Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tải Bình giảng bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh - 4 bài bình giảng bài thơ Lai Tân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.79 KB, 14 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Bình giảng bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh - Ngữ văn 11</b>
<b>Bài làm 1</b>


Bài thất ngôn tứ tuyệt "Lai Tân" là bài thơ số 97 trong số 133 bài thơ của
"Ngục trung nhật kí" của Hồ Chí Minh. Bài thơ số 98 sau đó, với nhan đề "Dáo
Liễu Châu", tác giả ghi rõ ngày viết là 9-12-1942, có câu: "Mồng chín ta vừa
đến Liễu Châu – Ngoảnh lại hơn trăm ngày ác mộng...". Từ nhà lao Thiên
Giang, Bác Hồ viết bài "Thiên Giang ngục" ngày 1-12-1942 (bài 94), rồi bị giải
đi Lai Tân bằng tàu hỏa, được ngồi trên đống than, Bác hóm hỉnh viết: "Nhưng
so với đi bộ cịn sang chán!". Qua đó, ta biết bài thơ "Lai Tân" được Hồ Chí
Minh viết vào tuần đầu của tháng 12-1942. Vì là "Nhật kí..." nên phải tìm hiểu
cặn kẽ như thế!


"Lai Tân" là một bài thơ nhằm tố cáo cái hiện thực xấu xa, thối nát của xã hội
Trung Quốc thời ấy hay chỉ là tiếng cười châm biếm của nhà thơ về những
"con người" trong đám chức sắc ở Lai Tân mà nhà thơ nhìn thấy? Một câu hỏi
rất thú vị được đặt ra.


Đây là bản dịch bài thơ của Nam Trân:


<i>"Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,</i>


<i>Giải người, Cảnh trưởng kiếm ăn quanh,</i>


<i>Chong đèn Huyện trưởng làm công việc,</i>


<i>Trời đất Lai Tân vẫn thái bình".</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Vì đã trải qua "hơn trăm ngày ác mộng", bị giải lui giải tới mấy chục nhà lao
tỉnh Quảng Tây, Người đã nhìn thấy bao nghịch lí, nghịch cảnh của bức tranh
tù ngục, "cái oái oăm của sự đời":



<i>"Đánh bạc ở ngồi quan bắt tội,</i>


<i>Trong tù đánh bạc được cơng khai,</i>


<i>Vào tù con bạc ăn năn mãi:</i>


<i>Sao trước không vô quách chốn này?".</i>


(Đánh bạc)


Mỗi bức tranh là một tiếng cười khẽ, châm biếm nhẹ nhàng mà thâm thuý, bài
thơ "đánh bạc" giúp ta cảm và hiểu sâu hơn, thú vị hơn bức chân dung "Ban
trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc".


Câu thơ thứ 2, tác giả hình như nhìn thấy trên đường chuyển lao một cảnh sát
trưởng:


<i>"Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền".</i>


<i>Nam Trân đã dịch: "Giải người, Cảnh trưởng kiếm ăn quanh".</i>


<i>Nguyên tác: Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải.</i>


Câu 1 đối xứng với câu 2, mỗi bức chân dung biếm họa có một nét riêng. Ban
trưởng thì lo ăn chơi cờ bạc. Cảnh trưởng thì trắng trợn "móc túi" ăn tiền phạm
nhân. Chuyện bọn cai ngục, cảnh sát trưởng ăn tiền phạm nhân đã thành "lệ"
mà nhà thơ đã nhiều phen trở thành "nạn nhân". "Mới đến nhà giam phải nộp
tiền - Lệ thường ít nhất năm mươi nguyên" ("Tiền vào nhà giam"), "Vào lao
phải nộp khoản tiền đèn - Tiền Quảng Tây vừa đúng sáu ngun" ("Tiền đèn").



Bình diện khơng gian xã hội trong bài thơ "Lai Tân" được mở rộng ở bức chân
dung thứ ba:


<i>"Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự".</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

quyền Tưởng Giới Thạch. Sự thật không phải như thế, chính Hồ Chủ tịch đã
lấy mực đỏ gạch bỏ ba chữ "hút thuốc phiện" trong bức thư của nhóm dịch giả
gửi hỏi ý kiến Người.


Trong xã hội cũ, bọn quan lại tự cho mình là "phụ mẫu" của dân, là "đèn trời
soi xét". Trong câu thơ chữ Hán có một chữ "đăng" rất đặc biệt:


<i>"Huyện trưởng thiêu đăng biện cơng sự".</i>


Khơng phải là ngọn đèn cơng lí tỏa sáng vầng trán Huyện trưởng, một vị quan
to mặt lớn quang minh chính đại? Ơng ta có vẻ "mẫn cán" lắm, lo công việc
quan suốt ngày chưa đủ, đêm đêm cịn chong đèn làm việc cơng? Nhưng đâu
phải thế, ông huyện trưởng Lai Tân là một kẻ rất quan liêu! Chuyện đánh bạc
của Ban trưởng, chuyện ăn tiền phạm nhân bị giải của cảnh trưởng sờ sờ ra đó,
sao ông ta không hay, sao ông ta không biết? Hay ông Huyện trưởng Lai Tân
này là "cái ô" để bao che bọn thuộc hạ làm bậy "kiếm ăn quanh"!. Ba bức chân
dung biếm họa song hành, cùng nối tiếp xuất hiện, mang một ý nghĩa thẩm mĩ
đặc sắc, nó cho thấy một hệ thống quan lại Lai Tân là thế! Bộ máy quan liêu
của chính quyền Quảng Tây thuở ấy là thế!


Trước những "gương mặt" ấy, thái độ nhà thơ như thế nào?


Câu cuối bài thơ, Người viết:



<i>"Lai Tân y cựu thái bình thiên"</i>


<i>(Lai Tân vẫn thái bình như xưa).</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Đọc "Ngục trung nhật kí", ta bắt gặp một số "quan chức" nhân hậu, đáng yêu.
Là Sở trưởng Long An họ Lưu "Ai ai cũng bảo bác cơng bình". Là Tiên sinh họ
Quách "ân cần đối đãi ta". Là Trưởng ban họ Mạc "chẳng dùng quyền thế, chỉ
dùng ân". Khoa viên họ Trần thì "nho nhã", Chủ nhiệm họ Hầu thì "anh
minh"... Cách nhìn của nhà thơ rất nhân hậu, trọng thị và cơng bằng, giữa cái
xấu xa vẫn tìm thây cái tốt đẹp, cái tình người mà trân trọng. Chính nhờ những
con người này, tấm lòng này, mà ta hiểu thêm cảm hứng chủ đạo bài thơ "Lai
Tân": một nụ cười châm biếm tỏa rộng. Sau 3 chân dung biếm họa là một nhận
xét trào lộng thâm trầm, sâu sắc. Nụ cười châm biếm trong bài thơ "Lai Tân" là
nụ cười của một nhân cách văn hố lớn: giàu trí tuệ và đạo đức cao đẹp.


Trong bài "Một tiếng nói hướng nội: Thế giới nhà tù và con người kiên nghị
-trữ tình của tác giả ", Trần Thị Băng Thanh và Nguyễn Huệ Chi có viết:


"Có khi điều trái ngược đã vượt ra khỏi khung cảnh một nhà tù, trở thành tính
chất tiêu biểu cho cả xã hội Trung Hoa thời ấy (mà thật ra cũng chẳng riêng gì
cho Trung Hoa và cho thời ấy): quan trên trì trệ, vô trách nhiệm, cấp dưới chỉ
lo xoay xở kiếm ăn, mặc cho mọi tệ nạn cứ tự do hoành hành:


<i>"Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,</i>


<i>Giải người Cảnh trưởng kiếm ăn quanh,</i>


<i>Chong đèn, Huvện trưởng bàn công việc,</i>


<i>Trời đất Lai Tân vẫn thái bĩnh".</i>



(Lai Tân)


Tất cả những việc kì cục bày ra trước mắt như thế có ý nghĩa gì?Phải chăng
đây khơng là một sự "lưỡng phân" tiếp tục trong nhận thức của nhà thơ: ngay
khi đã phải "nhập thân" vào thực tại như một hiện hữu khơng thể chối bỏ, ơng
vẫn lần lượt đi tìm ý nghĩa của cái thực và cái giả ở từng khía cạnh khác nhau
và trong các hình thức tồn tại khác nhau hiển nhiên của nó, có khi điều rút ra là
một nụ cười buồn...".


<b>Bài làm 2</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

bài thơ của “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh. Bài thơ mang nội dung phê
phán chế độ nhà tù và xã hội Trung Quốc với nghệ thuật châm biếm sắc sảo.


Lai Tân là một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Bối cảnh đầu bài thơ
là một nhà tù ở Lai Tân, với kết cấu tự sự trào phúng, ba câu thơ đầu khắc họa
hình ảnh và việc làm của 3 nhân vật có quyền hành lớn:


“Giam phịng ban trưởng thiên thiên đổ


Cảnh trưởng thư, thôn giải phạm tiền


Huyện trưởng thiêu đăng biện cơng sự”…


Câu thơ thứ nhất Hồ Chí Minh dành để nói về tên Ban trưởng – một tên cai
ngục. Xuất hiện trong thơ của Hồ Chí Minh, tên cai ngục này không hung dữ,
tàn bạo, hách dịch như những tên chúa ngục cửa quyền, tàn ác thường thấy, mà
ngược lại, hắn chỉ ngày ngày đánh bạc. Bản dịch viết:



"Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”


Công việc của cai ngục là quản lý tù nhân, quản lý nhà tù, nhưng với tên cai
ngục trong “Lai Tân” thì khơng!. Dưới bàn tay của hắn, nhà tù đã biến thành
một sịng bạc giữa thanh thiên bạch nhật. Nhà tù khơng là là nơi cải tạo phạm
nhân, không phải là nơi để thực thi luật pháp và công lý nữa, mà nó biến thành
một song bạc- theo đúng nghĩa đen. Ở sịng bạc ấy, Ban trưởng và tù nhân đều
có vị thế như nhau. Bởi vì tất cả đều là con bạc, đều cùng hội đỏ đen, đang sát
phạt lẫn nhau, cùng máu mê như nhau.


Nghĩa gốc của câu thơ chữ Hán chỉ là “Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh
bạc” được dịch thành “Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc" chính là một điểm
nhấn hay. Qua cách dịch mỉa mai này, tiếng cười bật ra ở cái nghịch lí của sự
vật, của con người, của hiện tượng mà nhà thơ nói đến. Chúng ta như thấy
được cái nhà thơ nhìn thấy, lại cũng bật cười theo tiếng cười khẽ, thâm trầm,
sâu sắc giàu trí tuệ của chính nhà thơ.


Câu thơ thứ hai, bối cảnh chuyển biến từ nhà lao ra bên ngồi. Cách tự sự của
Hồ Chí Minh khiến độc giả như hịa mình vào bối cảnh, thấy được ánh mắt của
nhà thơ, cảm giác như đang tận mắt thấy hình ảnh vị Cảnh sát trưởng tham ơ,
nhận tiền từ phạm nhân:


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Nghĩa là “Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải” được Nam Trân
dịch thơ thành “Giải người, Cảnh trưởng kiếm ăn quanh". Cách dịch thơ này
không những sát nội dung câu thơ Hán mà còn tiến thêm một bước trong việc
thể hiện sự mỉa mia, khinh bỉ hành động xấu xa, nhơ nhớp của tên cảnh sát
trưởng chốn Lai Tân. Về kết cấu, câu một đối xứng với câu hai, mỗi bức chân
dung biếm họa có một nét riêng, nhưng lại rất “ăn nhập”, rất hài hịa. Ban
trưởng thì lo ăn chơi cờ bạc, Cảnh trưởng thì trắng trợn “móc túi" ăn tiền phạm
nhân. Qua cách sử dụng từ “chuyên đánh bạc” và “kiếm ăn quanh” càng làm


nổi bật ý thơ rằng chuyện bọn cai ngục, cảnh sát trưởng ăn tiền phạm nhân đã
thành “lệ”. Thậm chí, đó giống như việc hiển nhiên, như chân lý rằng đó mới
chính là cơng việc hằng ngày thực sự của bọn chúng vậy!


Bức tranh biếm họa ngày càng được phác họa rõ nét và đầy đủ qua câu thơ thứ
ba:


“Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự".


Dịch thơ:


“Chong đèn, huvện trưởng bàn cơng việc”


Câu thơ mở ra một ý mới, nói tới một nhân vật có quyền cao hơn ở ngồi phạm
vi nhà giam, là người đứng đầu của huyện Lai Tân. “Thiêu đăng" ở đây là
chong đèn, “biện công sự" nghĩa là làm việc công. Câu thơ dịch đã đảo việc
công thành công việc. Câu thơ không khỏi làm người đọc băn khoăn! Phải
chăng đây là một vị quan tốt, một vị quan mẫu cán biết lo cho nước cho dân?
Khơng mắc phải những tật xấu, khơng dính đến những tội lỗi như bản trưởng,
cảnh trưởng? Nhưng nếu đặt câu thơ trong mạch thơ xuyên suốt toàn bài, ta
phát hiện ý châm biếm mỉa mai hết sức sâu cay. Nếu đây là một vị quan tốt,
biết lo cho nước cho dân, làm việc khơng quản ngày đêm thì tại sao dưới quyền
ơng lại có những thuộc hạ mắc nhiều nhược điểm xấu xa?! Vậy ơng chồng đèn
làm cơng việc gì?


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Trong xã hội cũ, quan lại tự cho mình là “phụ mẫu” của dân, là “đèn trời soi
xét”. Thơ chữ Hán có một chữ “đăng” rất đặc biệt. Nhưng “đăng” ở đây khơng
phải là ngọn đèn cơng lí tỏa sáng vầng trán Huyện trưởng, một vị quan to mặt
lớn , anh minh, đường đường chính chính. Thoạt tiên, câu thơ miêu tả ơng ta có
vẻ “mẫn cán" lắm, lo công việc quan suốt ngày chưa đủ, đêm đêm cịn chong


đèn làm việc cơng, nhưng đâu phải thế, ơng huyện trưởng Lai Tân là một kẻ rất
quan liêu! Nếu không, chuyện đánh bạc của Ban trưởng, chuyện ăn tiền phạm
nhân bị giải của cảnh trưởng sờ sờ ra đó, sao ông ta không hay, sao ông ta
không biết? Hay ông Huyện trưởng Lai Tân này là “cái ô” để bao che bọn
thuộc hạ làm bậy “kiếm ăn quanh".


Qua ba câu thơ đầu, từ ba bức chân dung biếm họa song hành, cùng nối tiếp
xuất hiện tạo nên một bức biếm họa lớn, hoàn chỉnh; mang một ý nghĩa thẩm
mỹ đặc sắc, nó cho thấy một hệ thống quan lại Lai Tân nói riêng và bộ máy
quan liêu của chính quyền Quảng Tây thời bấy giờ vơ cùng mục ruỗng, thối
nát, xấu xa đến tệ hại. Nhưng trước cái hiện thực tệ hại ấy, Hồ Chí Minh lại
viết:


“Lai Tân y cựu thái bình thiên"


Được Nam Trân dịch thơ rằng:


“Trời đất Lai Tân vẫn thái bình".


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Về cách dùng từ ở câu thơ cuối,chữ “thái bình” chính là nhãn tự, là thi nhân.
Hai từ “thái bình” hạ xuống một cách tự nhiên, nhẹ nhàng nhưng có sức mạnh
đã kích lớn, nó cho thấy sự thái bình giả dối ở Trung Quốc thời Tưởng Giới
Thạch. Thực chất là đại loạn từ bên trong, đây chỉ có thể là thái bình đối với
bọn quan lại, chứ khơng thể thái bình với người dân. Nếu gắn vào hiện thực,
bài thơ được sáng tác năm 1942 – lúc phát xít Nhật đang xâm lược TQ, đặt bài
thơ trong hoàn cảnh ấy ta lại càng thấy rõ hơn thái độ vô tâm vô trách nhiệm
của bọn quan lại ở Lai Tân. Đất nước bị chiếm đóng, đồng bào bị giết hại vậy
mà trời đất Lai Tân “vẫn thái bình”. Đúng là một sự thái bình khiến ta cười ra
nước mắt!



Chỉ vỏn vẹn qua bốn câu thơ, không cần nhiều lời cay nghiệt, khơng miêu tả cụ
thể từng chi tiết mà tồn bộ bộ mặt xấu xa, thối nát xã hội Trung Quốc thời
Tưởng Giới Thạch đã hiện lên một cách cụ thể sinh động. Đó chính là cái tài
trong cách dụng thơ, cách dùng từ và cách vận dụng nghệ thuật tự sự trào
phúng bậc thầy của Hồ Chí Minh. Có thể nói rằng “Lai Tân” là một tiếng cười
đả kích xuất sắc của thơ Hồ Chí Minh trong “Nhật ký trong tù”: không đao to
búa lớn, chỉ nhẹ nhàng mà thâm trầm sâu cay, có sức mạnh đã kích mãnh liệt
nhắm thẳng vào đối tượng, mãi mãi về sau vẫn còn nguyên giá trị.


<b>Bài làm 3</b>


Tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh gồm những bài thơ có tính nhật kí,
tác giả ghi lại những sinh hoạt trong tù, ghi lại tâm tư, tình cảm của chính tác
giả trong những ngày đen tôi chôn tù lao, hoặc ghi lại những điều tai nghe mắt
thấy trên đường bị giải từ nhà lao này sang nhà lao khác. Duy có bài thơ Lai
Tân là có giá trị tổng kết hiện thực trong và ngoài nhà tù, phác họa được bộ mặt
của nhà cầm quyền trong và ngoài nhà tù ở huyện Lai Tân mà cũng là bộ mặt
điển hình cho nhà cầm quyền Trung Quốc dưới thời Quốc dân đảng bấy giờ.


Bài thơ mở đầu như văn phóng viên, lạnh lùng mà trung thực:


Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

tác giả nhạy tin tức đến thế? Có gì đâu, tên cai ngục này đánh bạc trong nhà tù,
đánh bạc công khai với tù cờ bạc. Người dân đánh bạc ở ngồi thì bị bắt, bị tù;
cịn con bạc vào tù thì được tha hồ đánh bạc. Có lần tác giả đã châm biếm:


Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội


Trong tù đánh bạc được công khai



Vào tù con bạc ăn năn mãi.


Sao trước không vô quách chốn này.


Tù nhân cờ bạc có người bị hành hạ, đói rét, chết ngay trong nhà tù (Đêm qua
cịn ngủ bên tơi, Sáng ra anh đã về nơi suối vàng), thật là thê thảm! Có thể nói,
nhà tù là nơi thực thi luật pháp, nhưng nhà tù ở Lai Tân thủ tiêu luật pháp. Ban
trưởng nhà lao đã biến nhà tù thành chỗ hắn kiếm chác. Đánh bạc với tù cờ bạc
trong tù là một cách ăn cướp trắng trợn của tên ban trưởng đối với tù nhân. Câu
thơ chỉ đưa tin, không bình luận mà có sức tố cáo sâu sắc chế độ nhà tù ở Lai
Tân.


Ra ngoài nhà tù, tác giả lại tóm ngay được một tên trưởng nữa làm bậy. Lại
cũng là một quan chức thi hành pháp luật:


Cảnh sát trưởng ở Lai Tân!


Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền.


(Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh)


Nạn ăn hối lộ trong xã hội Trung Quốc thời đó đă trầm trọng. Nhà tù lại càng
thối nát. Tù nhân vào tù phải nộp tiền! Nếu khơng có tiền thì mỗi bước anh đi
mỗi bước phiền. Muốn có đèn sáng phải có tiền, muốn có nước dùng phải có
tiền. Cảnh sát trưởng giải phạm nhân cũng kiếm chác. Tác giả khơng cịn nén
được sự căm giận, đã lộ ra trong mấy tiếng cảnh trưởng tham thôn (cảnh sát
trưởng tham lam).


Tác giả đã lôi ra hai tên trưởng ở Lai Tân làm bậy, tên thì đánh bạc, tên thì ăn


hối lộ. Cịn tên huyện trưởng thì làm gì mà có vẻ nghiêm túc. Hình ảnh thơ thật
là bí mật, mà cũng thật là hay:


Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Trong bản dịch Nhật kí trong tù lần thứ nhất, câu thơ này được dịch là Chong
đèn huyện trưởng làm công việc. Từ biện dịch là làm dù chưa hay nhưng vẫn
tốt hơn là lo. Lí giải dần dần, ta sẽ thấy sự bất ổn của từ này.


Theo ln lí bình thường, tên ban trưởng làm bậy, tên cảnh trưởng làm bậy, đến
tên huyện trưởng tất phải làm bậy. Vậy mà Huyện trưởng thiêu đăng biện cơng
sự. Tên huyện trưởng này làm gì? Nhóm dịch giả Nhật kí trong tù lần thứ nhất
khơng lí giải được, đành hỏi Đại sứ quán Trung Quốc. Tùy viên Văn hóa Đại
sứ quán Trung Quốc nói là quan lại thời đó khơng làm gì cả, chỉ chong đèn hút
thuốc phiện. Thế là từ đó các sách giáo khoa và giáo trình đại học đều giảng là
ngục trưởng đánh bạc, cảnh sát trưởng ăn hối lộ, huyện trưởng hút thuốc phiện!


Có nhà nghiên cứu vẫn cịn hồi nghi. Giáo sư Lê Trí Viễn viết: Bài Lai Tân có
một câu không rõ nghĩa ngay ở nguyên văn: Khiêu đăng huyện trưởng biện
công sự (dịch: Khiêu đèn, huyện trưởng làm cơng việc). Hai câu thơ trên nói sự
đánh bạc, và hối lộ, cịn ở đây anh huyện trưởng làm cơng việc (việc cơng chứ
khơng phải là cơng việc) gì mà phải đốt đèn. Có người nói hắn mọi việc để
kiếm chác, nhưng như thế cũng là ăn đút. Có ý lại cho rằng: Hay là hắn ta hút
thuốc phiện? Không rõ. Chỗ này có lẽ nên nghiên cứu thêm” (Tác phẩm mới,
số 8).


Nhóm dịch giả đã viết thư hỏi tác giả. Đại ý câu hỏi là tên huyện trưởng trong
bài thơ Lai Tân làm công việc hay hút thuốc phiện. Hồ Chủ tịch đả gạch bỏ ba
chữ hút thuốc phiện bằng mực đỏ. Nhận được hồi âm của tác giả, các học giả
lại hoang mang. Thế là bí mật của câu thơ vẫn cịn ngun.



Theo tơi, khơng nên hiểu câu thơ này theo lơgíc mà phải hiểu theo nghĩa phi
lơgíc (hình thức). Cứ hiểu là tên huyện trưởng này làm việc công (dịch là công
việc cũng không suy suyển với ngun tác là mấy). Thì hắn đang làm việc cơng
đấy thôi.


Hắn làm huyện trựởng Lai Tân mà hai tên quan tai to mắt lớn trưởng và cảnh
trưởng làm bậy sờ sờ trước mũi hắn, hắn không thấy. Loạn đến thế là cùng, thối
nát đến thế là cùng. Vậy mà duới đèn chong, dưới mắt hắn:


Lai Tân y cựu thái bình thiên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Bọn quan chức dưới quyền của tên huyện trưởng làm giặc trước cơng đường,
chứ chưa nói đến bọn nha lại dưới xã thôn, vậy mà hắn vẫn tự hào về cái hụyện
Lai Tân hắn cai trị là mọi sự đều tốt đẹp, thái bình. Nụ cười châm biếm của Hồ
Chí Minh thật sâu cay! Hãy nghe thêm lời bình của nhà thơ Hồng Trung
Thơng về tên huyện trưởng này: “Ở đâu đánh giặc thì cứ đánh, cịn cái trời đất
Lai Tân này thì vẫn thái bình như mn thuở. Một chữ thái bình mà xâu táo lại
bao nhiêu việc làm trên vốn là chuyện muôn thuở của xã hội Trung Quốc cịn
giai cấp bóc lột thống trị. Chỉ một chữ ấy mà xé toang tất cả sự thái bình dối trá
nhưng thực sự là đại loạn bên trong”.


Xét về mặt cấu trúc, không nên xem ngang bằng ba câu một, hai, ba vì như vậy
thì chủ đề bài thơ chĩ là phê phán những thói hư tật xấu của bọn quan lại đương
thời ở Lai Tân. Theo tôi, hai câu đầu là tầng trệt, câu thứ ba đã vút lên thành
gác, thành lầu, thành lâu đài thơ. Và như vậy, chủ đề của bài thơ Lai Tân là lên
án thái độ và hành động vô trách nhiệm của nhà cầm quyền ở Lai Tân mà cũng
là của xã hội Trung Quốc thời Quốc dân đảng. Bài thơ có giá trị khái quát rộng
lớn và sâu sắc biết bao.



<b>Bài làm 4</b>


Trong tập thơ “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh chủ yếu hướng nội, như một
nhật kí tâm sự, thường dùng bút pháp trữ tình để thể hiện vẻ đẹp và con người
của Hồ chủ tịch như bài “chiều tối” nhưng trong đó có nhiều bài thơ hướng
ngoại, nó như một thứ nhật kí thế sự để ghi lại hiện thực của chế độ nhà tù và
xã hội Trung Quốc thời bấy giờ, điển hình là bài “Lai Tân”.


Chúng ta cùng nhau đi phân tích bức tranh hiện thực về chế độ nhà tù và rộng
ra đó là xã hội Trung quốc lúc bấy giờ thể hiện thông qua cảm nhận của tác giả,
ghi lại sự thật những gì tai nghe mắt thấy ở huyện Lai Tân, đồng thời cùng
nhau tìm hiểu về bút pháp nghệ thuật đặc sắc trong bài thơ đó là bút pháp châm
biếm, đả kích thơng qua việc người phát hiện ra những mâu thuẫn trào phúng,
xây dựng hình tượng nhân vật trào phúng, ngơn ngữ trào phúng.


“Giam phịng Ban trưởng thiên thiên đổ,


Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Lai Tân y cựu thái bình thiên.”


Dịch nghĩa:


“Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc,


Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải;


Huyện trưởng chong đèn làm việc công,


Lai Tân vẫn thái bình như xưa.”



Đầu tiên chúng ta cùng nhau đi tìm hiểu bức tranh hiện thực về tình trạng thối
nát của bọn quan lại trong xã hội Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch, qua
đó ta thấy được thái độ của tác giả.


3 câu thơ đầu gợi lên hình ảnh của 3 con người với 3 sự việc:


“Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc,


Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải;


Huyện trưởng chong đèn làm việc cơng”.


Ban trưởng thì ngày ngày đánh bạc, cảnh trưởng thì ăn tiền của phạm nhân, ăn
tiền đút lót của phạm nhân đánh bạc, cịn huyện trưởng thì đốt đèn để làm việc,
nhưng đó chỉ là cách nói thơi, nhưng theo ý kiến của nhiều người thì hình ảnh
chong đèn làm việc là hình ảnh mà tên huyện trưởng hút thuốc phiện. Qua đó ta
thấy được bức tranh chung của xã hội thối nát lúc bấy giờ qua bút pháp tư sự
tài tình của người. Ba câu thơ có tính chất liệt kê, kể lại, thuật lại những con
người, sự việc mà tác giả tai nghe mắt thấy, đó là những hành động mà bọn
quan lại thường làm lúc bấy giờ, đây chính là 3 con người, ba sự việc tiêu biểu
nhất trong số rất nhiều sự việc mà tác giả tận mắt chứng kiến, để nói lên sự vơ
trách nhiệm, thối nát của quan lại lúc bấy giờ mà thậm tệ nhất đó là những kẻ
vơ liêm xỉ, vơ nhân đạo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

đại diện cho bộ máy, pháp luật của một đất nước lại có thể dửng dưng, bình
chân như vại trước thực trạng của đất nước.


Trong tâm trí của bọn chúng lúc nào cũng chỉ nghĩ được rằng: ai chơi bời thì cứ
chơi bời, ai hy sinh cứ hy sinh, ai chiến đấu chống giặc thì cứ việc mà làm mặc


cho thực tình của đất nước.


“Lai Tân vẫn thái bình như xưa”


Tiếp theo là 2 câu thơ cuối là lời nhận xét, kết luận, làm nổi bật lên sức mạnh
châm biếm, đả kích. Trong mối tương quan với 3 câu thơ đầu thì cái kết của
câu thơ cuối này là hết sức bất ngờ, đột ngột. nếu 3 câu thơ tác giả thuật lại một
cách khách quan xã hội lúc bấy giờ, thì ở 2 câu thơ cuối tác giả đã trực tiếp phê
phán và châm biếm tình trạng đất nước và quan lại thối nát lúc bấy giờ, bởi vì
người hạ xuống 1 câu thơ, lời nhận xét có vẻ rất khách quan, rất dửng dưng.


Tác dụng châm biếm, đả kích của câu cuối vừa tạo nên sự thống nhất trong ba
câu thơ trên đồng thời tạo nên mâu thuẫn mang tính chất trào phúng. “Lai Tân
vẫn thái bình như xưa”, sự thối nát của quan lại là bất thường mà lại rất bình
thường, khơng phải do bị xâm chiếm, đô hộ mà bọn quan lại Trung Quốc lại ra
nông nỗi như thế, không phải thời loạn mà trật tự, phép nước, kỷ cương bị đảo
lộn mà sự việc: bóc lột phạm nhân, đánh bạc, hút thuốc phiện của bọn quan lại
là bình thường, từng diễn ra. Mâu thuẫn trào phúng đó là tất cả sự thái bình của
đất nước chỉ là dối trá cịn thực chất đại loạn là bên trong, nghĩa là ở đây có sự
mâu thuẫn giữa dối trá bên ngoài và sự thật bên trong.


Kết thúc bài thơ bằng chữ “thái bình” là thi nhãn, là nhãn tự cho cả bài thơ, tác
giả sử dụng cách nói ngược nghĩa và chính cách nói đó đã làm nên sức mạnh
của biện pháp châm biếm, đả kích, nó vừa nhẹ nhàng nhưng lại hết sức sâu cay:
đó là sự đại loạn và thối nát từ bên trong chính quyền, nhiều nhà nghiên cứu,
phê bình đã đưa ra những nhận định, ý kiến rất hay đó là chỉ gồm 2 chữ “thái
bình” lại được cân đo đong đếm bằng tổng cân nặng của cả bài thơ, cả bài thơ
là 28 chữ, nhà thơ Hồng Trung Thơng nhận xét rằng: “một chữ “thái bình” mà
xâu táo lại bao nhiêu việc làm trên vốn là muôn thuở của xã hội Trung Quốc,
của giai cấp thống trị, chỉ một từ ấy mà xé toang tất cả mọi sự thái bình, dối trá


nhưng thực sư là đại loạn bên trong.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

pháp trào phúng và có tự sự và nghệ thuật trào phúng, châm biếm được thể hiện
ở câu thơ kết.


</div>

<!--links-->

×