính sách, đề án, đề tài nghiên cứu đa phần chỉ dừng lại trên trang
giấy, các cuộc hội thảo chưa gắn liền với thực trạng, thực tế cần phát triển.
Do sự đổi mới nhận thức về giá trị và vai trò của di sản văn hóa trong
phát triển, Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng đã ban hành Kế hoạch số
874/QĐ-UBND (ngày 16 tháng 5 năm 2011) về việc Kiểm kê di sản văn hóa
phi vật thể tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2011 – 2015 nội dung chủ yếu là kiểm kê
di sản để từ đó có số liệu cụ thể, có sở cứ khoa học ban hành chính sách cho
phù hợp; Bảo tàng tỉnh đã tham mưu kế hoạch chi tiết thực hiện, thành lập
Ban kiểm kê di sản nhưng do điều kiện về kinh phí hạn hẹp đến nay Cao
Bằng vẫn là một trong hai tỉnh cuối cùng (cùng với tỉnh Thái Bình) chưa triển
khai được. Việc ban hành và thực thi chính sách của địa phương đã dẫn đến
tình trạng một số di sản phi vật thể của cộng đồng nhân dân các dân tộc tỉnh
Cao Bằng ngày một mai một, thậm chí một số di sản đã thất truyền. Thực
trạng này đã đặt ra vấn đề về tính cấp thiết của việc xây dựng chính sách và
triển khai thực hiện chính sách về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật
thể ở tỉnh Cao Bằng hiện nay.
Từ thực tế trên, tác giả luận văn đã chọn đề tài “Chính sách bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng” với
mục đích góp phần để chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể
đi vào cuộc sống, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội tỉnh Cao Bằng phát triển.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa phi vật thể ở nước ngoài
Di sản văn hóa phi vật thể nói riêng và hệ thống di sản văn hóa nói
chung có quá trình hình thành và phát triển lâu đời, gắn bó hữu cơ với đời

2



sống văn hóa, đời sống xã hội của mỗi quốc gia, do con người tạo ra, được kế
thừa, giữ gìn từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) là cuộc chiến tranh gây tổn
thất nặng nề nhất trong lịch sử nhân loại. Không chỉ có nền kinh tế, cơ sở hạ
tầng bị phá hủy mà di sản văn hóa cũng phải gánh chịu sự tàn phá. Nhận thấy
nguy cơ các di sản văn hóa có thể bị hủy diệt, năm 1954, Công ước bảo vệ di
sản văn hóa trong sự kiện xung đột vũ trang (The convention for protection
cultural heritage in event armed conflict) ra đời, thể hiện sự quan tâm của thế
giới đối với vấn đề này. Lời nói đầu của Công ước này đã khẳng định “bảo vệ
di sản văn hóa là điều rất quan trọng đối với tất cả mọi người trên thế giới và
quan trọng là di sản đó phải nhận được sự bảo vệ tầm quốc tế”. Như vậy, đây
là lần đầu tiên vấn đề bảo vệ di sản văn hóa nói chung đã được đặt ra trên
phạm vi thế giới, chủ yếu tập trung vào các tài sản văn hóa bất động (movable
cultural heritage) như: công trình kiến trúc (monuments of architecture), di
chỉ khảo cổ (archaeological sites) (rất gần với phạm trù “di sản văn hóa vật
thể” (tangible cultural heritage) ngày nay. Đến năm 1952, văn hóa dân gian một phạm trù của di sản văn hóa phi vật thể lần đầu tiên được đề cập đến khi
UNESCO phê chuẩn Công ước về quyền tác giả (Copyright Convention). Mối
quan hệ giữa văn hóa dân gian và quyền tác giả được nghiên cứu trong nhiều
năm và có bước tiến nổi bật ở Hội nghị Stockholm năm 1967. Hội nghị này
đã cố gắng tạo ra việc bảo vệ văn hóa dân gian ở mức độ toàn cầu bằng một
Công ước riêng nhưng đã không thành công.
Phải đến 4 năm sau đó, vào năm 1971, tổ chức UNESCO mới có những
bước chuẩn bị đầu tiên cho việc xây dựng văn bản pháp lí về bảo vệ văn hóa
dân gian thông qua văn kiện mang tên “Khả năng thiết lập các văn kiện quốc
tế để bảo vệ văn hóa dân gian” (Posibility establishing international
instrument to protect Folklore). Năm 1989, UNESCO đưa ra văn kiện có tính
3



chất quy phạm quốc tế đầu tiên đó là ‘The recommendation on the
Safeguarding of Traditional Culture and Folklore” (tạm dịch là Khuyến nghị
bảo vệ văn hóa truyền thống và văn hóa dân gian). Như vậy, khả năng được
nói đến trong năm 1971 đã được hiện thực hóa thành một văn kiện chính
thức; phạm vi bảo vệ được mở rộng bao gồm cả văn hóa truyền thống. Năm
1992, một chương trình về di sản văn hóa phi vật thể đã được thiết lập. Năm
1997, chương trình này được UNESCO nâng lên thành chương trình được ưu
tiên hàng đầu trong lĩnh vực văn hóa của UNESCO thể hiện cụ thể ở dự án
mang tên “công bố chính thức kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật
thể của nhân loại”. Điều này đã giúp cho khái niệm “di sản thế giới” được
hoàn thiện hơn khi mà trước đó chỉ được hiểu là di sản thiên nhiên và các di
sản văn hóa vật thể. Đến năm 2003, sau rất nhiều phiên họp thảo luận của
UNESCO, Công ước về di sản văn hóa phi vật thể đã được thông qua; đây là
kết quả của quá trình nhận thức lâu dài, qua đó đã thiết lập được khái niệm
khá toàn diện về di sản văn hóa phi vật thể.
Bên cạnh đó, có thể nhận thấy di sản văn hóa phi vật thể không chỉ
được bảo vệ ở tầm quốc tế mà ở mỗi quốc gia đều có những chính sách bảo vệ
cụ thể.
Tại Nhật Bản, trước thời kì Meiji, hầu hết các tài sản văn hóa được bảo
vệ một cách truyền thống bởi tầng lớp quý tộc, hoàng đế phong kiến. Đến thời
kì Meiji, vấn đề này đã được điều chỉnh bằng pháp luật như “Luật bảo vệ
miếu thờ và đền thờ cổ” (Ancient Temples and Shrines Preservation Law) hay
“Luật bảo vệ kho báu quốc gia” (Nation Treasure Preservation Law). Tuy
nhiên tất cả đều chỉ tập trung vào tài sản văn hóa vật thể. Tài sản văn hóa phi
vật thể lần đầu tiên được công nhận trong “Luật bảo vệ tài sản văn hóa” (Law
for Protection of Cultural Properties) khi Nhật phải đối mặt với sự Âu hóa và
sự hiện đại hóa, nghệ thuật và nghề thủ công truyền thống có nguy cơ bị biến
4



mất. Luật này được sửa đổi bổ sung vào các năm: 1954, 1975 và 2004. Năm
1954, tài sản văn hóa phi vật thể được nhìn nhận một cách toàn diện hơn với
quan niệm là những tài sản có giá trị cao về nghệ thuật và lịch sử thay vì có
nguy cơ bị biến mất. Năm 1975 khi sửa đổi lần thứ 2 đã bổ sung hai phạm trù
“folk- cultural properties” (văn hóa dân gian) và “tranditional conservation
techniques for culture properties” (bảo vệ các kĩ năng truyền thống). Lần sửa
đổi tiếp theo vào năm 2004, phạm trù “kĩ năng nghề thủ công dân gian” (folk
craft techniques) được đưa vào Luật. Như vậy, Luật bảo vệ tài sản văn hóa
của Nhật Bản sau nhiều năm sửa đổi bổ sung đã hoàn thiện dần khái niệm tài
sản văn hóa phi vật thể.
Ở khu vực châu Phi, việc nhận thức và xây dựng Luật bảo vệ di sản
văn hóa muộn hơn. Đây cũng là điều dễ hiểu bởi châu Phi là khu vực bị duy
trì chế độ thuộc địa lâu nhất trên thế giới. Phải đến cuối những năm 90 của thế
kỉ XIX, các quốc gia Châu Phi mới giành được độc lập. Sau đó các quốc gia
này mới có điều kiện quan tâm đến việc bảo vệ di sản văn hóa, ví dụ như tại
điều 55 (khoản 1) của Hiến pháp năm 1987 của Cộng hòa Ethiopia đã ghi
nhận: “công dân Ethiopia có nghĩa vụ bảo vệ và trông coi của cải xã hội.
Công dân Ethiopia có nghĩa vụ tham gia cùng nhà nước, cố gắng cùng xã hội
bảo vệ, sưu tầm, giữ gìn các vật thể có tầm quan trọng về lịch sử cũng như
bảo vệ di sản tự nhiên và trông coi các hiện vật (…)”. Tuy nhiên, trong giai
đoạn này, phần lớn các nước Châu Phi mới chỉ nhận thức được việc bảo vệ di
sản văn hóa vật thể, còn di sản văn hóa phi vật thể chỉ có sau khi Công ước về
bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của Liên hợp quốc ra đời năm 2003. Công
ước này có hiệu lực khi nhận được văn kiện phê chuẩn của 30 quốc gia đầu
tiên phê chuẩn vào năm 2003, trong đó có đến 13 quốc gia của Châu Phi.
Một số nước ở châu Âu và châu Mỹ có những cách nhìn nhận khác về
việc bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể. Hà Lan là một quốc gia phát triển ở
5



châu Âu đã từng phê chuẩn và tham gia vào rất nhiều Công ước của
UNESCO hay của Hội đồng châu Âu về bảo vệ di sản văn hóa như Công ước
của UNESCO năm 1972 về bảo vệ văn hóa thế giới và di sản tự nhiên
(Convention on the Protection of World Cultural and Natural Heritage), Công
ước của Hội đồng châu Âu năm 1985 về bảo vệ di sản kiến trúc. Tuy nhiên,
Hà Lan không phê chuẩn Công ước năm 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản
văn hóa phi vật thể. Theo Hà Lan, việc bảo vệ di sản văn phi vật thể không
phải là điều cần được quan tâm, vì nó gây trở ngại cho sự biến đổi vốn là bản
chất của di sản văn hóa phi vật thể. Nhiều chuyên gia của Hà Lan còn nhấn
mạnh rằng di sản văn hóa phi vật thể là hiện tượng sống nên việc thay đổi là
đặc thù đương nhiên. Sự thay đổi khiến cho việc bảo vệ trở nên khó khăn hay
chính xác đó là điều không thể. Do đó không cần có khung pháp lý để bảo vệ
di sản văn hóa phi vật thể. Thay vào đó, việc bảo vệ được thực hành bằng sự
bảo đảm cơ sở hạ tầng mà ở đó di sản văn hóa phi vật thể sẽ được nghiên cứu
và trải nghiệm. Chính phủ đóng vài trò chính trong việc cung cấp quỹ cần
thiết để xây dựng các cơ sở hạ tầng này.
Qua những quan niệm trên có thể rút ra một số nhận xét như sau:
- Hầu hết các khái niệm đều cố gắng liệt kê ra các dạng của di sản văn
hóa phi vật thể như nghệ thuật múa, nhạc, ngôn ngữ, nghề thủ công truyền
thống,… Điểm hạn chế lớn nhất đó là phương pháp này có thể loại trừ một vài
nét văn hóa mà trong tương lai mới được biết đến và công nhận là di sản văn
hóa phi vật thể. Tuy nhiên, ưu điểm của nó là đưa ra biểu hiện cụ thể của di
sản văn hóa phi vật thể một cách rõ ràng, sẽ trả lời được câu hỏi: loại hình mà
chúng ta đang cần bảo vệ cụ thể hiện nay là loại hình nào.
- Các quan niệm trên đều xác định các giá trị nổi bật của di sản văn hóa
phi vật thể đó là: giá trị lịch sử, giá trị nghệ thuật, giá trị học thuật. Những giá
trị ấy là cốt lõi của vấn đề bảo vệ di sản văn hóa. Bảo vệ không chỉ vì sự hiện
6



diện của một loại hình di sản trong hệ thống di sản văn hóa, mà bảo vệ để lưu
giữ những giá trị mà nó đem đến cho cộng đồng. Giá trị ấy là động lực thúc đẩy
mỗi quốc gia có những hành động tích cực bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể.
Việc cụ thể hóa di sản văn hóa phi vật thể là một điều khó khăn bởi nó
không có hình dáng nhất định nhưng có thể thấy con người chính là nơi chứa
đựng những di sản văn hóa đó. Những di sản này không hiện hữu một cách rõ
ràng như một ngôi chùa, hay một công trình kiến trúc mà cần có con người sử
dụng, truyền tải thì người khác mới biết đến sự tồn tại của nó. Nếu những
người cuối cùng lưu giữ di sản đó mất đi thì những di sản ấy cũng sẽ biến
mất. Vì vậy, con người là trung tâm của di sản văn hóa phi vật thể
2.2. Tình hình nghiên cứu chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa phi vật thể ở Việt Nam
Tại Việt Nam mặc dù đến năm 2001 mới có Luật Di sản văn hóa nhưng
việc bảo vệ di sản văn hóa đã được đặt ra trước đó khá lâu. Các bộ Luật thời
trung đại (Quốc triều hình luật - đời Lý; Lê triều hình luật - Luật Hồng Đức,
thời Lê; Hoàng Việt luật lệ - Luật Gia Long, thời Nguyễn) và các bộ sử, chí,
lục thời trung đại (Đại Việt sử kí toàn thư, Lam Sơn thực lục, Việt sử thông
giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí, Gia Định thành thông chí, Đại
Nam thực lục…) có thể thấy, các vị vua phong kiến xưa cũng đã ý thức được
việc phải bảo vệ các di sản văn hóa. Đặc biệt là các công trình kiến trúc tôn
giáo thể hiện sự tôn nghiêm, uy quyền của thần thánh, của nhà vua, được xây
dựng với công sức đóng góp của toàn dân, thể hiện tài năng, trí óc, tâm linh,
tình cảm, niềm tin, hi vọng của các vương triều cũng như cộng đồng nhân dân
được hết sức giữ gìn.
Đến thời kì lịch sử hiện đại, văn bản đầu tiên đề cập đến vấn đề này là
Sắc lệnh số 65/SL ngày 23 ngày 11 năm 1945 của Chính phủ nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa “Ấn định nhiệm vụ của Đông phương bác cổ học viện”. Sắc

7



lệnh khẳng định việc bảo tồn cổ tích là công việc rất quan trọng và rất cần
thiết cho công cuộc kiến thiết nước Việt Nam.
Năm 1958, tại Hội nghị cán bộ văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Những câu tục ngữ, những câu vè, cao dao rất hay là những sáng tác
của quần chúng. Các sáng tác ấy rất hay mà lại ngắn, chứ không “trường
thiên đại hải”, dây cà ra dây muống. Các cán bộ văn hóa cần phải giúp sáng
tác của quần chúng. Những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý” (Hồ Chí
Minh, Về văn hóa văn nghệ, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1972, trang 36). Những
lời nói giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ cách đây hơn nửa thế kỷ đã là
những định hướng đầu tiên về vấn đề bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Đến
năm 2001, lần đầu tiên vấn đề bảo vệ di sản văn hóa được thể chế hóa thành
Luật. Ngày 29/06/2001 Quốc hội nước ta đã ban hành Luật di sản văn hóa,
tiếp đó được sửa đổi bổ sung bởi Luật số 32/2009/QH12 sửa đổi bổ sung một
số điều của Luật di sản văn hóa 2001.
Theo thống kê của Cục Văn hóa cơ sở, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, tổng số lễ hội trong toàn quốc là 7.966, trong đó, 7.039 lễ hội Dân gian
là, 544 lễ hội tôn giáo, 332 lễ hội lịch sử cách mạng, 10 lễ hội du nhập từ
nước ngoài và 40 lễ hội khác. Trong đó, cấp tỉnh quản lý 327 lễ hội, cấp bộ
quản lý 8 lễ hội. Qua số liệu trên có thể thấy, có đến 88,36% số lượng lễ hội
là lễ hội dân gian, nghĩa là thuộc về người dân và do cộng đồng dân cư tại các
làng, xã tổ chức. Thông qua lễ hội, người ta thấy rõ cộng đồng luôn hiện diện,
làm cho lễ hội có chỗ đứng vững chắc, bởi lý do đơn giản là lễ hội truyền
thống hay hiện đại đều do nhân dân tổ chức, tiến hành dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước. Hay nói cách khác, ở
thời đại mới, nhân dân vẫn là cộng đồng tạo ra di sản, bảo vệ di sản như bảo
vệ một truyền thống văn hóa tốt đẹp và mang đậm bản sắc.

8



Tính đến tháng 6 năm 2015, Việt Nam đã có 08 Di sản Văn hóa và
Thiên nhiên Thế giới, 10 Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
được UNESCO công nhận. Nhận thức được vai trò của cộng đồng trong công
tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản thế giới (quy định tại Công ước về
Bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới (Điều 5); Công ước về Bảo vệ
Di sản văn hóa phi vật thể (Điều 2, khoản b Điều 11 và Điều 15) và các văn
bản hướng dẫn, chương trình, mục tiêu chiến lược của UNESCO), những năm
qua, Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động hướng tới cộng đồng.
Tóm lại, có thể nhận thấy so với di sản văn hóa vật thể thì di sản văn
hóa phi vật thể được quan tâm muộn hơn. Phải đến đầu những năm 90 của thế
kỷ XIX vấn đề bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể mới được tổ chức văn hóa –
giáo dục lớn nhất toàn cầu đề cập đến. Từ đó đến nay, UNESCO và các quốc
gia trong đó có Việt Nam đã có hàng loạt các hành động tích cực, khẩn trương
để bảo vệ các di sản văn hóa phi vật thể.
Từ thực tiễn ban hành chính sách bảo tồn văn hóa ở Cao Bằng, có thể
thấy, Cao Bằng đã ban hành một số văn bản chính sách và các kế hoạch hành
động cụ thể. Chương trình số 17- CTr/TU ngày 09 tháng 6 năm 2006 của
Tỉnh uỷ về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống đặc sắc của
Cao Bằng cũng như các văn hiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lần thứ
XVI, XVII, nhất là Đại hội Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lần thứ XVIII đã đánh giá
“Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc được quan tâm;
thực hiện dự án làng văn hóa Tày Khuổi Ky (Đàm Thủy, Trùng Khánh), làng
nghề Phia Chang (Phúc Sen , Quảng Uyên), đề tài nghiên cứu dân ca, dân vũ
của người Sán Chỉ... khôi phục và nâng cao nội dung một số lễ hội”. Văn kiện
Đại hội Tỉnh Đảng bộ khóa XVIII đã nêu rõ “Thực hiện có hiệu quả Nghị
quyết số 33-NQ/TƯ ngày 9 tháng 6 năm 2014 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng (khóa XI) về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
9



ứng yêu cầu phát triển đất nước. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt
đẹp của dân tộc, tiếp tục triển khai Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Cao
Bằng giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn 2030; Bảo vệ, tu bổ, tôn tạo các di tích
văn hóa, lịch sử, tâm linh, kết hợp với gìn giữ và phát huy giá trị cảnh quan
thiên nhiên, các danh lam thắng cảnh; tăng cường quảng bá, xúc tiến du lịch;
Tiếp tục đầu tư Khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Pác Bó, Rừng Trần
Hưng Đạo, khu du lịch thác Bản Giốc trở thành khu du lịch Quốc gia vào năm
2020. Tiếp tục phát triển các lĩnh vực văn hóa, thể thao gắn kết chặt chẽ với
các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội; có cơ chế khuyến khích văn nghệ sỹ,
nghệ nhân phát huy tài năng, năng lực sáng tác, quảng bá văn học, nghệ thuật,
văn hóa dân gian; trọng dụng, tôn vinh trí thức, văn nghệ sỹ, nghệ nhân, chú
trọng bồi dưỡng năng khiếu và tài năng trẻ, nâng cao chất lượng nghệ thuật
chuyên nghiệp, xây dựng và phát triển một số loại hình văn hóa đặc sắc của
tỉnh như Đàn Tính – Hát Then thành lễ hội lớn trong vùng (Văn kiện Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh Cao bằng khóa XVIII nhiệm kỳ 2015-2020 ban hành
tháng 5 năm 2016, Trang 34, Trang 73, 74). Trong định hướng này, các di sản
văn hóa phi vật thể đã được chú trọng giữ gìn và phát huy giá trị.
Qua thực tiễn việc ban hành chính sách cho thấy, tỉnh Cao Bằng đã có
nhìn nhận, định hướng khá rõ nét về di sản văn hóa phi vật thể, bước đầu quan
tâm đến việc phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển của địa phương và đất nước; từ các đề án phục dựng một số nghi lễ, lễ
hội đến quan tâm khả năng, năng lực của các nghệ nhân, giữ gìn và phát huy
giá trị thông qua hình thức bồi dưỡng, đào tạo tài năng trẻ, được tổ chức
chuyên nghiệp và có quy mô rộng lớn.

10


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích
Luận văn đặt mục tiêu nghiên cứu thực tiễn thực hiện chính sách bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể ở Cao Bằng. Từ đó, đề xuất một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách đó ở địa phương.
3.2. Nhiệm vụ
3.2.1. Nhiệm vụ tổng quát
Từ lý thuyết chính sách văn hóa, luận văn sẽ khảo sát thực tiễn ban
hành và triển khai thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa phi vật thể ở Cao
Bằng, chỉ ra những thành công, hạn chế, đề xuất các vấn đề cần hoàn thiện
của chính sách.
3.2.2. Nhiệm vụ cụ thể
- Hệ thống hóa tài liệu lý thuyết về chính sách bảo tồn và phát huy giá
trị di sản văn hóa phi vật thể trên thế giới và cách tiếp cận ở Việt Nam.
- Nghiên cứu tình hình ban hành và thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Cao
Bằng nói riêng.
- Đánh giá mặt đạt được và chưa được của việc ban hành và thực hiện
chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở tỉnh Cao
Bằng, để từ đó đề xuất những kiến nghị chính sách.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể tỉnh
Cao Bằng
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Tỉnh Cao Bằng.
-Thời gian: Từ 2006 đến 2015.

11



5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cách tiếp cận
Luận văn vận dụng cách tiếp cận liên ngành (chính sách công, văn hóa
học, sử học) với các phương pháp cụ thể của phân tích chính sách công (phân
tích chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá
chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách). Lý thuyết chính
sách công được soi sáng qua thực tiễn giúp hoàn thiện các vấn đề về chính
sách chuyên ngành.
5.2. Câu hỏi nghiên cứu
- Những vấn đề lý luận về chính sách đối với Di sản văn hóa phi vật thể
là gì?
- Thực trạng ban hành và thực hiện chính sách đối với Di sản văn hóa
phi vật thể tại tỉnh Cao Bằng hiện nay được thực hiện như thế nào? Có được
kết quả như thế nào so với mục tiêu chính sách đề ra chưa?
- Giải pháp như thế nào nhằm đổi mới, hoàn thiện chính sách về Di sản
văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và nhiều
phương pháp khác.
- Phương pháp định tính: Thực hiện phỏng vấn sâu 50 người gồm: các
cụ cao niên, các nhà nghiên cứu lịch sử - văn hóa Cao Bằng, hội viên Hội Bảo
tồn dân ca tỉnh Cao Bằng, hội viên Hội Di sản văn hóa Cao Bình, cán bộ làm
công tác văn hóa từ cơ sở đến tỉnh, cán bộ bảo tàng tỉnh, chuyên viên văn xã
văn phòng UBND tỉnh.
- Phương pháp xử lý số liệu: Sử dụng phương pháp thống kê.
Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp: Kinh tế học, xã hội học...
- Phương pháp tổng hợp, thu thập số liệu:

12



+ Các văn bản: Nghị quyết, chỉ thị của Đảng; chính sách của Nhà nước
về Di sản văn hóa phi vật thể.
+ Số liệu thứ cấp: Các số liệu về tên, địa chỉ các di sản văn hóa phi vật
thể tại tỉnh Cao Bằng.
+ Số liệu sơ cấp: Tác giả luận văn tự thu thập thông tin qua điều tra
thực tế tại các địa chỉ có di sản, tư liệu tại Bảo tàng tỉnh, Hội Bảo tồn dân ca
tỉnh Cao Bằng và Hội Di sản văn hóa Cao Bình thành phố Cao Bằng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Hệ thống hóa lý thuyết về chính sách đối với Di sản văn hóa phi vật thể.
- Đánh giá mặt đạt được và chưa được thực trạng ban hành và thực hiện
chính sách đối với Di sản văn hóa phi vật thể tại tỉnh Cao Bằng hiện nay.
- Từ thực tiễn đề xuất, khuyến nghị bổ sung, hoàn thiện chính sách bảo
tồn và phát huy giá trị đối với Di sản văn hóa phi vật thể tại tỉnh Cao Bằng để
di sản phi vật thể được phát huy giá trị, tiềm năng vốn có của nó, đưa di sản
văn hóa phi vật thể là nét truyền thống văn hóa đặc sắc của vùng miền, địa
phương đặc biệt là đối với tỉnh Cao Bằng.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn có 3 chương:
Chương 1. Lý luận chung về chính sách và chính sách văn hóa phi vật thể
Chương 2. Thực trạng thực hiện công tác bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa phi vật thể tại tỉnh Cao Bằng
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hóa phi vật thể tỉnh Cao Bằng

13


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH

VÀ CHÍNH SÁCH VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm Chính sách công
Ở các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật ngữ “Chính
sách công” được sử dụng rất phổ biến. Có thể nêu ra một số quan niệm sau:
Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do chính phủ tiến hành
(Peter Aucoin, 1971).
Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của
một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các
mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin, 1978).
Chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay không làm
(Thomas R. Dye, 1984).
Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng
một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân (B. Guy
Peter, 1990).
Chính sách công là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan
lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà
nước hay các quan chức nhà nước đề ra (William N. Dunn, 1992).
Chính sách công bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các
chương trình nhằm đạt được những mục tiêu xã hội (Charle L. Cochran and
Eloise F. Malone, 1995).
Nói cách đơn giản nhất, chính sách công là tổng hợp các hoạt động của
chính phủ/chính quyền, trực tiếp hoặc thông qua tác nhân bởi vì nó có ảnh
hưởng tới đời sống của công dân (B. Guy Peters, 1999).

14


Thuật ngữ chính sách công luôn chỉ những hành động của chính
phủ/chính quyền và những ý định quyết định hành động này; hoặc chính sách

công là kết quả của cuộc đấu tranh trong chính quyền để ai giành được cái gì
(Clarke E. Cochran, et al, 1999).
Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân
hoặc một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề
(James Anderson, 2003).
Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của
chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách
thức và mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng
như các quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những
chương trình (Kraft and Furlong, 2004).
Từ các quan niệm trên (Nguyễn Hữu Hải – Lê Văn Hòa, 2013, Đại
cương Phân tích Chính sách công - sách chuyên khảo, NXB Chính trị Quốc
gia, trang 17, 18) chính sách công có thể được nhìn nhận như sau:
Trước hết, là một chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà
nước, do chính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính
sách nói chung của mỗi nước.
Thứ hai, về mặt kinh tế, chính sách công phản ánh và thể hiện hoạt
động cũng như quản lý đối với khu vực công, phản ánh việc đảm bảo hàng
hóa, dịch vụ công cộng cho nền kinh tế.
Thứ ba, là một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử dụng
để: Khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa, dịch vụ công cho nền
kinh tế, khuyến khích cả với khu vực công và cả với khu vực tư; Quản lý
nguồn lực công một cách hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế,
chính trị, xã hội, môi trường, cả trong ngắn hạn lẫn trong dài hạn. Nói cách
khác chính sách công là một trong những căn cứ đo lường năng lực hoạch
định chính sách, xác định mục tiêu, căn cứ kiểm tra, đánh giá, xác định trách
15


nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công như ngân sách nhà nước, tài sản

công, tài nguyên đất nước.
Từ những phân tích trên cho thấy chính sách công chính là kết quả của
các quyết định của chính phủ, các quyết định này nhằm duy trì tình trạng của
xã hội hoặc giải quyết “các vấn đề của xã hội” trong đó “là các vấn đề kinh tế,
chính trị, văn hóa và xã hội” theo mục tiêu tổng thể của Đảng đã vạch ra từ
trước. Như vậy, chính sách công trong trường hợp của Việt Nam có thể định
nghĩa như sau: “Chính sách công là tập hợp các quyết định chính trị có liên
quan của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp, công cụ
chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác
định” (Đỗ Phú Hải, 2012).
1.1.2. Khái niệm Chính sách văn hóa
Chính sách văn hóa là tổng thể các nguyên tắc hoạt động, các cách thực
hành, các phương pháp quản lý hành chính và phương pháp ngân sách của
Nhà nước dùng làm cơ sở cho các hoạt động văn hóa nghệ thuật (UNESCO).
Chính sách văn hóa có các công cụ khác nhau, gồm: Luật pháp và các
phương pháp hành chính; ngân sách và hệ thống thuế, trong đó các bộ luật,
luật, văn bản pháp quy; cách thức đầu tư từ ngân sách, hệ thống thuế là công
cụ quan trọng nhất để điều hành sự phát triển văn hóa.
Các chính sách văn hóa đều là các thực hành nhà nước dựa trên các
nguồn lực về tài chính, vật lực và nhân lực, trong những điều kiện có thể có
của thời điểm. Các tổ chức văn hóa dựa vào các nguồn lực này mà triển khai
các hoạt động thực thi chính sách.
Trong những hoàn cảnh của Việt Nam, khái niệm chính sách văn hóa
đã được xác định dựa trên các quan niệm về văn hóa, về vai trò của văn hóa
trong phát triển đất nước, xây dựng con người mới của chế độ mới. Trong bối
cảnh nước ta, văn hóa được coi là một lĩnh vực của công tác tư tưởng, văn hóa
16


là một mặt trận, bên cạnh các chức năng đặc thù khác về mặt thẩm mỹ, giải

trí, tái tạo sáng tạo.
Từ đặc điểm này, có thể định nghĩa về chính sách văn hóa: “Chính sách
văn hóa là một hệ thống các nguyên tắc, các thực hành của nhà nước trong
lĩnh vực văn hóa nhằm phát triển và quản lý thực tiễn của đời sống văn hóa
theo những quan điểm phát triển và cách thức quản lý riêng, đáp ứng nhu cầu
phát triển đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân trên cơ sở vận dụng các
điều kiện vật chất và tinh thần sẵn có của xã hội”.
1.1.3. Khái niệm Chính sách Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể
1.1.3.1. Khái niệm văn hóa
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về văn hóa. Trong “Thập kỷ thế giới
vì sự phát triển văn hóa”, ông Phederico Mayor Laragoza nguyên Tổng giám
đốc UNESCO đưa ra khái niệm: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt
động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng
tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị
hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”.
Định nghĩa này rất phù hợp với quan điểm của Hồ Chí Minh nêu ra
cách đó trên 40 năm: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó, tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. (Hồ Chí Minh, Toàn tập,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, H, 1995, tập 3, trang 43)
Trong cuốn “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”, Trần Ngọc Thêm cho
rằng: Văn hoá là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được sáng tạo, tích
17


luỹ trong lịch sử nhờ quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Các giá trị

này được cộng đồng chấp nhận, vận hành trong đời sống xã hội và truyền lại
cho thế hệ sau. Văn hoá thể hiện trình độ phát triển và những đặc tính riêng
của mỗi dân tộc. Từ đó Trần Ngọc Thêm đưa ra định nghĩa như sau: “Văn hóa
là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác với môi
trường tự nhiên và xã hội” (trang 14).
1.1.3.2. Di sản văn hóa
Di sản văn hóa là tài sản do các thế hệ đi trước để lại, có vai trò vô cùng
quan trọng trong diễn trình văn hóa của một dân tộc nói riêng, và hiểu theo nghĩa
rộng là của cả nhân loại nói chung. Phần mở đầu của Luật Di sản văn hóa của
Việt Nam đã viết: "Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò
to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta”.
Luật Di sản văn hóa của Việt Nam tại Điều 1 đã nêu rõ: “Di sản văn
hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm
tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
1.1.3.3. Văn hoá vật thể và Văn hoá phi vật thể
Di sản văn hóa tồn tại dưới hai dạng: di sản văn hóa vật thể và di sản văn
hóa phi vật thể theo quan niệm của UNESCO:
Văn hoá vật thể là các giá trị văn hoá tồn tại một cách hữu hình,
con người có thể nhận biết nó một cách cảm tính, trực tiếp thông qua các
giác quan.
Văn hoá phi vật thể là các giá trị văn hoá tồn tại một cách vô hình, chủ
yếu được ghi nhận trong ký ức của xã hội.

18


Khái niệm di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO sử dụng trong

Công ước quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Di sản văn hóa phi vật
thể được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ
năng và kèm theo đó là những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian
văn hóa có liên quan mà các cộng đồng và các nhóm và trong một số trường
hợp là cá nhân công nhận là một phần di sản văn hóa của họ. Được chuyển
giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật thể được cộng
đồng, các nhóm không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và mối
quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình
thành trong họ ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn
trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người.
Cách chia này cũng chỉ là tương đối. Văn hoá vật thể là vật thể hoá tinh
thần con người, ngược lại, không có thành tố văn hoá tinh thần nào mà không
có yếu tố vật chất. Chẳng hạn, ngôn ngữ là một thành tố thuộc văn hoá phi vật
thể, nhưng bên cạnh nội dung vẫn có vỏ vật chất âm thanh của ngôn từ, v.v...
Trong Luật Di sản văn hóa năm 2013 tại điều 4 đã nêu rõ:
1. Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng
đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch
sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái
tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng,
truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác.
2. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật,
cổ vật, bảo vật quốc gia.
Dù phân loại thế nào chăng nữa, các di sản văn hóa vẫn có những đặc
điểm chung, đó là:
19


- Tính biểu trưng đại diện cho mỗi nền văn hóa của một quốc gia, một
dân tộc;

- Tính lịch sử với những đặc trưng của thời đại và đại diện cho thời đại
sinh ra chúng, nền văn minh và kỹ thuật tái tạo chúng;
- Tính truyền thống lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, không
chỉ bản thân di sản mà cả những giá trị phi vật thể đi cùng với chúng cũng
được truyền sang thế hệ sau bằng mô phỏng, phát triển và sáng tạo mới trên
nền của di sản cũ;
- Tính nhạy cảm, dễ bị ảnh hưởng dưới các tác động khác nhau, dễ
dàng bị hư hỏng, bị phá hủy và bị mai một đi do những tác động khác nhau
của con người, của điều kiện thời tiết, các phản ứng hóa học… Trong quá
trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã sáng tạo và để lại
hàng nghìn di tích có giá trị.
1.2. Chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể
ở Việt Nam hiện nay
Bảo tồn di sản văn hóa là một vấn đề được quan tâm ở Việt Nam trong
những năm gần đây. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em,
mỗi dân tộc đều có những di sản văn hóa tạo nên sự đa dạng và phong phú
trong kho di sản chung của cả nước.
Cách đây 68 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 65, ngày 23
tháng 11 năm 1945 về việc “Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam”. Sắc
lệnh khẳng định quan điểm đúng đắn của Chính phủ đối với vai trò và ý nghĩa
quan trọng của di sản trong công cuộc kiến thiết đất nước.
Tại văn bản số 4739/KG-TƯ ngày 26 tháng 8 năm 1994, Thủ tướng
Chính phủ đã cho phép Bộ Văn hóa thông tin triển khai Chương trình mục
tiêu quốc giá về văn hóa, bao gồm mục tiêu Chống xuống cấp và tôn tạo di
tích, Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể. Chương trình này đã
20


thu được những thành tựu đáng kể trong công cuộc bảo tồn di sản văn hóa
Việt Nam.

Trải qua các giai đoạn lịch sử, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến
công tác bảo tồn và phát huy giá trị Di sản văn hóa của dân tộc. Đặc biệt Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 5 (khóa
VIII) đã ban hành Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết đã khẳng định “Văn hóa
Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên
cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết
quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không
ngừng hoàn thiện mình, văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí
phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc”.
Trong kết luận lần thứ 10 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa
IX) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) những năm
sắp tới và nhiều chủ trương của Đảng có ý nghĩa quan trọng đặc biệt, vừa giải
quyết những vấn đề cấp bách trước mắt vừa có tính định hướng lâu dài xây
dựng và phát triển văn hóa của nước ta đến năm 2020 là nhằm thể chế hóa, cụ
thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Đặc biệt, Luật Di sản Văn hóa được Quốc hội khóa 10, kỳ họp thứ 9
thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2001, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm
2002 là cơ sở pháp lý cao nhất nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa
ở Việt Nam và điều này thể hiện sự quan tâm của Việt Nam đối với việc bảo
vệ các di sản văn hóa, trong đó có di sản văn hóa phi vật thể. Luật Di sản văn
hóa đã dành trọn vẹn chương III, từ điều 17 đến điều 27 để đề cập vấn đề di
sản văn hóa phi vật thể từ trách nhiệm của nhà nước, các cơ quan nhà nước
đến các nguyên tắc bảo vệ và phát huy. Chẳng hạn, Điều 20: “Cơ quan nhà
21


nước có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ di sản
văn hóa phi vật thể ngăn chặn nguy cơ làm sai lệch, bị mai một hoặc thất

truyền”. Hoặc Điều 26: “Nhà nước tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với
nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí
quyết nghề nghiệp có giá trị đặc biệt”.
Năm 2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định lấy ngày 23
tháng 11 hằng năm là “Ngày Di sản văn hóa Việt Nam”.
Trong những năm qua, việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa phi vật thể
ở Việt Nam đã được chú trọng và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Trên phạm
vi toàn quốc, các địa phương đều có chính sách bảo tồn giá trị văn hóa phi vật
thể của địa phương mình.
Trên phạm vi quốc gia, công tác bảo tồn Di sản văn hóa Việt Nam
trong những năm đầu thế kỷ XXI đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng,
phát huy giá trị Di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc, đặc biệt 10 di sản văn
hóa phi vật thể của Việt Nam đã được UNESCO vinh danh, công nhận là di
sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại gồm:
1. Nhã nhạc cung đình Huế, di sản văn hóa thế giới phi vật thể đầu
tiên tại Việt Nam, được công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa
phi vật thể thế giới vào tháng 11 năm 2003, đến năm 2008 được công nhận là
di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
2. Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, được công nhận là
kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể thế giới vào năm 2005, đến
năm 2008 được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
3. Dân ca Quan họ Bắc Ninh, di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại, được công nhận ngày 30 tháng 9 năm 2009.
4. Ca trù là di sản văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp, được
công nhận ngày 01 tháng 10 năm 2009.
22


×