Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Tải Soạn bài Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận - Soạn bài môn Ngữ văn lớp 12 học kì I

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.83 KB, 11 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Soạn bài luyện tập vận dụng tổng hợp các thao tác lập luận</b>


<b>1. Soạn bài Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận mẫu 1</b>


<b>I. Hướng dẫn học bài </b>


<b>1. Ôn tập các thao tác lập luận và những đặc trưng cơ bản của thao tác lập luận. </b>
<b>BT 1. Hãy nhắc lại những thao tác lập luận mà anh / chị đã học. Nêu những đặc trưng cơ</b>
bản của từng thao tác.


<i>Gợi ý </i>


- Thao tác lập luận phân tích: chia đối tượng ra thành nhiều yếu tố, bộ phận nhỏ để có
thể nhận biết đối tượng một cách cặn kẽ, thấu đáo.


- Thao tác lập luận so sánh: làm rõ thông tin về sự vật bằng cách đối chiếu với đối
tượng sự vật khác quen thuộc hơn, cụ thể hơn để chỉ ra sự giống nhau và khác nhau giữa
chúng.


- Thao tác lập luận giải thích: là giảng giải về các vấn đề liên quan đến đối tượng một
cách cụ thể, rõ ràng cho người nghe, người đọc hiểu tường tận.


- Thao tác lập luận chứng minh: mục đích của chứng minh là làm người ta tin tưởng
về những ý kiến, nhận xét có đầy đủ căn cứ từ trogn những sự thật hoặc chân lí hiển
nhiên.


- Thao tác lập luận bác bỏ: chính là dùng lí lẽ và chứng cứ để gạt bỏ những quan
điểm, ý kiến sai lệch hoặc thiếu chính xác, từ đó nêu ý kiến đúng của mình để thuyết phục
người nghe.


- Thao tác lập luận bình luận: nhằm đề xuất và thuyết phục người đọc tán đồng với
nhận xét đánh giá, bàn luận của mình về một hiện tượng trong đời sống hoặc trong văn


học.


- Tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh: những yếu tố này có thể đem lại sự cụ thể,
sống động cho văn nghị luận.


<b>BT 2. Trong đoạn trích dưới đây (SGK), tác giả đã vận dụng những thao tác lập luận nào?</b>
<i>Gợi ý</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

+ Thao tác lập luận chứng minh.
+ Thao tác lập luận bình luận.


- Các thao tác này được vận dụng tổng hợp, kết hợp rất linh hoạt trong đoạn trích.
<b>BT 3. Viết bài văn nghị luận trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất ba thao tác lập luận khác</b>
nhau.


Ví dụ:


a. Đề văn: Suy nghĩ của anh/chị về tình yêu tự do sau khi học bài thơ Tự do của
P.Ê-luy-a.


b. Phân tích đề:


- Nội dung: tình yêu tự do


- Thao tác lập luận: phân tích, chứng minh, bình luận
- Tư liệu: bài thơ Tự do và một số tác phẩm khác
<b>II. Luyện tập </b>


<b>BT 1. Sưu tầm bài / đoạn văn nghị luận hay trong đó vận dụng nhiều thao tác lập luận. </b>
<i>Gợi ý</i>



HS có thể tìm các tác phẩm nghị luận, có thể ở ngay trong sách này hoặc SGK Ngữ
văn 12, 11… VD: Bài Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh (Ngữ văn 11), Nguyễn
Đình Chiểu, ngơi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc của Phạm Văn Đồng (Ngữ văn 12)


Sau khi sưu tầm, HS đọc và nghiên cứu kĩ bài viết, chỉ ra các thao tác đã được vận
dụng trong văn bản. Đánh giá sự thành công và nêu nguyên nhân của những thành cơng
đó.


Cũng có thể sưu tầm các bài nghiên cứu của các tác giả khác.


<b>BT 2. Viết bài văn trong đó vận dụng tổng hợp ít nhất 3 thao tác lập luận, theo chủ đề:</b>
một tác phẩm văn học mới ra đời và đan được nhiều người quan tâm bàn luận.


Gợi ý


Các ý chính:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

- Tóm tắt nội dung tác phẩm đó. (Tác phẩm viết về đề tài nào? Chủ đề? Đặc sắc nghệ
thuật)


- Dư luận đan quan tâm đến vấn đề gì trong tác phẩm? Các loại ý kiến khác nhau?
Ví dụ: với tác phẩm Chân dung và đối thoại của Trần Đăng Khoa, có rất nhiều ý kiến
trái ngược nhau. Có người khơng đồng tình với Trần Đăng Khoa, cho rằng anh đã làm
thay đổi một cách không đúng những giá trị đã ổn định trong đời sống văn học. Cũng có
người ủng hộ tác giả vì cho rằng, cần thay đổi cách nhìn, cách nghĩ đã q mịn sáo trong
phê bình văn học.


- Nêu ý kiến của anh / chị (Đồng tình hay phản đối? Vì sao?)



- Kết luận: Khẳng định tính đúng đắn của vấn đề, hoặc phủ định những sai lầm trong
quan niệm cần bác bỏ.


(HS có thể chọn chủ đề khác theo yêu cầu trong SGK)


<b>2. Soạn bài Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận mẫu 2</b>


<b>2.1. Kiến thức cơ bản</b>


<b>1. Các thao tác lập luận cơ bản</b>


- Phân tích: là chia nhỏ vấn đề ra để xem xét, trình bày nội dung và cách thức thể hiện nội
dung đó để thuyết phục người đọc.


- Giải thích: là để người ta hiểu từng vấn đề đưa ra bằng lập luận lí lẽ lơgic.


- Chứng minh: là để thuyết phục người đọc người nghe bằng lí lẽ và dẫn chứng xác thực.
- So sánh: là làm rõ đối tượng đang xem xét trong tương quan với một đối tượng khác.
- Bác bỏ: là dùng lí lẽ và chứng cứ để gạt bỏ những quan điểm, những ý kiến sai lệch.
- Bình luận: là đề xuất và thuyết phục người đọc, người nghe tán đồng với những đánh
giá, bàn luận của mình về vấn đề được đưa ra.


<b>2. Nguồn gốc và bản chất của các thao tác lập luận</b>


– Tất cả các thao tác đều có nguồn gốc từ các hoạt động nghị luận.


– Xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, mỗi thao tác đều là sự phản ánh và phát triển nâng cao
so với một hoạt động nghị luận tương ứng của nó trong đời sống hằng ngày, nhằm làm
cho việc nghị luận đạt chất lượng cao hơn, hiệu quả hơn.



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

- Nắm vững bản chất của thao tác chính và sau đó vận dụng kết hợp các thao tác khác để
bài nghị luận được sâu sắc hơn.


<b>3. Các bước viết bài văn nghị luận</b>
Có thể tiến hành như sau:


- Bước thứ nhất:


+ Xác định chủ đề mà bạn định viết.


+ Xác định các ý kiến mà bạn sẽ đưa ra và sắp xếp chúng lại thành một hệ thống.
- Bước thứ hai: cách trình bày về một luận điểm mà mình đưa ra trong phần thân bài:
+ Chọn luận điểm để trình bày.


+ Cần vận dụng các thao tác nào, chọn thao tác chính đề nghị luận.
+ Cần kết hợp các thao tác trên theo một trật tự như thế nào.


- Bước thứ ba:


+ Viết câu văn, đoạn văn và hoàn thành bài văn.


+ Kiểm tra ngữ pháp, lập luận, hành văn trong văn nghị luận.
+ Đọc văn bản đã thực hiện để thầy cơ và các bạn đóng góp ý kiến.
+ Sửa chữa và hoàn thiện bài viết.


<b>2.2. Giải đáp câu hỏi, bài tập</b>


<b>1. Bài 2, SGK Ngữ văn 12, tập 1, trang 174 (cho biết tác giả đã sử dụng những thao</b>
<b>tác lập luận nào?)</b>



– Phân tích: “Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống
nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết...


- Chứng minh:, “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học... Chúng ràng buộc dư luận”.
- Bác bỏ: “Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp...”


– Bình luận: “Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”.
<b>2. Bài 1, SGK Ngữ văn 12, tập 1, trang 176 (Phần luyện tập ở nhà)</b>
Có thể sưu tầm các đoạn sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Một hợp tuyển thơ tình Pơn Ê-luy-a có lẽ bao giờ cũng là một sự lựa chọn độc đoán và
gần như bất khả, khơng chỉ vì người ta khơng thể tính xuể những bài thơ tình trong sự
nghiệp thi ca của ơng mà cịn vì tình u hầu như hiện diện đều khắp trong thơ ơng, và vì
thơ tình của ơng khơng đơn phương và chân phương là thơ tình theo nghĩa thông thường.
Thơ Ê-luy-a trước tiên và sau cùng vẫn là thơ tình..


Tình yêu là hơi thở xuyên suốt trong thơ ông, cho dù đó là những bài thơ thời thế, chiến
tranh hay chính trị. Tình u là hình cũng là nền của thơ ông. “Tôi thắp lên ngọn lửa, màu
trời xanh đã bỏ rơi tôi / một ngọn lửa để được làm bạn với nó”. Dường như ngọn lửa đó
vẫn cháy mãi trong thơ ông. Ngọn lửa đốt cháy cô đơn, cái lạnh, sự khốn cùng, bóng tối,
cái chết.


Ngọn lửa bất diệt bởi nó được ni dưỡng bằng tình u, “em đã tới ngọn lửa đã bùng
lên”, nó chính là tình yêu sẽ “tái tạo con người”, sẽ tái tạo tất cả. Vâng, đơn giản đó là
tình u, khơng như một ý niệm mơ hồ mà là máu thịt của khoảnh khắc bây giờ và ở đây,
đang thở, đang đập, đang vỗ cánh, đang gọi anh, đang gọi em, đang nói bằng ngơn ngữ
ấm áp của lứa đơi, và khơng ngừng tái sinh như chim phượng hoàng từ điêu tàn đổ nát.
Tình u thi ca, tình u chính là yếu tính định mệnh của chính thơ.



Trong quyển sách cuối đời, Đường và đường mòn thi ca, được xem 1 là bản chúc thư thi
ca của ông, Ê-luy-a một lần nữa khẳng định tình u là nơi chốn đích thực của thi ca và
kinh nghiệm yêu đương luôn kết hợp gắn bó với kinh nghiệm thi ca. “Mọi lời tỏ tình đều
bao hàm một vinh quang nào đó. Nó kéo theo sự kính trọng. Mọi cơn vuốt ve, dù của thân
xác hay của ngôn từ đều thiêng liêng... Khoảng rộng của khát vọng bao trùm mọi khơng
gian. Khơng có tình u hạnh phúc hay khốn khổ, khơng có tình u kiểu Pla-tơng, lẫn
tình u thỏa mãn, lẫn tình u vơ ích, lẫn tình u bắt buộc. Chỉ có tình u, sứ giả của
cái chết và sứ giả của đời sống, nhân tố tiến hóa. Và bộ mặt trái đất khơng ngừng thay đổi
với nó. Tình u hiện hữu, khơng bền vững và bền vững. Mọi con người đều phải yêu.
Tính tất yếu tuyệt đối đó buộc chúng ta phải ngưỡng vọng mọi hình dạng của tình u. Nó
là sự ngây ngất độc nhất, sống được”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

nhà thơ cả một thế giới mà nàng là sự khởi mở, nàng trở thành khả hữu của thi ca, nguồn
cảm hứng của thi ca. Tôi không cô độc, tên gọi một bài thơ cũng là khẩu hiệu thơ Ê-luy-a,
nhà thơ của sự hỗ tương, của sự bùng nổ ý thức trong các mối tương quan chằng chịt của
con người, với thế gian, mà tình yêu là khởi điểm, suối nguồn, nền tảng và cứu cánh của
mọi mối tương quan.


Có thể nói thơ Ê-luy-a là triết học về tình yêu bắt đầu từ mối tương quan anh / em của đôi
lứa, không phải thông qua ý niệm và huyền thoại mà qua hiện thực của cái nhìn, sự vén
mở, những vận động của trái tim cùng sự giao ngộ của những ý nghĩa thuộc con người.
Con người trước tiên là đơi mắt, cái nhìn, kể cả đôi mắt đang nhắm, đang dội lại cái nhìn
vào ký ức của chúng. “Người ta chỉ thấy điều mình muốn thấy với đơi mắt nhắm khi tất
cả con người trọn vẹn đang biến thành cái nhìn. Kỳ điệu thay, đơi mắt màu mỡ, chúng là
dịng sơng, là ánh sáng, là giường nằm, là đường đi”:


Đôi mắt em trong đó đơi ta
Cùng ngủ


Đã tạo ra ánh sáng đàn ơng của em



Một số phận tốt đẹp hơn những đêm trần gian
Đơi mắt em trong đó anh du hành


Đã tạo cho vận động những con đường
Một hướng tách khỏi trần gian.


Chúng hứa hẹn một trường thị giác phong phú như đất màu mỡ hứa hẹn một mùa hoa trái
xinh tươi, bởi đó là nơi chốn của mọi ý hướng, mọi chân trời, cũng là nơi chốn người ta tự
nguyện giam mình, nó là tấm gương phản chiếu một cái nhìn khác, một tấm gương khác,
như bàn tay đưa ra cho một bàn tay cũng phản chiếu trong bàn tay đó: “Giữa những con
mắt đang nhìn nhau, ánh sáng tràn bờ (Huỳnh Phan Anh).


Đoạn 2: (Về bài thơ Ông đồ)


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

đọng lại của lời thơ Ông đồ phải chăng xuất phát từ chỗ nói khơng chỉ giới hạn ở một chủ
đề chung với thơ Nguyễn Nhược Pháp – nỗi niềm hồi cổ – mà cịn hướng tới triết lí, gợi
lên những chuyện dâu bể, thăng trầm trong nhịp độ của thời gian? Nó gắn với tiếng thu
của Lưu Trọng Lư, theo hướng nén lại tình cảm. Cịn ở hai bài thơ Nguyễn Nhược Pháp,
là một trạng thái hồn nhiên hơn, tràn trề cảm xúc trong khi hoài niệm về “Ngày xưa”. Tất
nhiên, nói đến độ nén của tình cảm mà tìm biểu hiện ở kích thước, số lượng câu chữ – đó
chỉ là ấn tượng ban đầu, khi mới nhìn. Cịn sau đó, phải đọc.


2. Một số nhà phê bình đã đọc hai khổ thơ đầu trong mối liên hệ đối lập với ba khổ thơ
sau. “Hai đoạn đầu tươi vui, nhảy nhót, với cái nền văn hoa đào nở của ngày tết, của màu
xuân, với giấy đỏ, mực tàu đen, với người qua lại tấp nập, với những lời bình luận ca ngợi
nét chữ đẹp của ơng đồ. Ba đoạn thơ cuối miêu tả những biến động của thời gian (...).
Ngôn từ thoạt đầu đầy âm thanh ồn ào, màu sắc tươi, dần dần xa vắng, mênh mông”.
Riêng tôi, tôi thấy bài thơ buồn ngay từ hai câu đầu và đoạn sau chỉ là sự phát triển, lộ rõ
cái tứ thơ đã phảng phất ở đoạn trên mà thôi:



Mỗi năm hoa đào nở,
Lại thấy ông đồ già...


Thời gian khiến thiên nhiên có dịp để tái sinh, xn hố, trong khi nó chỉ khẳng định thêm
(lại thấy...) sự già nua của ông đồ. Thêm nữa, nét đối lập đã hàm ẩn ngay giữa những hình
ảnh “tươi vui” ban đầu:


... Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua,
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài,
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

một sức mạnh. Còn gì mỏng manh hơn giấy bút? Và ngay cả tài năng của ơng đồ nữa, nó
chỉ hiển hiện trên câu thơ bằng những từ ngữ, lối nói cổ xưa (Hoa tay, thảo, phượng múa
rồng bay), cũ kĩ ngay cả trong nhịp điệu của hình ảnh ví von do đối ngẫu (phượng múa,
rồng bay).


Bởi lẽ ngay từ đầu bài thơ, sự xuất hiện của ơng đó đã gắn với một thời điểm: thời điểm
ông đi viết thuê. Những nét “phượng múa rồng bay” kia là để bày bán trên hè phố.


3. Do đó, ba khổ thơ sau khơng hẳn chỉ là sự đối lập mà là sự trùng điệp của một số hình
ảnh đã xuất hiện – thật đúng với tính chất của thơ. Thật ra đây khơng chỉ có sự điệp lại,
mà là những biến thái và chuyển hoá của các hình ảnh ấy.


Trong khổ thứ ba và thứ tư, những hình ảnh biểu hiện thời gian ở khổ thơ đầu vẫn trở lại
nhưng không chỉ đơn giản gợi lên tính chất tuần hồn, chu kì. “Mỗi năm hoa đào nở” đã
chuyển thành:



Nhưng mỗi năm mỗi vắng.


Ở câu sau, từ mỗi được lặp lại như gõ nhịp cho bước đi của thời gian. Thêm nữa, bước đi
của nó lại được gợi lên, trong một không gian đặc biệt: sự vắng lặng. Bởi thế, lắng nghe,
ta thấy nhịp độ thời gian trở thành nhịp độ suy thoái (... mỗi vắng). Cảm nhận ấy cịn
được tơ đậm thêm bởi hai hình ảnh chưa xuất hiện ở đoạn đầu bài thơ. Nếu ở đoạn trên,
thời gian cịn thấp thống sau gương mặt biểu tượng cho mùa xuân (hoa đào nở) thì ở đây
đã có sự chuyển hố sang những hình ảnh ngược lại - và vẫn có ý nghĩa biểu tượng: “lá
vàng” và “mưa bụi” điệp lại những nét mỏng manh đã xuất hiện từ khổ thơ đầu.


Cộng hưởng với hệ thống hình ảnh ấy, trong hai khổ thơ này, xuất hiện những từ không
xác định (nay đâu, ai hay...). “Người thuê viết” trở lại trong câu hỏi vô định (“Người thuê
viết nay đâu?”) và trong một câu phủ định: “Qua đường không ai hay”.


Nếu hình ảnh cuộc đời-gắn với nó là thời gian, thiên nhiên, ở những khổ thơ này có gì
khác so với hai khổ thơ đầu, đó chính là sự di động , nó được thể hiện rõ nét:


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Ơng đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường khơng ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy,
Ngoài trời mưa bụi bay.


Năm tháng điểm nhịp bước, người thuê viết” thành kẻ “qua đường” và ngay cả “lá vàng
rơi”, “mưa bụi bay”, tất cả đều ở trạng thái động. Trong khi đó, mọi hình ảnh về ông đồ
đều gắn với sự ngưng đọng “giấy đỏ buồn”, “mực đọng”... “Ông đồ vẫn ngồi đấy”....
4. Ở khổ cuối cùng, nhà thơ đọng lại một thời điểm:


Năm nay đào lại nở...



Đó là hiện tại, tất nhiên chỉ là một hiện tại giả thiết cho nhà thơ (và bạn đọc). Sự xác định
này giống như một cánh cửa khép lại đối với họ mà thơi. Cịn với cuộc đời, guồng quay
của nó bất tận (đào lại nở). Ý niệm về sự tuần hồn của nó vẫn được gợi lên qua hình ảnh
của những bơng hoa, biểu tượng cho sự tái sinh vĩnh viễn. Ngồi ra, ý niệm ấy cịn được
biểu hiện qua việc gần như lặp lại toàn bộ câu đầu bài thơ, với một vài biến thái nhỏ (mỗi
năm hoa đào nở... Năm nay đào lại nở...).


Nghệ thuật trùng điệp – ở một bài thơ hay, không bao giờ hoàn toàn là sự lặp lại. Khổ thơ
cuối cùng vẫn đặt song song hai hình ảnh từng được chú ý rọi sáng từ đầu bài: “hoa đào”
bên cạnh “ông đồ”. Tuy nhiên, ở đây, chỉ có sự chuyển hố của một hình ảnh ngày càng
mở rộng, mơ hồ, khó nắm bắt:


Năm nay, đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hôn ở đâu bây giờ?


Tới đây ta đã thấy được trong hai hình ảnh ấy (hoa đào và ông đồ) đâu là điểm hội tụ ánh
sáng của bài thơ. Hoa đào vẫn vậy. Nhưng hình ảnh mà nhà thơ dõi theo, đó chính là con
người được vẽ lên trong sự chuyển hóa Ơng đồ già – ơng đồ xưa – những người muôn
năm cũ – Hồn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<b>3. Bài 2, SGK Ngữ văn 12, tập 1, trang 176 (viết một đoạn văn nghị luận (trong đó</b>
<b>vận dụng ít nhất 3 thao tác nghị luận) để bày tỏ ý kiến của mình về nét đặc sắc trong</b>
<b>một bài thơ).</b>


Gợi ý: Một nền tảng tri thức rộng cũng là nhân tố quyết định đến sự hành công của tác
phẩm nghị luận. Bôn ba khắp bốn bể chân trời, Hồ Chí Minh đã tích luỹ được kho kiến
thức vơ cùng phong phú. Việc trích dẫn hai bản truyện ngơn của Pháp - kẻ từng nhân
danh “bảo hộ” thực chất là xâm lược, đặt ách đô hộ trên đất nước ta - và Mĩ - nước đang


có vai trị quan trọng trong lực lượng đồng minh chống phát xít, Hồ Chí Mình khơng chỉ
dùng gậy ơng đập lưng ơng mà cịn nâng tầm cách mạng giải phóng dân tộc ta lên ngang
tầm những cuộc cách mạng được xem là tiêu biểu cho mọi thời; nâng tầm vóc hành động
của dân tộc ta lên tầm vóc của những sự thay đổi tích cực của nhân loại trên bước đường
phát triển.


Nhưng Hồ Chí Minh khơng chỉ viện dẫn từ sách vở, Người còn đưa ra rất nhiều bằng
chứng xác thực lấy từ chính cuộc sống cơ hàn nhưng vơ cùng bất khuất của dân tộc ta.
Nhân danh “bảo hộ” nhưng thực chất thực dân Pháp đã hai lần bán nước ta cho Nhật.
Nhân danh “khai hoá” nhưng thực chất Pháp làm thui chột cả trí lực lẫn sức lực của nhân
dân ta để dễ bề cai trị.


Nhân danh Đồng minh nhưng thực chất Pháp đã phản bội lại Đồng minh vì đã đầu hàng
phát xít Nhật.


Nhân danh quyền con người nhưng Pháp lại đi giết tù chính trị của ta ở Yên Bái và Cao
Bằng trước khi tháo chạy trước phát xít Nhật.


Trên đây là những lập luận thuận chiều với nhiều chứng cớ khơng thể nào chối cãi. Chưa
đủ, Hồ Chí Minh còn sử dụng lối lập luận ngược chiều để vạch mặt sự nham hiểm, độc ác
không thể nào dung thứ đối với thực dân Pháp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

chuộng tự do và giàu lịng nhân ái thì tất yếu phải được sống cuộc sống tự chủ, độc lập
như bao dân tộc khác.


Lập luận của Tuyên ngôn Độc lập vô cùng độc đáo ở chỗ một mũi tên bắn trúng hai đích,
nên ẩn ý của từ ngữ vơ cùng sâu rộng. Điều đó chứng tỏ sức mạnh ngơn từ của dân tộc, tài
năng của người cầm bút.


</div>


<!--links-->

×