Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ HẢI

TỘI CƯỚP TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ HẢI

TỘI CƯỚP TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Văn Độ

Hà Nội, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: Trần Thị Hải, là tác giả Luận văn cao học Luật, với đề tài “Tội


cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai”.
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là cơng trình nghiên cứu do chính tơi
thực hiện. Luận văn có kế thừa các tư tưởng, kết quả nghiên cứu của những
người đi trước.
Mọi thông tin, số liệu được sử dụng trong Luận văn là trung thực và có
trích dẫn nguồn đầy đủ. Những thơng tin, số liệu mang tính chất cá nhân nếu
được trích dẫn, sử dụng chỉ nhằm mục đích nghiên cứu và học tập, ngồi ra
khơng sử dụng vào bất cứ mục đích nào khác.
Tác giả

Trần Thị Hải


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý Thầy Cô Khoa sau đại
học, Khoa Luật hình sự và tố tụng hình sự Viện hàn lâm khoa học – Khoa học
xã hội Việt Nam - Học viện khoa học xã hội và Quý Thầy Cô đã giảng dạy
trong q trình học tập; bày tỏ lịng cảm ơn sâu sắc đến Thầy Trần Văn Độ đã
động viên, nhiệt tình hướng dẫn trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận
văn; cảm ơn sự giúp đỡ của quý đồng nghiệp Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
trong việc cung cấp tài liệu, góp phần hồn thành đề tài nghiên cứu.
Tuy nhiên, do không tập trung trong thời gian nghiên cứu nên luận văn
khơng tránh khỏi những thiếu sót nhất định nên rất mong nhận được sự góp ý
của Quý Thầy Cô và đồng nghiệp.
Đồng Nai, ngày 01 tháng 8 năm 2020

Trần Thị Hải


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU

Trang
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT

8

HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
1.1 Khái niệm tội cướp tài sản theo luật hình sự Việt Nam.

8

1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản.

11

1.3. Phân biệt tội cướp tài sản với một số tội khác.

19

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỘI

24

CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI

2.1. Thực tiễn định tội đối với tội cướp tài sản.


24

2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt về tội cướp tài sản ở tỉnh Đồng Nai

36

Chương 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP

51

DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng pháp luật về tội cướp tài sản

51

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật vế tội cướp tài sản

53

KẾT LUẬN

66


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự

CTTP
: Cấu thành tội phạm
QHPL
: Quan hệ pháp luật
QHPLHS
: Quan hệ pháp luật hình sự
TAND
: Tòa án nhân dân
TANTC
: Tòa án nhân dân tối cao
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
bảng
2.1: Diễn biến tình hình tội cướp tài sản so với tình hình tội

Trang
37

phạm nói chung trên địa bàn tỉnh Đồng Nai (2015-2019)
2.2: Thống kê hình phạt áp dụng đối với tội cướp tài sản của
Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đồng Nai (2015-2019)

43



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Quan hệ sở hữu tồn tại như một yếu tố khách quan trong xã hội, vì thế
muốn điều chỉnh các quan hệ sở hữu theo hướng có lợi, giai cấp thống trị dùng
pháp luật để ghi nhận và củng cố địa vị của mình trong việc chiếm hữu của cải
vật chất trước giai cấp khác.
Nhóm tội xâm phạm sở hữu được quy định sớm trong pháp luật hình sự
thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng. Bộ Luật hình sự (BLHS) hiện hành
được Quốc hội thông qua năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) đã quy định
cụ thể các tội xâm phạm sở hữu trong đó có tội cướp tài sản, tạo cơ sở pháp lý
cho việc xử lý các hành vi xâm phạm sở hữu của Nhà nước, tổ chức và cá nhân.
Mặc dù tội cướp tài sản đã được hoàn thiện cùng với việc hoàn thiện pháp luật
hình sự, quy định của BLHS về tội cướp tài sản vẫn còn những bất cập, nhận
thức thiếu thống nhất dẫn đến khó khăn nhất định trong thực tiễn áp dụng.
Từ góc độ thực tiễn, tình hình tội cướp tài sản diễn ra khá phổ biến ở
nước ta, không chỉ xâm phạm đến sở hữu, mà còn xâm phạm nghiêm trọng đến
tính mạng, sức khỏe con người.
Đồng Nai là vùng kinh tế trọng điểm phía nam, là nơi tập trung nhiều
khu cơng nghiệp, có diện tích rộng, đơng dân cư, phần lớn là dân nhập cư từ
mọi miền đất nước đến làm ăn, sinh sống, vì thế tội phạm dễ dàng lẩn trốn, tẩu
thốt, gây khó khăn cho cơng tác phòng, chống tội phạm của các cơ quan thực
thi pháp luật, làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, tổ chức và công dân, tác
động xấu đến tâm lý của người dân, làm mất trật tự an toàn xã hội tại địa
phương. Nhất là đối với các loại tội về xâm phạm sở hữu như tội trộm cắp tài
sản, cướp giật tài sản, cướp tài sản... Với diễn biến phức tạp của loại tội phạm
này, mặc dù Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đồng Nai đã nỗ lực nhưng việc xét

1



xử đối với loại tội này vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc định
tội và quyết định hình phạt. Những hạn chế này chưa đánh giá đúng tính chất,
mức độ, hành vi nên dẫn đến việc định tội và quyết định hình phạt khơng chính
xác, làm cho án bị sửa, bị hủy còn tồn tại nhiều.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu về mặt lý luận, phân tích quy định của
BLHS và đánh giá thực tiễn xét xử tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
thời gian qua cho thấy việc giải quyết các vụ án cướp tài sản cịn gặp khó khăn
và có nhiều sai sót xảy ra, đặc biệt là vấn đề định tội danh và quyết định hình
phạt. Để từ đó có những giải pháp nâng cao chất lượng lập pháp cũng như áp
dụng pháp luật về tội phạm này là rất cần thiết, có ý nghĩa rất quan trọng cả về
lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tác giả chọn Đề tài “Tội cướp tài sản từ thực tiễn
tỉnh Đồng Nai”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Trách nhiệm hình sự đối với tội cướp tài sản là vấn đề phức tạp và cần
thiết, mang tính lý luận và thực tiễn của khoa học luật hình sự. Vì vậy, nghiên
cứu về tội cướp tài sản đã nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học,
thực tiễn.
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này: Ở các mức độ, phạm
vi khác nhau như giáo trình, sách chuyên khảo, Luận án tiến sĩ, Luận văn thạc
sĩ, các bài báo khoa học…
Tình hình nghiên cứu đề tài cướp tài sản là vấn đề khó trong thực tiễn áp
dụng pháp luật và chưa được nghiên cứu nhiều. Trong khoa học luật hình sự
tuy đã có một số bài viết về vấn đề này nhưng chủ yếu vẫn ở mức độ một số
bài viết trên các tạp chí khoa học nghiên cứu về một vài khía cạnh của vấn đề
như “Hồn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu”
của Nguyễn Ngọc Anh (Tạp chí Tồ án nhân dân số 1/2009); “Định tội danh
và áp dụng hình phạt” của PGS. TS Trần Văn Độ (Giáo trình Học viện Tòa án,


2


NXB Cơng an nhân dân năm 2019); “Tìm hiểu hình phạt và quyết định hình
phạt trong luật hình sự Việt Nam và Bình luận ” của Đinh Văn Quế (, Nxb
Chính trị quốc gia năm 2006” v.v…Một số ít cơng trình đã viết thành sách:
Nghiên cứu về tội phạm (trong sách Các nghiên cứu chuyên khảo của phần
chung luật hình sự tập IV, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2002) của
TSKH Lê Cảm; Sách chuyên khảo sau đại học, Những vấn đề cơ bản trong
khoa học Luật hình sự, phần chung, chương IV Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
năm 2005 của TSKH.PGS Lê Cảm; Nhiều tội phạm (chương XV, Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam); Lý luận chung về định tội danh của GS.TS Võ Khánh
Vinh, Nxb Khoa học xã hội, năm 2013; Một số Luận án, Luận văn nghiên cứu
của một số tác giả về “Các tội xâm phạm sở hữu theo páp luật hình sữ Việt
Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” của Nguyễn Văn Thanh (Luận án
tiến sĩ luật học) v.v…
Như vậy, Trong khoa học luật hình sự nước ta tội cướp tài sản ít nhiều
đã được nghiên cứu ở các ở các phạm vi và mức độ khác nhau, trong các cơng
trình đã nghiên cứu khái niệm tội cướp tài sản, phân tích các yếu tố cấu thành
tội phạm, phân biệt tội cướp tài sản với một số tội phạm khác, cũng như phân
tích chế tài đối với tội cướp tài sản. Một số cơng trình đã liên hệ khá tốt thực
tiễn...
Tuy nhiên, những nghiên cứu đã nêu đã khá cũ, thiếu cập nhập quy định
cũa BLHS 2015 và thực tiễn áp dụng. Vẫn cịn khá ít cơng trình nghiên cứu về
vấn đền tội cướp tài sản, trên một địa bàn cụ thể; chưa có cơng trình nào nghiên
cứu tội cướp tài sản từ thực tiến tỉnh Đồng Nai.
2 Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là trên cơ sở nghiên cứu những vấn
đề lý luận, phân tích luật và đánh giá thực tiễn về tội cướp tài sản trên địa bàn


3


tỉnh Đồng Nai. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật hình sự
và bảo đảm áp dụng pháp luật về tội phạm này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn đi sâu giải quyết các nhiệm cụ thể
như sau:
1) Nghiên cứu lý luận, đưa ra khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội
cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam.
2 Phân tích các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội
cướp tài sản.
3) Khái quát những lý luận về định tội và áp dụng hình phạt, đánh giá
thực tiễn định tội và áp dụng hình phạt đối với tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh
Đồng Nai từ năm 2015 đến năm 2019.
4) Xác định các yêu cầu và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật
và bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về tội cướp tài
sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn lấy các quan điểm khoa học, các
quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội cướp tài sản và thực tiễn áp
dụng hình phạt đối với tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai làm đối
tượng nghiên cứu của đề tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài luận văn được nghiên cứu tội cướp tài sản dưới góc độ chun
ngành luật hình sự.
Các số liệu phục vụ nghiên cứu được thu thập từ thực tiễn xét xử tội cướp
tài sản từ năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:


4


Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự, về cải
cách tư pháp và phòng chống tội phạm.
Để thực hiện trong Luận văn, tác giả còn sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, nghiên cứu các báo cáo
tổng kết của các cấp Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tỉnh Đồng
Nai để phân tích các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề
tương ứng được nghiên cứu, khảo sát thực tiễn, vụ việc điển hình ... để giải
quyết các nhiệm vụ đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Trong công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam của dân, do dân và vì dân hiện nay, việc nghiên cứu để làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
góp phần bổ sung vào lý luận về quy định của Bộ luật hình sự đối với tội cướp
tài sản. Nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm, xét
xử vụ án đảm bảo tính khách quan đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn làm cho đề tài phong phú hơn hệ thống
luận văn, góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật, nhằm nâng cao chất lượng
giải quyết các vụ án về tội cướp tài sản nói chung và trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
nói riêng.
Ngồi ra, luận văn cịn có cơ sở để đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp
luật hình sự Việt Nam liên quan đến tội cướp tài sản. Qua đó, góp phần nâng
cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, việc bảo vệ các quyền
và tự do dân chủ của công dân, cũng như phòng, chống oan, sai, vi phạm pháp
luật trong giải quyết vụ án hình sự.


5


7. Cấu trúc nội dung của Luận văn gồm ba chương
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội
cướp tài sản.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội cướp tài sản trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật đối với
tội cướp tài sản.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
1.1 Khái niệm tội cướp tài sản theo luật hình sự Việt Nam.
Theo Từ điển tiếng Việt, chiếm đoạt của hành vi cướp tài sản là tài sản
của Nhà nước, của tổ chức, tài sản của công dân. Thực tế cho thấy tài sản đã bị
chiếm đoạt trong tội cướp thường là vật, tiền hoặc giấy tờ trị giá được bằng
tiền, còn quyền tài sản hầu như chưa thấy xảy ra hoặc khó có thể là đối tượng
chiếm đoạt của tội này. Đối với tài sản là vật thì thơng thường bao giờ cũng là
động sản (như tiền, vàng, xe máy…) cũng là đối tượng của tội cướp tài sản.
Chiếm đoạt tài sản của người làm của mình, bằng cách dựa dùng vũ lực, quyền
uy để lấy tài sản của người khác có chủ đích. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, tội
cướp tài sản có tính chất chiếm đoạt là tội xâm phạm sở hữu bằng việc chiếm
đoạt nên trong cấu thành tội phạm của tội này có dấu hiệu chiếm đoạt. Trong
đó, “Chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang

thuộc sự quản lí của người khác vào phạm vi sở hữu của mình”. Do đó, việc
nghiên cứu về yếu tố chiếm đoạt trong tội xâm phạm sở hữu có ý nghĩa quan
trọng trong việc giải quyết các vụ án có liên quan đến tội cướp tài sản.
Theo luật hình sự Việt Nam, tội cướp tài sản là một trong các tội xâm
phạm sở hữu có tính chiếm đoạt được quy định tại Điều 168 chương XVI thuộc
các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự năm năm 2015. Dù được quy định
và xét xử sớm nhưng về lý luận và thực tiễn vẫn cịn có sự nhận thức khác nhau
về hành vi khách quan của tội phạm này được quy định trong luật. Cơ quan có
thẩm quyền cũng chưa kịp thời ban hành văn bản giải thích quy định của luật.
Nên đã có nhiều cách hiểu khác nhau về quy định của luật, nhất là đối với những
người làm công tác áp dụng pháp luật trong các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn
đến việc áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn thiếu chính xác và khơng

7


thống nhất và làm giảm chất lượng xét xử, ảnh hưởng đến cơng tác đấu tranh
phịng ngừa tội cướp tài sản.
Theo quy định tại Điều 168 của Bộ luật hình sự năm 2015 thì: “Người
nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm
cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm
đoạt tài sản…” [22, tr.140].
Quy định trên đã dẫn đến các cách hiểu khác nhau: 1/ “làm cho người bị
tấn cơng lâm vào tình trạng không thể chống cự được hoặc làm tê liệt ý chí
chống cự hay khả năng chống cự của người bị tấn công để người phạm tội thực
hiện việc chiếm đoạt tài sản” là dấu hiệu bắt buộc phải có ở tất cả các hành vi
khách quan được quy định trong điều luật; hay là 2/ hành vi “làm cho người bị
tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể chống cự được” chỉ là kết quả của hành
vi dùng thủ đoạn khác.
Theo chúng tôi, cách hiểu thứ hai hợp lý hơn. Bởi vì, khơng thể lấy năng

lực, ý chí của nạn nhân làm dấu hiệu định tội đối với hành vi của người phạm
tội. Hành vi dùng dao đe dọa cụ già làm tê liệt ý chí để chiếm đoạt tài sản hay
hành vi dùng dao de dọa võ sư nhằm chiếm đoạt tài sản nhưng bị võ sư chống
trả (khơng bị tê liệt ý chí) đều cấu thành tội cướp tài sản.
Theo quy định của BLHS thì:
- Đối với hành vi “dùng vũ lực” là việc dùng sức mạnh thể chất được
hiểu là việc dùng sức mạnh thể chất tác động đến nạn nhân như đấm, đá, bóp
cổ hoặc dùng dao chém, sung bắn…,
- Đối với hành vi “đe dọa dùng vũ lực ngày tức khắc” đó là hành vi cụ
thể của người phạm tội biểu hiện cho người bị tấn cơng hiểu rằng người phạm
tội có thể sử dụng vũ lực (như bắn, chém …) ngay tức khắc nếu người bị tấn
cơng có hành vi cản trở việc chiếm đoạt tài sản của người phạm tội.

8


- Đối với “hành vi khác” làm cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng
khơng thể chống cự, được hiểu là hành vi mà người phạm tội có thể thực hiện
(như cho uống thuốc mê, chuốc rượu, rủ rê sử dụng ma túy cho say…) với mục
đích làm cho người bị tấn công không thể kháng cự để chiếm đoạt tài sản. Đặc
điểm của dạng hành vi này, người phạm tội không tác động bằng sức mạnh vật
chất vào người bị tấn công mà dùng thủ đoạn tinh vi để tác động vào cơ thể,
tinh thần của người bị hại loại bỏ ý chí chống cự và được quy định là dạng hành
vi khách quan thứ ba của tội cướp tài sản [32, tr.14.15].
Quy định tại Điều 168 của Bộ luật hình sự năm 2015 thường được hiểu
là tội cướp tài sản được coi là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện một
trong các hành vi: Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành
vi khác làm cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể chống cự được
nhằm chiếm đoạt tài sản; còn tài sản đã chiếm đoạt được hay chưa không phải
là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này và cũng không phải là dấu hiệu để xác

định thời điểm hoàn thành của tội cướp tài sản. Tức là, hậu quả có xảy ra hay
khơng (có lấy được tài sản hay khơng), giá trị tài sản ít hay nhiều không làm
ảnh hưởng đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội mà chỉ có ý
nghĩa về định khung hình phạt. Vì vậy, trong khoa học luật hình sự có nhiều ý
kiến cho rằng “Cướp tài sản là tội có cấu thành hình thức, vì vậy khơng có giai
đoạn phạm tội chưa đạt”. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử khơng hồn tồn thống
nhất với quan điểm khoa học đó. Đó là trong dạng hành vi thứ 3, hành vi dùng
thủ đoạn khác, nhưng người bị tấn công khơng lâm vào tình trạng khơng chống
cự được, vì vậy không chiếm đoạt được tài sản bị xử lý về tội cướp tài sản (chưa
đạt)
Từ những phân tích trên, căn cứ theo quy định tại Điều 168 của Bộ luật
hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) thì tội cướp tài sản có ba dạng
hành vi khách quan, đó là:

9


1) Hành vi dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản;
2) Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm chiếm đoạt tài sản;
3) Hành vi khác làm cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể
chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.
Theo quy định của Bộ luật hình sự và qua nghiên cứu các giáo trình, tài
liệu về tội cướp tài sản, tác giả nhận thức về tội cướp tài sản như sau: “Tội cướp
tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bằng cách dùng vũ lực,
đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn
cơng lâm vào tình trạng khơng thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản”.
1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản.
Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặt thù
cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Như vậy, cấu thành
tội phạm được coi là khái niệm pháp lý của một loại tội phạm cụ thể, mô tả khái

quát loại tội phạm nhất định trong luật hình sự. Về mặt cấu trúc của tội phạm
có đặc điểm chung là đều có bốn yếu tố cấu thành tội phạm tồn tại không thể
tách rời nhau nhưng có thể phân chia được. Do vậy, có thể cho phép nghiên
cứu độc lập với nhau. Những yếu tố đó theo khoa học luật hình sự Việt Nam
là: Khách thể, khách quan, mặt chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm. Tội cướp
tài sản nếu thiếu một trong bốn yếu tố trên thì sẽ khơng thể cấu thành tội phạm
và đương nhiên sẽ không bị pháp luật trừng trị. Đối với tội cướp tài sản quy
định tại Điều 168 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017),
cũng bao hàm các yếu tố này.
1.2.1. Khách thể của tội phạm.
Khách thể của tội phạm là quyền và lợi ích được pháp luật hình sự bảo
vệ và bị tội phạm xâm hại. Khách thể của tội phạm nói chung được nêu khá bao
quát, rõ ràng tại Điều 1 và khoản 1 Điều 8 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa
đổi bổ sung năm 2017), đó là chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, chế độ

10


xã hội chủ nghĩa, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế
độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
tự do, tài sản, những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Đối với các tội xâm phạm sở hữu, đối tượng tác động là tài sản như vật
có thực, tiền, giấy tờ có trị giá bằng tiền và quyền về tài sản và giá trị đó được
đầu tư sức lao động của con người. Đối tượng là tài sản đang nằm trong khối
tài sản thuộc sở hữu của người khác.
Khách thể của tội cướp tài sản là quyền sở hữu tài sản của nhà nước, cơ
quan, tổ chức, cá nhân và quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức
khỏe của con người. Đối tượng tác động của tội cướp tài sản là tài sản bao gồm

vật, tiền và con người. Do đó, tội cướp tài sản là tội phạm cùng một lúc xâm
phạm hai khách thể chính, nhưng khách thể bị xâm phạm trước là tính mạng,
sức khỏe thơng qua việc xâm phạm đến nhân thân mà người phạm tội xâm
phạm đến quan hệ tài sản (dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản). Nếu khơng
xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe thì người phạm tội cướp tài sản không thể
xâm phạm đến quan hệ tài sản được. Đây cũng là đặc trưng cơ bản của tội cướp
tài sản, nếu chỉ xâm phạm đến một trong hai khách thể xã hội thì chưa phản
ảnh đầy đủ bản chất của tội cướp tài sản. Như vậy, đây cũng là dấu hiệu để
phân biệt tội cướp tài sản với các tội khác xâm phạm sở hữu và các tội mà người
phạm tội có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe nhưng không nhằm chiếm
đoạt tài sản.
Do tội cướp tài sản cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể chính, nên
trong cùng một vụ án có thể có một người bị hại, nhưng cũng có thể có nhiều
người bị hại, có người bị hại chỉ bị xâm phạm đến sở hữu; có người bị hại bị

11


xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ; có người bị hại bị xâm phạm đến cả tài
sản, tính mạng, sức khoẻ.
1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội cướp tài sản được thể hiện ở hành vi chiếm
đoạt tài sản bằng các thủ đoạn được mô tả trong điều luật: Dùng vũ lực; đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc; hoặc các hành vi khác làm cho người bị tấn cơng
lâm vào tình trạng khơng thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Đó là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi gây nguy hiểm và hậu quả, phương tiện, công cụ, hoàn
cảnh, địa điểm phạm tội.
Hành vi dùng vũ lực:
Hành vi dùng vũ lực là hành vi (hành động) mà người phạm tội đã thực

hiện, tác động vào cơ thể của nạn nhân như: Đấm, đá, bóp cổ, trói, bắn, đâm,
chém...[18.tr165]. Hay có thể nói một cách khái quát là hành vi dùng sức mạnh
vật chất nhằm chiếm đoạt tài sản. Hành vi dùng vũ lực được hiểu là dùng sức
mạnh vật chất (có vũ khí hoặc cơng cụ, phương tiện khác) để chủ động tấn công
người quản lý tài sản hoặc người khác; hành động tấn cơng này có khả năng
gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của người bị tấn công và làm cho họ mất
khả năng chống cự lại hoặc công khai để cho người bị tấn cơng biết….
Đối với những vụ cướp tài sản có nhiều người cùng tham gia (đồng
phạm), không nhất thiết tất cả những người tham gia đều phải dùng vũ lực, mà
chỉ cần một hoặc một số người dùng vũ lực, còn những người khác có thể khơng
dùng vũ lực hoặc chỉ đe doạ dùng vũ lực, nhưng tất cả những người cùng tham
gia đều bị coi là dùng vũ lực.
Hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc:
Hành vi đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực là đe dọa dùng ngay tức thì
sức mạnh vật chất như nói trên nếu người bị tấn công không chịu khuất phục

12


để buộc người bị tấn công phải sợ và tin rằng nếu khơng để cho họ lấy tài sản
thì tính mạng, sức khỏe sẽ bị nguy hại. Đe dọa dùng ngay tức khắc thông thường
được kết hợp giữ hành vi sử dụng vũ lực với những thái độ, cử chỉ, lời nói hung
bạo, để tạo cảm giác cho người bị tấn công sợ à tin rằng người phạm tội sẽ dùng
bạo lực ngay tức khắc nếu không giao tài sản. Ví dụ: dí dao vào cổ yêu cầu
người bị hại giao ngay tài sản nếu không sẽ bị đâm ngay lập tức.
Đe doạ dùng vũ lực là chưa dùng vũ lực, nếu người phạm tội vừa đe doạ,
vừa dùng vũ lực, mặc dù việc dùng vũ lực không mạnh mẽ bằng vũ lực mà
người phạm tội đe doạ người bị hại, nhưng vẫn bị coi là đã dùng vũ lực.
Việc xác định thế nào là đe dọa dùng vũ lực khơng khó bằng việc xác
định thế nào là đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc. Ngay tức khắc là ngay lập

tức không chần chừ, khả năng xảy ra là tất yếu nếu người bị hại không giao tài
sản cho người phạm tội. Khả năng này phụ thuộc vào lới nói hoặc hành động
của người phạm tội mà nó tiềm ẩn ngay trong hành vi của người phạm tội. Đe
dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, cũng có nghĩa là nếu người bị hại không giao
tài sản hoặc không để người phạm tội lấy tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện.
Tuy nhiên, vì vũ lực chưa xảy ra nên việc đánh giá người phạm tội có dùng vũ
lực hay không, trong trường hợp người bị hại không giao tài sản lại là một vần
đề phức tạp. Thường người phạm tội không bao giờ nhận là sẽ dùng vũ lực
ngay tức khắc nếu người bị hại không giao tài sản hoặc khơng để người phạm
tội lấy tài sản. Vì vậy để xác định trường hợp người phạm tội đe dọa dùng vũ
lực ngay tức khắc hay khơng, ngồi lời khai của người phạm tội, các cơ quan
tiến hành tố tụng cịn phải căn cứ vào các tình tiết khác của vụ án như:
+ Nội dung và hình thức của hành vi de đọa.
+ Tương quan lực lượng giữa bên đe dọa và bên bị đe dọa.
+ Địa điểm, thời gian, hồn cảnh lúc xảy ra sự việc.
+ Cơng cụ, phương tiện phạm tội người phạm tội sử dụng...

13


Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng khơng thể
chống cự được là hành vi làm cho người bị tấn công tuy biết sự việc đang xảy
ra nhưng khơng có cách nào chống cự được, hoặc tuy khơng bị nguy hại đến
tính mạng, sức khỏe nhưng không thể nhận thức được sự việc đang xảy ra.
Ở dạng hành vi thứ ba này tuy không phải là dùng vũ lực, cũng không
phải là đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng lại làm cho người bị tấn cơng
lâm vào tình trạng khơng thể chống cự được. Để xác định hành vi này, trước
hết phải xuất phát từ phía người bị hại phải là người bị tấn công, nhưng không
phải bị tấn công bởi hành vi dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc
mà bị tấn công bởi hành vi khác. Như vậy, hành vi khác mà nhà làm luật quy

định trong cấu thành trước hết nó phải là hành vi tấn công người bị hại, mức độ
tấn công tới mức người bị hại không thể chống cự được. Chúng đều làm mất
khả năng chống cự của người bị tấn cơng. Ví dụ: Hành vi đầu độc, bỏ thuốc
ngủ hoặc dùng thuốc gây mê…. Thực tiễn xét xử, không chỉ xảy ra trường hợp
người phạm tội cho người bị hại uống thuốc ngủ mà nhiều trường hợp người
phạm tội dùng những thủ đoạn nguy hiểm như xịt Ê te, cho người bị hại uống
thuốc mê, thậm chí cả thuốc độc làm cho người bị hại khơng cịn khả năng
chống cự nhằm chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp, người phạm tội tìm cách
chuốc rượu cho người bị hại uống thật say để chiếm đoạt tài sản cũng cần phải
xác định hành vi này là hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng
khơng thể chống cự được.
Hậu quả của tội phạm:
Đối với tội cướp tài sản hậu quả có xảy ra hay khơng, giá trị tài sản ít
hay nhiều không làm ảnh hưởng đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự người
phạm tội mà là dấu hiệu định khung hình phạt hoặc chỉ là tình tiết để xem xét
khi quyết định hình phạt.

14


Do tội cướp gây thiệt hại cho 2 khách thể chính, cho nên tội cướp tài sản
có thể được coi là tội ghép; hậu quả của tội cướp tài sản có thể là thiệt hại về
tài sản nhưng và những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ. van phong luat su
Nếu hậu quả xảy ra là thiệt hại về tính mạng thì cần phân biệt hai trường
hợp: Trường hợp người phạm tội giết người nhằm chiếm đoạt tài sản thì người
phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: tội giết người và tội cướp
tài sản; nhưng nếu người phạm tội khơng có ý định giết người mà chỉ có ý định
cướp tài sản nhưng người bị hại bị chết do vơ ý thì người phạm tội chỉ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản với tình tiết làm chết người. Trường
hợp sau khi đã cướp tài sản, bị đuổi bắt mà người phạm tội giết người để tẩu

thốt thì cịn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người
Nếu hậu quả xảy ra là thiệt hại về sức khoẻ thì người phạm tội chỉ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản với tình tiết gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác nếu người bị hại có tỷ lệ thương tật từ
11% trở lên.
1.2.3. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội cướp tài sản chỉ có thể là thể nhân, nhưng khơng phải thể
nhân nào cũng có thể trở thành chủ thể của tội phạm khi thực hiện hành vi được
quy định trong Bộ luật hình sự.
Theo Luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội cướp tài sản phải thỏa mãn
hai điều kiện: 1/ ở trong độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều
12 của Bộ luật hình sự năm 2015; 2/ khơng ở trong tình trạng khơng có năng
lực trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 21 của BLHS ở thời điểm phạm tội.
Tội cướp tài sản quy định tại Điều 168 của Bộ luật hình sự là tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. Do đó, theo Điều 12
BLHS chủ thể của tội cướp tài sản là người từ đủ 14 tuổi trở lên.
1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm

15


Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, là thái độ tâm
lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do họ thực hiện,
với hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc đối với khả năng gây ra hậu
quả đó...[18.tr166].
Mặt chủ quan của tội cướp tài sản là những hoạt động tâm lý bên trong
của người phạm tội. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm các dấu hiệu: Lỗi của
người phạm tội là lỗi cố ý, động cơ, mục đích của người phạm tội là chiếm đoạt
tài sản. Do vậy, ý thức chiếm đoạt của người phạm tội phải có trước hoặc trong
khi thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có

hành vi khác. Nếu có hành vi tấn cơng nhưng vì động cơ và mục đích khác chứ
khơng nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng sau đó người bị tấn công bỏ chạy, để lại
tài sản và người có hành vi tấn cơng lấy tài sản đó thì khơng phải là tội cướp
tài sản mà tuỳ vào trường hợp cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự người có
hành vi tấn cơng theo các tội tương ứng, riêng hành vi chiếm đoạt của người có
hành vi tấn cơng có thể là hành vi phạm tội cơng nhiên chiếm đoạt hoặc chiếm
giữ trái phép tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Thực tiễn xét xử cho thấy
hầu hết những trường hợp khi tấn công người phạm tội khơng có ý định chiếm
đoạt tài sản mà vì động cơ mục đích khác như để trả thù, nhưng sau khi đã thực
hiện hành vi tấn công, người bị tấn cơng bỏ chạy để lại tài sản, người có hành
vi tấn cơng lấy tài sản đó đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài
sản. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội về tội cướp tài sản trong
trường hợp này rõ ràng là khơng chính xác.
Đối với trường hợp ngay sau khi giết người, người phạm tội mới thấy tài
sản của nạn nhân nên đã chiếm đoạt tài sản đó, thực tiễn xét xử cho thấy các cơ
quan tiến hành tố tụng cũng đều truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi
chiếm đoạt tài sản này là tội cướp tài sản.

16


Thực tiễn xét xử cũng có nhiều trường hợp tuy lúc đầu người phạm tội
khơng có ý định chiếm đoạt tài sản, nhưng trong quá trình thực hiện hành vi
phạm tội, người phạm tội đã nảy sinh ý định chiếm đoạt và sau đó tiếp tục có
hành vi dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc để chiếm đoạt bằng
được tài sản thì hành vi chiếm đoạt tài sản vẫn bị coi là hành vi phạm tội cướp
tài sản. Khoa học luật hình sự coi trường hợp này là trường hợp “chuyển hoá”
từ tội phạm này sang tội phạm khác (đầu trộm đi cướp). Ví dụ: A, B và C rủ
nhau đến nhà anh D để trộm cắp. Khi cả 03 đang bê chiếc Ti vi ra khỏi nhà, bị
anh D phát hiện lao vào giằng lại chiếc Ti vi thì bị tên B dùng dao thái lan đâm

vào tay anh D một nhát, sau đó chúng tiếp tục bê chiếc Ti vi bỏ chạy.
Mục đích giữ chiếc ti vi sau khi đã trộm cắp nhưng chưa hồn thì bị phát
hiện và bị anh D giằng lại thì người phạm tội đã dùng vũ lực làm cho người bị
tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể chống cự được chuyển hóa thánh tội
cướp tài sản. Tuy nhiên thực tiễn xét xử, việc phân biệt thế nào là hành hung
để tẩu thoát với hành hung để cố tình giữ lại tài sản trong một số trường hợp rất
khó, vì nó xảy ra một cách đan xen liên tiếp với nhau, nhất là đối với tài sản
gọn nhẹ có thể bỏ túi được. Theo quan niệm truyền thống và thực tiễn xét xử
thì được coi là chuyển hố từ tội phạm khác sang tội cướp tài sản nếu người
phạm tội đã có tài sản trong tay, bị chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản giằng
giật lại tài sản mà người phạm tội cố tình dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực
ngay tức khắc để giữ bằng được tài sản đã chiếm đoạt; đối với tài sản gọn nhẹ,
người phạm tội có thể bỏ túi được, chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản khơng
biết tài sản người phạm tội chiếm đoạt trước đó để ở đâu nhưng vẫn đuổi theo
nhằm bắt người phạm tội, đồng thời lấy lại tài sản bị chiếm đoạt. Trong quá
trình đuổi bắt, bị người phạm tội dùng vũ lực đối với người đuổi bắt thì khơng
bị coi là chuyển hoá thành tội cướp tài sản mà chỉ coi hành vi dùng vũ lực để
tẩu thoát. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, quan niệm và thực tiễn xét xử

17


như vậy không phù hợp với lý luận về sự chuyển hố, vì xét từ khía cạnh nào
thì người phạm tội cũng không chịu bỏ lại tài sản để tấu thoát nên phải coi việc
dùng vũ lực để tẩu thoát có mang theo tài sản là chuyển hố thành tội cướp tài
sản, chỉ coi là hành hung để tấu thoát khi người phạm tội vứt bỏ lại tài sản, để
chạy thoát thân.
Trường hợp, người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực vừa
nhằm mục đích trả thù vừa nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì vẫn phải truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản, nếu hành vi dùng vũ lực gây thiệt

hại đến tính mạng người bị hại thì người phạm tội cịn bị truy cứu trách nhiệm
hình sự thêm tội giết người.
1.3. Phân biệt tội cướp tài sản với một số tội khác.
Tội cướp tài sản cũng giống như các tội xâm phạm sở hữu tài sản khác,
đều là hành vi xâm phạm đến tài sản của người khác. Các tội này có sự tương
đồng khá lớn trong cấu thành tội phạm như: Có nhiều dấu hiệu cấu thành tội
phạm giống nhau như khách thể, đối tượng của tội phạm, mặt chủ quan của tội
phạm (cố ý trực tiếp và mục đích tư lợi) cũng như chủ thể của tội phạm. Dấu
hiệu đặc trưng để phân biệt các tội chiếm đoạt tài sản với nhau chính là thủ
đoạn phạm tội (phương cách mà người phạm tội sử dụng để chiếm đoạt tài sản)
thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Như vậy, phân biệt tội cướp tài
sản để làm rõ những điểm khác nhau cơ bản giữa những tội danh này và tạo cơ
sở pháp lý cũng như cơ sở khoa học để áp dụng trong quá trình định tội, xét xử
trong thực tiễn.
1.3.1. Phân biệt tội cướp tài sản với tội cướp giật tài sản:
Ngoài những điểm chung như trên, để phân biệt giữa tội cướp tài sản với
tội cướp giật tài sản, chủ yếu dựa vào hành vi khách quan và mặt chủ quan của
tội phạm. Đối với tội cướp tài sản dấu hiệu chiếm đoạt thể hiện ở mục đích của

18


×