Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tải Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam - Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.78 KB, 31 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam Ngữ văn 11</b>
<b>Dàn bài chi tiết</b>


<b>I. ĐẶT VẤN ĐỀ</b>


– Thạch Lam là một trong những cây bút viết truyện ngắn tài hoa. Dẫu là viết về cuộc
sống vất vả, cơ cực, bế tắc của người nông dân, người thị dân nghèo hay viết về những
khía cạnh bình thường mà nên thơ của cuộc sống thì những trang văn của ơng cũng chan
chứa tình người.


– Hai đứa trẻ là một truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, in ở tập Nắng trong vườn
(1938).


– Hai đứa trẻ của Thạch Lam có giá trị nhân đạo thật sâu sắc.
<b>II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ</b>


1. Giá trị nhân đạo thể hiện ở tình cảm xót thương của tác giả đối với những người sống ở
phố huyện nghèo:


– Ông xót xa trước cảnh nghèo đói của những con người nơi đây:


+ Những “đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ”, “chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay
bất cứ cái gì đó có thể dùng được của các người bán hàng để lại”.


+ Thương mẹ con chị Tí, ngày mò cua bắt tép; tối đến mới dọn hàng nước dưới gốc cây
bàng. Cuộc sống của chị vất vả, mòn mỏi, quẩn quanh, leo lét như ngọn đèn của chị, ánh
sáng chỉ đủ toả ra một vùng nhỏ mà thôi.


+ Thương bà cụ Thi xuất hiện với tiếng cười khanh khách, với dáng điệu đi lảo đảo, động
tác uống rượu thì khác lạ “Cụ ngửa cổ ra đàng sau, uống một hơi cạn sạch”.



+ Thương bác phở Siêu bán phở gánh. Thu nhập q ít ỏi vì phở là món quà xa xỉ phẩm,
hàng của bác thật ế ẩm.


+ Thương gia đình bác xẩm. Cuộc sống gia đình bác lay lắt như ngọn đèn trước gió. Gia
tài của bác là chiếc đàn bầu và chiếc thau để xin tiền. Cuộc sống của bác bấp bênh. Cái
đói, cái chết ln kề cận.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

– Ông cảm thương cho cuộc sống quẩn quanh, tẻ nhạt, tù túng của những con người nơi
phố huyện nghèo.


2. Giá trị nhân đạo thể hiện ở sự phát hiện của Thạch Lam về những phẩm chất tốt đẹp
của những người lao động nghèo nơi phố huyện.


+ Họ là những người cần cù, chịu thương, chịu khó: Mẹ con chị Tí ngày mị cua bắt ốc,
tối đến dọn hàng nước dẫu chẳng bán được là bao. Hai chị em Liên thay mẹ trơng coi gian
hàng tạp hố. Bác phở Siêu chịu khó bán phở gánh,…


+ Họ là những người giàu lòng thương yêu. Liên thương những đứa trẻ đi nhặt nhạnh
những thứ người ta bỏ lại lúc chợ tàn.


3. Giá trị nhân đạo thể hiện ở sự trân trọng của nhà văn trước những ước mơ của người
dân nghèo về một cuộc sống tốt đẹp hơn.


– Ông trân trọng những hoài niệm, mơ ước của chị em Liên: Hai chị em mong ước được
thấy ánh sáng của đoàn tàu, nhớ về quá khứ tươi đẹp khi gia đình cịn sống ở Hà Nội.
Đồn tàu như đem đến cho hai chị em Liên “một chút thế giới khác”.


– Ông muốn thức tỉnh những con người ở phố huyện nghèo, hướng họ tới một cuộc sống
tốt đẹp hơn.



<b>III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ</b>


– Giá trị nhân đạo được thể hiện thật sâu sắc trong tác phẩm: xót thương những con người
nghèo khổ, phát hiện và miêu tả được những phẩm chất tốt đẹp của người lao động, trân
trọng những ước mơ về cuộc sống tốt đẹp hơn của họ.


– Cùng với những truyện ngắn khác của ông, Hai đứa trẻ đã góp phần thể hiện sự tài hoa,
xuất sắc của Thạch Lam trong viết truyện ngắn trước Cách mạng tháng Tám 1945.


<b>Bài văn mẫu:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Thạch Lam đã đặt ra những vấn đề có ý nghĩa XH sâu sắc.


Đọc “Hai đứa trẻ” chúng ta thấy bao trùm lấy câu chuyện là cuộc sống xơ xác, tiêu
điều của một phố huyện nghèo. Cuộc sống đó đã được tác giả miêu tả ở một thời điểm hết
sức tiêu biểu-thời điểm ngày lụi tàn: “Trống thu không từng tiếng một vang lên”, “phương
Tây đỏ rực như lửa cháy”, “những đám mây ánh hồng như những hịn than sắp tàn”,
“ngồi ruộng tiếng ếch nhái kêu rang vọng vào phố chợ..”. Một khoảng không gian mênh
mông của đồng ruộng vừa đẹp lại vừa buồn gợi ra trước mắt người đọc.


Trên nền của bức tranh ấy, cuộc sống của người những người dân phố huyện được
Thạch Lam miêu tả hết sức đặc sắc: Khi trời nhá nhem tối, mẹ con chị Tí bày cái hàng
nước ra dưới gốc cây bàng. Liên dọn dẹp của hiệu tạp hóa rồi cộng sổ tính tiền. Bà cụ Thi
đến cửa hàng Liên mua một cút rượu, ngửa cổ uống sạch rồi biến đi lẫn vào trong bóng
tối với tiếng cười khanh khách. Đám trẻ con tụ họp chơi đùa trên các thềm nhà. Bác Siêu
dọn gánh hàng phở ra bên bếp lửa bập bùng. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu,
trước cái thau trắng chờ có khách để hát kiếm tiền.


Qua ngòi bút chấm phá tinh tế của Thạch Lam chúng ta thấy cuộc sống ở phố huyện
nghèo ấy hiện ra như một thế giới đang hấp hối, tàn lụi.



Trong bối cảnh ấy, hai chị em Liên và An cũng như những người dân phố huyện vừa
náo nức vừa khắc khoải, mòn mỏi chờ đợi chuyến tàu từ Hà Nội về đi ngang qua phố
huyện. Đêm nào cũng vậy, khi trời vừa bắt đầu tối thì hai chị em đã thấp thỏm chờ đợi
chuyến tàu. Rồi chuyến tàu đến như hằng đêm nó vẫn thường đến với sức hấp dẫn kì lạ
đối với hai chị em Liên-An cũng như người dân nghèo của phố huyện.


Tàu đến với tiếng còi và tiếng rầm rộ của bánh xe. Liên dắt em đứng lên để nhìn
chuyến tàu vụt qua, chuyến tàu đầy sức hấp dẫn bởi nó tràn ngập ánh sáng. Ở những toa
đèn sáng trưng chiếu ánh cả xuống đường. Những toa thuộc hạng sang trọng lố nhố
người; đồng và kềnh lấp lánh. Cái nguồn sáng ấy vút qua, biến vào đêm tối để lại những
đóm than nhỏ bay tung tóe trên mặt đường…


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

khác hẳn với vầng sáng nhỏ nhoi của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bập bùng trong gáng
hàng của bác Siêu…


Nhìn lại tồn bộ câu chuyện, người đọc khơng khỏi thắc mắc vì sao hằng đêm chị em
Liên-An cứ mòn mỏi đợi chuyến tàu đi ngang qua phố huyện? Vì sao hình ảnh con tàu
tràn ngập ánh sáng lại dấy lên trong tâm hồn Liên bao biến động? Bởi vì trong cuộc sống
thường ngày ở phố huyện xơ xác, tiêu điều ấy, họ khơng thể tìm đâu ra niềm vui. Cuộc
sống diễn ra chung quanh họ hết sức đơn điệu, nhạt nhẽo, vô vị…Chuyến tàu sáng rực đối
với người dân phố huyện là hình ảnh của một thế giới khác hẳn, đối lập hoàn toàn với cái
thế giới mà Liên và An đang sống- đó là thế giới của văn minh, niềm vui và hạnh phúc.


Từ đó mà ta cũng nắm bắt được vấn đề sâu sắc mà Thạch Lam gửi gắm vào truyện:
Đó là khát vọng vươn ra thế giới văn minh, hạnh phúc của những con người nhỏ bé-giá trị
nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.


Bên cạnh giá trị về mặt chủ đề, “Hai đứa trẻ” còn nổi bật lên những đặc sắc về nghệ
thuật, thể hiện tập trung qua ngòi bút miêu tả của Thạch Lam trong việc tả người, tả cảnh


cũng như miêu tả tâm trạng của con người. Gắn liền với nghệ thuật miêu tả là thủ pháp
đối lập đã được nhà văn sử dụng hết sức thành công trong truyện. Trước hết là sự đối lập
giữa ánh sáng và bóng tối, đối lập giữa tĩnh và động. Thủ pháp đối lập này đã góp phần
đắc lực cho Thạch Lam trong việc làm nổi bật chủ đề tác phẩm.


“Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn đặc sắc và rất tiêu biểu cho phong cách Thạch Lam.
Qua tác phẩm chúng ta thấy rõ tấm lòng nhân đạo của Thạch Lam đối với con người và
nhất là những con người nhỏ bé trong xã hội. Chuyện đượm buồn nhưng đó là nỗi buồn
cần thiết bởi nó có giá trị thanh lọc tâm hồn con người.


<b>Bài văn mẫu 2</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

trí của mình để phản ánh chính xác cuộc sống của con người. Một trong số những tác
phẩm như vậy đó chính là tác phẩm "Hai đứa trẻ" (Thạch Lam).


Đầu tiên, "Hai đứa trẻ" mang một giá trị hiện thực sâu sắc. Vậy giá trị hiện thực là gì?
Giá trị hiện thực là phạm vi hiện thực đời sống mà tác phẩm phản ánh. Một tác phẩm văn
học nào cũng có giá trị hiện thực vì văn học bắt nguồn từ đời sống, bắt nguồn từ hiện thực
đời sống sinh hoạt hàng ngày, bắt nguồn từ hiện thực, tình cảm, tâm lí... Trong tác phẩm
văn học, giá trị hiện thực là sự phản ánh chân thực, sâu sắc cuộc sống cơ cực, nỗi khổ về
vật chất hay tinh thần của những con người bé nhỏ, bất hạnh; chỉ ra nguyên nhân gây đau
khổ cho con người và miêu tả tinh tế vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người. Ở mỗi tác phẩm cụ
thể, giá trị hiện thực được miêu tả đa dạng. Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" là một tác phẩm
như thế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng xầm
đen hơn nữa". Cảnh vật thật đẹp nhưng buồn, thấm thía vào tâm hồn chúng ta. Chỉ bằng
vài nét phác họa nhưng cũng để cho ta thấy có một nỗi buồn bâng khuâng, man mác, mơ
hồ trong khung cảnh làng quê.



Trên cái nền của bức tranh thiên nhiên ấy, lần lượt hiện ra những mảnh đời thật tội
nghiệp. Đó là hình ảnh của kiếp người lam lũ, tàn tạ, sống mòn mỏi, héo hắt trong mong
đợi mơ hồ, xa xôi. Thạch Lam đã cho ta thấy cảnh sống nơi phố huyện: không ồn ào, to
tát, chỉ bằng những mảnh đời nhỏ bé như những lát cắt của cuộc sống, nhà văn đã tái hiện
chân thực cảnh sống quẩn quanh, nhàm tẻ nơi phố huyện nghèo. Giữa cái cảnh ngày tàn,
chợ tàn hiện ra mấy đứa trẻ nghèo lom khom đi nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre
giữa những "rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía". Bác Hồ đã từng nói:


"Trẻ em như búp trên cành


Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan".


Trẻ thơ là nơi khơi đầu của biết bao mơ mộng, tươi sáng cho tương lai. Thế nhưng lũ
trẻ ở cái phố huyện này lại phải đi kiếm miếng ăn trang trải cuộc sống hàng ngày. Tuổi
thơ của những đứa trẻ ở đây đã phải sớm giã từ nhìn thấy cảnh ấy, Liên động lịng thương
nhưng chính Liên cũng khơng có tiền để cho chúng nó.


Khi trời nhá nhem tối, khung cảnh phố huyện xuất hiện thêm mẹ con chị Tí với gánh
hàng nước. Cảnh đó hiện lên qua đơi mắt của Liên - Một ánh mắt trẻ con: "Thằng cu bé
xách cái điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra, mẹ nó theo sau, đội
cái chõng trên đầu và tay không biết mang theo bao nhiêu đồ đạc, tất cả cái cửa hàng của
chị". Cuộc sống của gia đình chị cũng thật vất vả. Ngày thì mò cua bắt tép, tối dọn hàng.
Dẫu chẳng kiếm được là bao nhưng ngày nào chị cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm.
Cả gia tài của chị cũng chỉ là một chõng hàng. Đây chính là một điển hình cho cuộc sống
lay lắt ngoi ngóp giữa phố huyện. Đó chỉ là sự cầm chừng, sự tồn tại trong vô vọng,
không phải là cuộc sống thực sự.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

khanh khách rõ ràng đang ẩn chứa một nỗi lòng u uất cứ chìm dần vào trong bóng đêm...
Phải chăng đó chính là sản phẩm của cuộc sống mịn mỏi, quẩn quanh. Người điên, người
thì cịn đó nhưng đời đã tàn quá nửa rồi! Thật đáng thương!



Đêm xuống, phố huyện có thêm gánh phở của bác Siêu. Gánh phở như hi vọng sẽ
kiếm được chút gì để tồn tại, để cầm cự với sự sống. Bác Siêu xuất hiện với những chấm
lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm, mất đi rồi lại hiện ra. Trong đêm tối, bóng bác
mênh mông ngả xuống đất và kéo dài đến tận hàng rào. Cuộc đời con người giống như cái
bóng, cái bóng ấy cứ kéo dài mãi mà lại ẩn hiện để thấy được một kiếp người lam lũ, mờ
nhạt và buồn tẻ của con người. Tưởng tằng cái món hàng này rất sáng sủa nhưng cũng rất
ế ẩm bởi phở trở thành một món quà xa xỉ ở cái phố huyện này.


Cùng với đó là gia đình nhà bác Xẩm thu gọn trên manh chiếu chật hẹp, bám sát mặt
đất trong bóng tối của đêm khuya. Ở cái phố huyện này, cơm cịn đang chẳng có mà ăn
huống chi đi nghe gẩy đàn bầu. Chính vì vậy, cuộc sống của họ gần với cuộc sống của
lồi bị sát hơn là cuộc sống của con người khi bác Xẩm sờ soạng trên manh chiếu rách và
đứa con nghịch ngợm rác bẩn ngồi đất "góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bần bật
trong im lặng" hàm chứa sự đau đớn run rẩy tủi hờn của cái nghèo khổ hiu hắt.


Cuối cùng, nổi bật lên thật ấn tượng và ám ảnh nhất giữa những mảnh đời ấy là chị
em Liên. Chiều tàn, Liên ngồi lặng bên quả thuốc sơn đen, cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, tối,
muỗi, gian hàng bé th lại của bà lão móm, ngăn bằng tấm phên nứa, gián giấy nhật
trình. Cha của hai em mất việc phải rời từ Hà Nội về quê kiếm sống nên hai em phải giúp
mẹ bán hàng và trơng coi gian hàng nhỏ xíu, nghèo nàn. Nhớ lại cuộc sống phong lưu
giữa "một vùng sáng rực" của Hà Nội khiến hai em càng buồn hơn cho hiện tại. Thấp
thống sau những người đó cịn là bà Lực, cụ Chi, người mẹ tảo tần, người cha mất việc,
bà lão móm,... những con người dân quê chỉ có tiền mua chịu nửa bánh xà phịng, chủ
nhân của gian hàng có tấm phên nứa, gián giấy nhật trình, cảnh sống bần hàn hiện lên
quaq từng đường nét với nhịp sống tẻ nhạt, buồn bã.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Họ thực sự là những con người sống một cuộc đời tẻ nhạt như những con tàu không đổi
chuyến. Những kiếp người quẩn quanh đó đã đi vào trong thơ của Huy Cận:



"Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu
Tới hay lui cũng chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Mơi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện ".


Không đi vào xung đột gay gắt, những số phận thê thảm như những nhà văn hiện
thực, Thạch Lam đã lặng lẽ, góp nhặt những mảnh đời thường nhật, những nhịp sống
quen nhàm, bình lặng những đốm sáng nhỏ bé, leo lét trong bóng tối tịch mịch để làm nên
bức tranh hiện thực khó quên.


Bức tranh hiện thực có sức ám ảnh bởi lẽ Thạch Lam đã vẽ bằng bút pháp lãng mạn.
Bút pháp giàu cảm xúc, yêu thiên nhiên, cái tôi tự ý thức, cảm nhận cái vô nghĩa của cuộc
sống quanh mình. Trong bóng tối, hai chị em ngồi chõng ngắm sao, ngắm phố hướng về
những nguồn sáng. Khi trời vào đêm, hai chị em ngước nhìn những vì sao. Mỗi đêm
chúng sống một hiện thực đầy mộng tưởng. Hai đứa trẻ nghèo khơng có tài sản gì, trừ
bóng tối và từ bóng tối ấy dấy lên những đốm lửa để soi rọi tâm hồn chúng. Ba lần hướng
về ánh sáng cho đở buồn, lần thứ tư ánh sáng đoàn tàu mới là sựu mong mỏi của chị em
Liên, để từ đó cháy lên niềm khát khao về một thế giới tươi sáng hơn. Đẹp mà lành, dịu
mà xót, yên ả mà khuấy động, Thạch Lam có nói gì nhiều đâu, cịn Liên và An hay ngững
người dân phố huyện chỉ yên lặng lắng nghe và lặng nhìn. Vậy mà mỗi thời khắc đi qua
đều đẻ lại những dư vị khó quên, xao xuyến như thịt da, sâu thẳm như tâm hồn, khẽ gợi
trong ta bao niềm thổn thức.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

đạp con người, trân trọng những phẩm chất, khát vọng tốt đẹp của con người, đòi quyền
sống, quyền hạnh phúc cho con người... Đồng thời tư tưởng nhân đạo cịn thể hiện qua
các hình tượng nghệ thuật, qua cảm hứng, cảm xúc, giọng điệu... Cảm hứng nhân đạo
cùng với cảm hứng yêu nước là hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ nền văn học Việt Nam.
Về cơ bản có những biểu hiện chung song ở mỗi thời kì, giai đoạn, do hồn cảnh lịch sử,
xã hội, do ý thức hệ tư tưởng của các nhà văn khác nhau nên có những biểu hiện riêng.
"Hai đứa trẻ" của Thạch Lam là tác phẩm điển hình thể hiện cảm hứng nhân đạo sâu sắc,


mới mẻ của văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.


Đầu tiên, "Hai đứa trẻ" thể hiện thái độ đồng cảm, xót thương với số phận bất hạnh
trong xã hội cũ trước năm 1945. Qua khung cảnh phố huyện nghèo đói, lụi tàn, Thạch
Lam muốn bày tỏ niềm xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé, vô danh, không bao
giờ biết đến ánh sáng của hạnh phúc. Họ phải sống cuộc đời tẻ nhạt, vơ nghĩa, đời sống
cạn kiệt, mịn mỏi cả về vật chất lẫn tinh thần. Chị Tí ngày nào cũng dọn hàng, cứ nhịp ấy
dù chẳng bán được bao chị vẵn dọn hàng từ chập tối cho đến đêm. Bác Siêu thì đêm nào
cũng bán phở và rất ế ẩm. Cụ Thi điên ngày nào cũng ghé qua hàng của Liên để mua
rượu... Và đặc biệt là Liên - một cô bé mới lớn. Buổi chiều nào em cũng phải chứng kiến
cái cảnh đượm buồn của ngày tàn, khi đêm đến thì lại chứng kiến cái "ao đời phẳng lặng".
Tâm hồn của Liên vốn dĩ rất tinh tế, rất nhạy cảm nên em luôn cảm nhận được mọi thứ
diễn ra xung quanh mình. Nhưng cứ sống mãi trong cái cảnh bình lặng này thì tâm hồn
Liên sẽ dần bị chai sạn, sẽ dần bị đông cứng... Những người trong phố huyện này sống
một cách rất tẻ nhạt, vô vị, họ như tồn tại theo chiều quay của kim đồng hồ vậy, cứ hết
hôm nay lại đến ngày mai. Cuộc sống này đã được Xuân Diệu nói: "hết cơm mai rồi lại
cơm chiều". Cuộc sống thì thiếu thốn đủ thứ cả về cái ăn, cái mặc,... đến cái tinh thần...
Thạch Lam đã cảm thấy đau đớn, xót xa thay cho những cảnh đời sống một cách tẻ nhạt
đến vô vị như vậy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

mỏi đang muốn chôn vùi họ. Sống giữa phố huyện nghèo và đầy bóng tối nên những
người nơi phố huyện trong đó có chị em Liên vẫn ln "mong đợi một cái gì tươi sáng
hơn cho sự sống nghèo khopor hàng ngày". Đó chính là lí do khiến chị em Liên đêm
đêmvẫn cố thức đợi chuyến tàu đêm đi qua. Chuyến tàu chỉ vụt qua nhưng đã mang đến
cho họ một thế giới khác hẳn vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa trong gian hàng
của bác Siêu. Bởi lẽ đó mà Liên "dù buồn ngủ díu cả mắt" vẫn cố thức, cịn An "đã nằm
xuống, mi mắt sắp sửa rơi xuống" vẫn không quên dặn chị "tàu đến chị đánh thức em dậy
nhé". Đó là sự mong muốn được cải cách về tinh thần. Chúng cố thức đợi tàu khơng phải
là vì mục đích bán hàng như lời mẹ dặn, bởi lẽ năm nay mùa màng kém, người buôn bán,
người đi lại ít. Nếu có khách họ chỉ mua bao diêm hoặc phong thuốc lào là cùng, hai chị


em thức chờ tàu xuất phát từ cuộc sống tinh thần.


Khi con tàu rầm rộ đến, Liên gọi em dậy. Mặc dù đang ngủ say, An vội bật dậy dụi
mắt và tỉnh hẳn. Dù chỉ trong chốc lát nhưng hình ảnh "các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh
cả xuống đường. Liên thống trơng thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những
người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng" thì đọng lại mãi. Đứng ngắm lặng con
tàu đi qua, Liên không trả lời câu hỏi của em, trong tâm hồn cô, cơn xúc động vẵn chưa
lắng xuống: "Liên lặng theo mơ tưởng Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên
náo..." Cùng với con tàu hai chị em trở về quá khứ đẹp tươi, con tàu chạy từ Hà Nội, chạy
tới từ tuổi thơ đã mất, con tàu chính là tia hồi quang về quá khứ. Cũng cùng với con tàu
hai chị em còn được sống trong một thế giới mới tốt hơn, một thế giới sáng sủa và sôi
động hơn rất nhiều lần so với cuộc sống hiện tại của chúng bây giờ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

nhân vật phải sống mịn mỏi, tù túng thì nhà văn vẫn dẫn dắt nhân vật hướng về phía ánh
sáng của sự sống. Vì thế, "Hai đứa trẻ" mang âm hưởng lãng mạn bay bổng.


Để thể hiện rõ giá trị của văn bản thì nghệ thuật cũng là một phần quan trọng. Truyện
ngắn "Hai đứa trẻ" khơng có cốt truyện nó như một bài thơ. Thạch Lam chú trọng đi sâu
vào nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh. Thạch Lam đã sử
dụng thành công thủ pháp đối lập tương phản, đối giữa ánh sáng và bóng tối, giữa quá
khứ và hiện thực. Điều đó sau những dòng chữ, ta lại thấy một tâm hồn Thạch Lam đôn
hậu, tinh tế, nhạy cảm với mọi biến thái của lịng người.


Cùng u thương con người, tơn trọng con người nhưng Thạch Lam chưa chỉ ra con
đường để nhân vật của mình đi từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui của cuộc đời
mới. Họ nhìn đời, nhìn người bằng con mắt tình thương nhưng chưa gắn với tinh thần đấu
tranh cách mạng, kết thúc truyện vẵn là chi tiết phố huyện trùm trong tĩnh mịch và bóng
tối.


Nhà văn Nguyễn Tuân đã có một lời nhận xét rất độc đáo "Hai đứa trẻ" có một hương


vị thật man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng đồng thời cũng gióng lên một
cái gì cịn ở trong tương lai. Nơi cái thế giới của một đôi trẻ ở một phố q, hình ảnh đồn
tàu và cái tiếng cịi tàu đã trở thành thói quen của cảm xúc và ước vọng. Đọc "Hai đứa
trẻ" thấy bận bịu vơ hạn về một tấm lịng q hương êm mát và sâu kín. Nói theo lời
Nguyễn Tn, ta có thể thêm: đọc tác phẩm của Thạch Lam, thấy bận bịu vô hạn về một
ước mơ, một khát vọng tràn đầy tinh thần nhân văn, nhân bản từ hiện thực cuộc sống.


<b>Bài làm 3</b>


Thạch Lam là một cây bút truyện ngắn tài hoa xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930
-1945. Những truyện ngắn của Thạch Lam được đánh giá như những bài thơ trữ tình
đượm buồn vì vừa đậm chất trữ tình vừa thể hiện cảm quan hiện thực sâu sắc.- Hai đứa trẻ
(in trong tập Nắng trong vườn) là một truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, vừa tiêu biểu
cho bút pháp của nhà văn, vừa thể hiện giá trị tư tưởng sâu sắc và mới mẻ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

nói nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của mình từ một bức tranh cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu nơi
phố huyện nghèo.


Tác phẩm đưa người đọc vào một bức tranh liên hồn (từ buổi chiều hồng hơn chạng
vạng đến đêm khuya) nhằm khắc họa cuộc sống buồn tẻ, tù đọng nơi phố huyện nghèo.
Nơi ấy, hiện dần lên những hoạt động âm thầm, lặng lẽ của những kiếp người nhỏ bé,
sống cuộc sống mờ mờ nhân ảnh. Đó là cảnh phiên chợ chiều đã vãn nghèo nàn, tiêu điều
cùng hình ảnh mấy đứa trẻ con nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh. Đó là mẹ con chị Tí bán
hàng nước, cứ bày ra rồi lại thu vào vì vắng khách. Đó gánh phở của bác Siêu - một thứ
quà xa xỉ ở nơi này, đang ế khách. Đó là vợ chồng bác Xẩm có đứa con đang bị lê nghịch
những rác bẩn ven đường …


Nổi bật lên trong tác phẩm là chị em cô bé Liên với tâm trạng đợi tàu. Ngày này qua ngày
khác, cuộc sống của chị em Liên trơi qua trong tẻ nhạt ở cửa hàng tạp hóa với những món
hàng nhỏ nhoi khơng hề thay đổi… Bởi thế, việc đợi một chuyến tàu đêm – hoạt động khá


nổi bật nơi này, dường như đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu, thành một biểu
tượng cho những mong mỏi tội nghiệp được thay đổi cuộc sống (cảnh đợi tàu của chị em
cô bé Liên được miêu tả khá tỉ mỉ: từ sự ngóng đợi, tâm trạng háo hức khi đồn tàu đến,
nỗi tiếc nuối, dịng mơ tưởng về một Hà Nội xa xăm, một Hà Nội sáng rực vui vẻ và
huyên náo khi đoàn tàu đi qua…)


Thạch Lam thể hiện tấm lịng cảm thơng, xót thương đối với những kiếp người nhỏ
bé, vô danh ở phố huyện nghèo, nói rộng hơn là của những con người nhỏ bé sống trong
xã hội cũ; trân trọng trước những ước mơ, khát vọng muốn được thay đổi cuộc sống của
những con người tưởng như chưa bao giờ được biết đến niềm vui, ánh sáng và hạnh phúc.
Hai đứa trẻ thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của Thạch Lam. Đặt trong bối
cảnh xã hội lúc ấy, tác phẩm không chỉ thể hiện mối quan tâm sâu sắc của nhà văn trước
những mảnh đời nhỏ bé mà còn có tác dụng tích cực, góp phần làm lay tỉnh những tâm
hồn uể oải, đang lụi tàn.


<b>Bài làm 4</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

tinh tế của cuộc sống thường ngày. Ông kể những câu chuyện không phải chuyện, chủ
yếu khai thác nội tâm nhạy cảm của nhân vật, để phản ánh nỗi lịng, tâm tư của mình vào
trong câu chuyện, vừa dung dị, nhẹ nhàng, lại vô cùng thâm trầm, sâu sắc. Hai đứa trẻ là
một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của Thạch Lam. Ông đã dựng lên một bức tranh
của một phố huyện nghèo điển hình của Việt Nam và đặt vào trong đó những suy tư, suy
ngẫm của mình cũng niềm cảm thương sâu sắc cho số kiếp của mỗi con người. Đó chính
là điều tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm Hai đứa trẻ.


Giá trị nhân đạo là niềm cảm thông sâu sắc của tác giả dành cho những nhân vật trong
tác phẩm của mình, là sự trân trọng những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn con người
đồng thời trân trọng, tin tưởng vào những ước mơ của những con người đó. Tác phẩm Hai
đứa trẻ của Thạch Lam không chỉ bày tỏ quan điểm của cá nhân ơng mà cịn là niềm
thương cảm sâu sắc của ông dành cho những kiếp người, những nhân vật trong tác phẩm.


Chính vì vậy mà Hai đứa trẻ mang một giá trị nhân đạo hết sức sâu sắc. Nó được thể hiện
trong niềm cảm thơng, xót thương của Thạch Lam dành cho những kiếp người tàn trong
phố huyện nghèo đói ấy, là sự phát hiện những phẩm chất cao đẹp của những con người
lao động nghèo nơi đây, là sự trân trọng những khát vọng của những kiếp người lao động
nghèo, đồng thời sâu kín trong đó là sự lên án một xã hội thực dân Pháp thuộc đang đày ải
người dân Việt Nam.


Đọc Hai đứa trẻ, người ta thấy bao trùm lên cả câu chuyện là một cuộc sống với
những kiếp người nghèo tới xơ xác, những kiếp đời tàn giữa một phố huyện đầy u tối, thê
lương. Cái khung cảnh của phố huyện ấy cũng hiện ra ở một thời điểm mà ngày sắp tàn,
sắp kết thúc, tuy đẹp đẽ nhưng lại chỉ là chút ánh nắng cuối ngày, chỉ kịp lóe rạng rồi biến
vào trong đêm đen, giống như những con người ở đây với khát vọng của họ. Không gian
hiện lên với sự huy hồng, đẹp rực rỡ của hồng hơn buông trải "Phương tây đỏ rực như
lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn", khung cảnh đẹp rực rỡ, lộng
lẫy là thế nhưng nó chỉ là một cảnh ngày tàn, như "một hòn than sắp tàn" trong bếp lửa
cháy, gợi ra trước mắt người đọc chúng ra là một nỗi buồn man mác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

trên vai, hai chị em Liên với cái gian hàng tạp hóa "nhỏ xíu", cụ Thi điên say rượu với
tiếng cười khanh khách trong đêm, gia đình bác xẩm mù đang ngồi dưới nền đất, … Tất
cả hòa quyện tạo nên một bức tranh trầm buồn cùng với không gian lặng lẽ, u tối của nơi
phố huyện nghèo này. Ngòi bút chấm phá của Thạch Lam chỉ điểm vài nét trên bức tranh
với gam màu đỏ đen hỗn độn ấy nhưng lại khiến cho chúng ta như thấy được cả một làng
quê Việt Nam tiêu biểu cho xã hội ta dưới thời thực dân Pháp đô hộ. Và từ đấy, người ta
thấy được nỗi thương cảm của Thạch Lam dành cho con người.


Đầu tiên khi đọc Hai đứa trẻ, người ta thấy được một nỗi xót thương sâu sắc vơ cùng
của Thạch Lam dành cho những kiếp người tàn nơi phố huyện nghèo này. Ơng xót xa
trước những cảnh đói nghèo xơ xác của nơi đây. Hình ảnh những đứa trẻ ấy hiện lên trên
nền cái chợ tàn "chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất.
trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía". Trên cái khung cảnh tàn tạ


ấy, "những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tịi.
Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được của các
người bán hàng để lại". Cuộc sống của những đứa trẻ đang tuổi đến trường, tuổi ăn tuổi
chơi lại phải quanh quẩn trên cái đống rác rưởi của người ta để lại. Những kiếp sống của
chúng rồi cũng sẽ lụi tàn như bố mẹ chúng, bởi cái đói cái nghèo đã cướp đi hết của
chúng niềm vui, sự ngây thơ của con trẻ. Chúng quanh quẩn bên cái chợ tàn, "tìm tịi, nhặt
nhạnh", gieo niềm hi vọng trên đống rác của người ta để lại. Thạch Lam đã tinh tế gieo
vào lòng chúng ta một nỗi thương cảm sâu sắc dành cho những đứa trẻ nhỏ, cũng từ đó
mà ta nhận ra được cái tình cảm thương mến mà ông dành cho chúng. Ông thương cảm
đời của chúng mà xót xa trước cái nghèo mà chúng đang phải chịu đựng. Và chính ơng đã
hóa thân vào Liên đã mà chứng kiến mà "động lòng thương" cho những đứa trẻ ấy. Ơng
muốn mang tới cho chúng một chút gì đó, bù đắp cho chúng thế nhưng lại bất lực vô cùng
khi "chính chị cũng chẳng có tiền để mà cho chúng".


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

lội, tảo tần, sáng chị đi mò cua bắt tép, tối về lại bày biện cái quán hàng nước bé tí xíu để
kiếm thêm. Cái quán nước của chị cũng cịm cõi, nhỏ nhoi như chính chị, bởi tất cả đồ
đạc của cái quán ấy, chị đều có thể mang, vác, đội, xách được. Cái quán ấy chỉ có vài bát
nước chè xanh, vài điếu thuốc lào, khách có đến cũng chỉ là bác phu, chú lính lệ,…hay
những con người cũng mang cái số kiếp như chị. Vất vả là thế nhưng cũng "chả kiếm
được là bao", như cái câu nói chị trả lời cho Liên "ối chao, sớm muộn cũng có ăn thua
gì!". Đó là tiếng thở dài ngao ngán cho một đời người bế tắc, mòn mỏi, quẩn quanh, đơn
điệu. Và Thạch Lam đã cúi xuống kiếp người như chị Tí để mà thương cảm, mà xót
thương cho số kiếp của chị. Bởi ơng hiểu rằng, cuộc sống của chị cũng chỉ nhỏ bé, le lói
như cái quầng sáng đèn ở cái chõng nước của chị mà thôi.


Rồi đến cảnh đời của bác Siêu, Thạch Lam cũng đã vơ cùng xót xa khi nhìn thấy cuộc
sống của bác. Cái gánh phở nhỏ bé trên đôi vai rong ruổi là một "thứ quà xa xỉ, nhiều
tiền" mà khơng phải ai cũng có đủ tiền để mua. Chính vì thế, gánh hàng của bác ln bị ế
hàng. Thế nhưng, chiều nào cũng thế, gánh phở của bác cứ chiều tối lại xuất hiện, nhóm
lửa, đến đêm lại gánh trở lại làng. Nhịp sống của bác cứ quẩn quanh cái bếp lửa ấy, đơn


điệu, tẻ nhạt như chính cuộc đời của bác và Thạch Lam đã cảm thấy xót thương vơ cùng
cho những con người như bác. Ơng hiểu rằng, mỗi lần nhóm lửa lên, bác Siêu nhóm tất cả
niềm hi vọng của mình, thứ hi vọng về một ngày mai khác hơn, về một tương lai tốt đẹp
hơn, để đến khi bếp lửa lụi tàn, bác lại trở về với cuộc sống tăm tối, mòn mỏi của chính
mình.


Gia đình bác xẩm mù cũng vậy. Một người mù làm nghề hát rong, cả gia tài chỉ có
"manh chiếu, cái thau sắt trắng", cùng với chiếc đàn mà phải gánh vác cả một gia đình.
Cuộc sống của gia đình bác là những ngày tha phương cầu thực, lấy gầm cầu, vỉa hè làm
nhà, cịn đứa con chỉ có thể nghịch ngợm "nhặt rác trên nền đất bẩn". Kiếp sống của gia
đình bác cũng tối tăm như thế, cũng nghèo đói như thế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

con người đã đi gần hết cái số kiếp tăm tối của chính mình? Và Thạch Lam đã thật đồng
cảm với nỗi đau khổ ấy của một kiếp người, ơng xót thương cho cụ, cho bác Siêu, bác
xẩm mù, cho tất cả những con người nơi phố huyện tù túng này mà đặc biệt là chị em
Liên.


Chị em Liên An vốn có cuộc sống dư dả trên Hà Nội nếu như thầy Liên không mất
việc mà đẩy cả gia đình vào bế tắc. Cả gia đình phải tạm xa Hà Nội, trở về quê, chị em
Liên An thì trơng hàng tạp hóa giúp mẹ, mẹ của Liên thì phải đi làm hàng xáo. Cái gian
hàng "tạp hóa bé xíu" của hai chị em đã khắc thành ấn tượng trong lòng người đọc về cái
nghèo của nơi phố huyện này. Cái gian hàng ấy chỉ có vài bánh xà phòng, cút rượu, mấy
quả sơn đen, .., mà bán suốt của "ngày phiên" lẫn ngày thường "mà bán cũng chẳng ăn
thua gì". Cuộc sống của hai chị em Liên là chuỗi ngày sáng dọn ra tối dọn vào, đơn điệu,
tẻ nhạt như chính cuộc đời của hai chị em. Những niềm vui con trẻ cũng chẳng còn thấy
trên gương mặt non nớt của hai chị em Liên An nữa. Thạch Lam thương lắm, xót xa lắm
trước cái cuộc sống nghèo đói, tăm tối này đã cướp đi cả những khoảng khắc con trẻ của
những đứa trẻ. Ông xót xa, ơng đồng cảm với họ, với những kiếp đời tàn nơi phố huyện
này.



Bằng những rung động mơ hồ, đầy tinh tế của mình, Thạch Lam đã vẽ lên bức tranh
một phố huyện nghèo với những kiếp đời tàn, và đặt trong đó là niềm xót thương vơ cùng
của mình đối với những con người lao động nơi đây.


Khơng chỉ thương xót cho những thân phận, những kiếp đời tàn nơi phố huyện tăm
tối này, Thạch Lam còn tinh tế khi nhận ra rằng, mặc dù sống trong đói nghèo, tàn tạ là
thế, con người nơi đây vẫn có những phẩm chất tốt đẹp vô ngần của người lao động. Và
Thạch Lam – một con người ở tầng lớp trên, tầng lớp tiểu tư sản, đã vô cùng sâu sắc phát
hiện ra và trân trọng những phẩm chất đáng quý ấy ở những con người nghèo khổ kia.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

nhiều ngồi mấy chén nước chè và đơi điếu thuốc lào. Thu nhập của cái quán nước "chả
kiếm được bao nhiêu", thế nhưng "chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến
đêm", chẳng hôm nào bỏ ngỏ. Sự tần tảo của chị đã khiến cho Thạch Lam phải cảm động,
ông thương chị, ông thấy được cái vẻ đẹp trong sự vất vả, tần tảo sớm hôm của chị. Cái sự
tần tảo ấy của chị là phẩm chất tốt đẹp, đáng khâm phục của tất cả những người phụ nữ
Việt Nam, cũng giống như vợ của Tú Xương tần tảo nuôi chồng, khiến ông phải cảm
động mà thương xót:


"Quanh năm bn bán ở mom sơng
Ni đủ năm con với một chồng


Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đị đơng"


Thạch Lam cũng phát hiện ra ở bác Siêu, bác xẩm mù hay chị em Liên cái phẩm chất
cao quý ấy của người lao động. Đó là dù có thế nào, cuộc sống có bấp bênh, mệt mỏi ra
sao, họ vẫn luôn luôn chăm chỉ, tần tảo, chịu thương chịu khó. Bác Siêu với "tiếng địn
gánh kĩu kịt nghe rõ rệt", chiều nào cũng gánh gánh phở ngồi chờ khách. Ngày nào bác
cũng nhóm lửa, "thổi vào cái ống nứa con", để mùi phở thơm thoảng hết con phố huyện
nghèo. Mặc dù hàng phở của bác là "một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền" mà hiếm ai có thể mua


được, thế nên ln ế khách, nhưng bác vẫn hàng ngày chăm chỉ, gánh đôi gánh phở bán ở
phố lúc chiều, đến đêm lại quẩy vào làng. Thế mới biết, người lao động chưa bao giờ thôi
tần tảo, chưa bao giờ thôi hi vọng vào sự chăm chỉ sẽ giúp họ trải qua những đói nghèo,
tăm tối của cuộc sống. Đó chính là những phẩm chất đẹp đẽ mà Thạch Lam đã vô cùng
tinh tế khi phát hiện ra.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

cửa. Tác giả đã rất tinh tế khi phát hiện ra cái tần tảo và chịu thương chịu khó của những
con người lao động nơi đây dù rằng cuộc sống của họ nghèo đói, họ vẫn luôn cố gắng
vươn lên, cố gắng mỗi ngày.


Không chỉ thế, Thạch Lam còn phát hiện ra rằng, tuy họ nghèo đói, khổ sở, vất vả là
thế nhưng họ vẫn ln có lịng trắc ẩn, lịng thương người, thương những con người cùng
số phận với mình. Đó là khi Liên nhìn thấy những đứa trẻ nghèo nhặt rác ở khu chợ tàn,
chị đã động lòng thương chúng, thương cho số phận của chúng, thương cho tuổi thơ bị
chôn vùi trong sự đói nghèo mà đáng ra phải được sống vui tươi hơn của chúng. Mặc dù
rằng tình thương ấy của chị cũng chỉ là một niềm thương cảm, bởi chính chị cũng đang
rơi vào hồn cảnh nghèo đói như chúng, chị cũng bất lực trước số phận "Liên trơng thấy
động lịng thương nhưng chính chị cũng khơng có tiền để mà cho chúng nó". Thạch Lam
vẫn thế, ơng vẫn rất tinh tế khi phát hiện được những gì nhỏ nhặt nhất trong từng câu
chuyện đời thường, để phát hiện ra một niềm thương cảm nhỏ nhoi của Liên dành cho lũ
trẻ. Như ở Liên, cuộc sống của chị cũng chẳng hơn gì những đứa trẻ kia, đáng ra, chị phải
thương chính bản thân mình trước, nhưng chị vẫn thương, vẫn động lịng trắc ẩn trước
những số phận giống mình. Đó là tấm lòng nhân đạo đáng quý của Liên hay cũng của
chính Thạch Lam khi ơng đã khơng chỉ phát hiện ra sự tần tảo sớm hôm của người lao
động mà còn phát hiện ra tấm lòng cao quý, trắc ẩn của họ dành cho những số phận kém
may mắn như mình.


Và hơn thế, giá trị nhân đạo của truyện ngắn Hai đứa trẻ còn được thể hiện ở chỗ
Thạch Lam trân trọng vô cùng những ước mơ bé nhỏ, giản dị của những con người nơi
đây về một tương lai tươi sáng hơn.



</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

mơ ước nhỏ bé ấy của hai chị em Liên, bởi ông hiểu, cái mơ ước ấy giờ đây quá xa vời,
nhưng những niềm hi vọng thì khơng bao giờ lụi tàn cả.


Cái thế giới mà họ mơ tưởng đến nơi sáng rực ánh đèn và tiếng còi vang vọng, Thạch
Lam trân trọng niềm khao khát về một thế giới khác, khơng cịn u tối của những con
người nơi đây. Và niềm khao khát ấy trở thành hiện thực khi chuyến tàu đêm cuối cùng
băng qua con phố huyện nghèo đói, tối tăm này. Thạch Lam đã miêu tả đoàn tàu qua với
tất cả sự trân trọng, tự hào, với những hình ảnh rực rỡ nhất "tiếng cịi đã rít lên, và tàu rầm
rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đồn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh
cả xuống đường. Liên chỉ thống trơng thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những
người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng". Đồn tàu chỉ vụt qua trong giây lát,
thế nhưng nó lại để lại một thế giới mới, đầy ánh sáng và âm thanh rực rỡ, chói lọi, một
thế giới khác lạ, tốt đẹp hơn. Thế giới ấy "khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và
ánh lửa của bác Siêu", âm thanh chan hịa, vang vọng khác với "tiếng trống thu khơng"
đơn điệu, đều đều, đó là thế giới "Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo",
nơi mà Thạch Lam muốn con người nơi đây hướng tới.


Câu chuyện khép lại, thế nhưng, đó đây, người ta vẫn cảm thấy nao lòng trước cuộc
sống quá đỗi tăm tối, tù túng và vô ý nghĩa của con người lao động nơi phố huyện này.
Vậy nên, chắc hẳn, miêu tả phố huyện nghèo điển hình thời Pháp thuộc cùng với những
kiếp người tàn, Thạch Lam đã kín đáo lên án cái xã hội thực dân ấy đã không đảm bảo
được quyền sống cho con người, bào mòn những kiếp người trong đói nghèo và u tối.


Hai đứa trẻ đã làm nổi bật lên giá trị nhân đạo sâu sắc mà Thạch Lam muốn gửi gắm.
Đó khơng chỉ là tình cảm thương xót dành cho những số phận nghèo đói, cho những kiếp
đời tàn mà còn là sự trân trọng những phẩm chất cao đẹp, những ước mơ nhỏ nhoi của họ
về một tương lai khác tươi đẹp hơn ở phía trước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<b>Bài làm 5</b>



Xúc cảm của Thạch Lam thường bắt nguồn và lấy từ những chân cảm với đời, với
những con người ở tầng lớp nghèo, thành thị và thôn quê. Thạch Lam là nhà văn quý mến
cuộc sống, nhạy cảm trước cuộc sống của mọi người xung quanh. Chính tình cảm và sự
q mến ấy của ơng đã giúp ông nhận thức sâu sắc tinh tế, “hai đứa trẻ” là một tác phẩm
của Thạch Lam đã làm tái hiện lên hiện thực và giá trị nhân đạo vô cùng mới mẻ, đặc sắc,
trỗi dậy được những rung động cực điểm trong tâm hồn bao thế hệ bạn đọc.


Tác phẩm Hai Đứa Trẻ được in trong tập “nắng trong vườn” xuất bản năm 1938,
chuyện nhưng khơng có chuyện chỉ là câu chuyện tâm tình, câu chuyện khơng phát triển
theo lôgic sự kiện mà giống như một bài thơ trữ tình đầy xót thương gói gọn trong khơng
gian nhỏ hẹp nơi Phố huyện nghèo, hẻo lánh, với những con người nhỏ bé, những cảnh
đơn điệu, hắt hiu….Phải chăng câu chuyện ấy cũng chính là câu chuyện đời tác giả – một
cuộc đời buồn Giản dị mà tâm hồn sâu sắc.


Sinh ra tại Hà Nội nhưng thủa nhỏ Thạch Lam sống ở quê ngoại, ở phố Cẩm Giàng
tỉnh Hải Dương. Đó là một Phố huyện nghèo, hẻo lánh tiêu điều mà suốt thời thơ ấu ơng
đã ở đó cùng một người chị gái, sống những năm tháng buồn tẻ lay lắt, nhạt nhịa. Có lẽ
truyện ngắn “hai đứa trẻ” chính là một trong những nhật ký về quãng thời gian Thạch
Lam sống ở đây, nên ông mới thấu hiểu được nỗi khổ của những kiếp người nhỏ bé như
vậy, từ đó vẽ nên một bức tranh Phố huyện U buồn tĩnh mạch, để thể hiện giá trị nhân đạo
và hiện thực một cách sâu sắc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

trên nền trời, cảnh thiên nhiên Phố huyện lúc chiều xuống càng trở nên ám ảnh khi mùi
ẩm mốc bốc lên, hòa với hơi nóng của ban ngày, lẫn với cát bụi….


Với hai chị em Liên đó là mùi riêng của đất, mùi quê hương bình dị quen thuộc bên âm
thanh mờ nhạt và thưa thớt, đến mức chỉ còn nghe thấy tiếng hoa bàng rụng xuống trên
tay khe khẽ từng loạt một. Phố huyện nghèo giờ chìm ngập trong bóng tối dày đặc, mênh
mông tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào


làng lại càng đen sẫm hơn nữa, bóng tối càng mênh mơng dày đặc hơn khi tác giả điểm
vào đó những điểm sáng le lói lập lịe yếu ớt của đàn đom đóm một đốm sáng lờ mờ của
ngọn đèn hàng nước chị Tí, những hột sáng nhỏ nhoi, lọt qua bên cửa, rồi gian hàng chị
em Liên…..


Những đốm sáng trong đêm tối ấy phải chăng là biểu tượng cho kiếp người nhỏ bé vô
danh sống cuộc sống leo lét, vất vưởng trong Đêm tối của xã hội cũ và chỉ bằng những
mảnh đời nhỏ bé như những hạt cát cuộc sống. Thạch Lam đã tái hiện chân thực cảnh
sống quẩn quanh buồn tẻ nơi Phố huyện nghèo, đó là gia đình chị Tý ngày mò cua bắt tép,
tối dọn hàng, dẫu chẳng kiếm được là bao nhưng ngày nào chị cũng dọn hàng từ chập tối
cho đến đêm. Cả gia tài Của chị chỉ có một chõng hàng, hay đó là bà cụ Thi điên với điệu
cười khanh khách, đau khổ, là bác Siêu với gánh phở xa xỉ, gia đình bác Sẩm với điệu đàn
bầu run bần bật.


Và cuối cùng là hai chị em Liên chính là mảnh đời đáng thương nhất, có tâm hồn đặc
biệt nhạy cảm nên chúng sớm nhận ra nhịp điệu buồn tẻ của cuộc sống nơi Phố huyện.
Chừng ấy mảnh đời kiếp người đã làm sống dậy hiện thực xã hội Việt Nam thời Pháp
thuộc, một xã hội sa sút tiêu điều, tồi tệ, một xã hội “đang nổi váng lên” đó là một xã hội
với những hình nhân biết cử động. Trong thiên truyện ý tưởng của Xuân Diệu “Tỏa Nhị
Kiều” họ thực sự là những con người sống một cuộc đời tẻ nhạt, như tàu khơng đổi
chuyến những kiếp người quẩn quanh đó đã đi sâu vào trong thơ của Huy Cận


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

(quanh quẩn)
Không đi vào xung đột gay gắt, những số phận thê thảm như những nhà văn hiện
thực. Thạch Lam đã lặng lẽ góp nhặt những mảnh đời thường nhật, những nhịp sống quen
thuộc bình lặng nhưng lẫn khuất leo lét trong bóng tối tính mịch để làm nên một bức tranh
hiện thực thật khó quên.


Đọc xong truyện ngắn Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam, Ta thấy nhà văn không đi vào tố
cáo sự đàn áp, bất công của xã hội, cũng không khiến người đọc phải chứng kiến những


cảnh bóc lột, hành hạ của giai cấp thống trị đương thời. Nhưng tác phẩm vẫn chất chứa
một tư tưởng nhân đạo sâu sắc.


Tư tưởng nhân đạo ấy trước hết là tốt lên từ niềm xót thương chân thành của nhà văn
trước những cảnh đời đơn điệu hắt hiu nơi Phố huyện nhỏ, nhà văn xót xa bởi họ phải
sống một cuộc sống vô cùng trong cái ao đời phẳng lặng, họ đang tồn tại chứ không phải
đang sống. Từ gia đình chị Tý ngày nào cũng mị cua bắt ốc, tối dọn hàng cứ đều đều như
thế dù chẳng kiếm được là bao, bác Siêu với gánh phở của mình, hy vọng sẽ kiếm được
chút gì đó để tồn tại, để cầm cự với sự sống. Nhưng ở nơi Phố huyện này phở là một món
hàng xa xỉ, vì vậy nguy cơ ế là rất cao. Bác Sẩm dùng lời ca tiếng hát để kiếm sống nhưng
ở nơi cái ăn cịn chẳng có thì người dân nghèo lấy đâu ra tiền để thưởng thức âm nhạc.


Vì vậy cái nghèo đã ln rình rập quanh gia đình bác, đây chính là điển hình cho
những cuộc đời lay lắt, ngoi ngóp nơi Phố huyện, đó chỉ là sự cầm chừngm sự tồn tại
trong vô vọng chứ không phải sự sống thực, phải chăng đó chính là sản phẩm của một
cuộc sống mỏi mịn, quẩn quanh, người điên, người thì cịn đó nhưng đời đã tàn quá nửa.
Khi ta bắt gặp hình ảnh cụ Thi điên, cụ chỉ đủ tiền để mua một ngụm rượu uống một hơi
cạn sạch.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

đem ra rồi lại dọn vào , gánh đi rồi lại


gánh về. Đọc và thấu hiểu được nhịp điệu ấy, nhà văn thương họ, thương cho tất cả
những ai phải sống một cuộc đời tẻ nhạt sống bằng phẳng như Nam Cao nói trong Sống
Mịn “Cuộc sống cứ mịn đi, đổ ra,bốc lên”…Thấm đẫm tinh thần xót thương ấy tác phẩm
của Thạch Lam có giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc. Đó cũng chính là điểm gặp gỡ giữa
Thạch Lam với các tác giả khác như Xuân Diệu với khát vọng sống có ý nghĩa


“ Thà một phút huy hồng rồi vụt tắt
Cịn hơn buồn le lói suốt trăm năm”



Khơng chỉ dừng lại ở sự xót thương với hình ảnh đồn tàu đi qua phố huyện, Thạch
Lam dường như cịn muốn gióng lên trong tâm trí con người một tia hy vọng, một ước mơ
cháy bỏng. Ánh Sáng của con tàu hay chính là niềm khao khát một cuộc sống có ý nghĩa
hơn dẫu chỉ là trong mơ, chừng ấy con người khi đêm đã về khuya nên vẫn thao thức
khơng ngủ cho tới khi nghe tiếng cịi xe lửa ở đâu đó vang lại trong đêm khuya kéo dài ra
theo ngọn gió xa xơi, Liên đã kêu lên “Dậy đi An! Tầu đến rồi”.


Chuyến tàu chỉ dừng lại trong giây lát rồi đi vào đêm tối mênh mông, giống như một
ánh sao băng lấp lánh bất chợt bay qua nền trời rồi vụt tắt mang theo bao ước mơ và hoài
bão, đi tới nơi nào chẳng rõ nên hai chị em Liên vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn
xanh leo lét trên toa sau cùng xa xa mãi rồi khuất hẳn sau rặng tre, mà Liên vẫn cứ lặng
theo mơ tưởng, dường như Liên đang nhấp nhói trong lòng một ước ao đổi đời, một cuộc
sống hiện tại vẫn nhen nhóm một niềm tin hi vọng, một ngày nào đó được trở lại cuộc
sống tươi sáng hơn như những ngày ở Hà Nội. Trong ý nghĩ hồn nhiên, non nớt và tội
nghiệp của Liên, Hà Nội là một thiên đường trong mơ, nhìn theo đồn tàu đang xa dần, xa
dần trong lòng Liên cứ rộn lên những bồi hồi, xao xuyến. Ánh mắt của cô bé cứ đắm chìm
mãi vào cõi mơ, tưởng như nghĩ về quá khứ về tương lai và hiện tại, quá khứ tuổi thơ tươi
sáng qua lâu rồi, tương lai thì mờ nhạt, mong manh, cịn hiện tại thì ngập bóng tối….


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

nó như một ánh hào quang, một vệt sáng rồi tắt dần xa dần trong tâm trạng tiếc nuối của
cô bé Liên. Nhưng dẫu sao đây vẫn là một niềm vui, một niềm an ủi làm vơi đi nỗi buồn
tẻ nhạt của hiện tại, để hai chị em Liên chìm vào trong giấc ngủ sau một ngày buồn tẻ.


Đọc xong truyện ngắn hai đứa trẻ ta có cảm giác như được đọc một bài thơ trữ tình
đượm buồn, bởi qua tâm trạng của hai chị em Liên, ta rất dễ nhận ra một tiếng nói tâm
tình thầm kín nhẹ nhàng, nhưng thấm thía vơ cùng trong lịng người đọc, qua đó ta cịn
thấy người được ngịi bút tài hoa của người nghệ sĩ qua việc thể hiện giá trị nhân đạo và
hiện thực một cách mới mẻ đặc sắc, với sự kết hợp hài hòa giữa hai giá trị lớn này truyện
ngắn Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam sẽ còn sống mãi trong lòng bạn đọc.



<b>Bài làm 6</b>


Thạch Lam là một cây bút truyện ngắn tài hoa xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930
-1945. Hai đứa trẻ là một truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, vừa tiêu biểu cho bút pháp
của nhà văn, vừa thể hiện giá trị tư tưởng sâu sắc và mới mẻ. Câu chuyện thấm đẫm cảm
quan trữ tình, bởi vậy tinh thần nhân đạo hiện hữu rất rõ rệt.


Tác phẩm Hai đứa trẻ in trong tập Nắng trong vườn, xuất bản năm 1938. Truyện
nhưng khơng có chuyện, chỉ là câu chuyện tâm tình. Câu chuyện không phát triển theo
logic sự kiện mà giống như một bài thơ trữ tình đầy xót thương, gói gọn trong không gian
nhỏ hẹp nơi phố huyện nghèo hẻo lánh với những con người nhỏ bé, những cảnh đời đơn
điệu hắt hiu. Toàn truyện là những cảm xúc và tâm trạng của những đứa trẻ nơi phố huyện
đó trong khoảng thời gian từ chiều đến đêm. Ngòi bút của Thạch Lam tỏ ra thật tinh tế
trong việc diễn tả những rung động của hai đứa trẻ.


Giá trị nhân đạo là một trong những phương diện quan trọng tạo nên giá trị nội dung
tư tưởng của tác phẩm, thể hiện thái độ của nhà văn trước hiện thực cuộc sống. Với Hai
đứa trẻ, Thạch Lam đã cất lên tiếng nói nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của mình từ một bức
tranh cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu nơi phố huyện nghèo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

con chị Tí bán hàng nước, cứ bày ra rồi lại thu vào vì vắng khách. Đó gánh phở của bác
Siêu – một thứ quà xa xỉ ở nơi này, đang ế khách. Đó là vợ chồng bác Xẩm có đứa con
đang bị lê nghịch những rác bẩn ven đường … Nổi bật lên trong tác phẩm là chị em cô bé
Liên với tâm trạng đợi tàu. Ngày này qua ngày khác, cuộc sống của chị em Liên trơi qua
trong tẻ nhạt ở cửa hàng tạp hóa với những món hàng nhỏ nhoi khơng hề thay đổi… Niềm
mong mỏi cho cả một ngày của hai chị em là cùng thức để chờ đợi chuyến tàu đêm ngóng
đợi, háo hức khi đồn tàu đến bao nhiêu thì nỗi tiếc nuối về một Hà Nội xa xăm, một Hà
Nội sáng rực vui vẻ lại rõ rệt bấy nhiêu.


Miêu tả về số phận của những con người nơi phố huyện, Thạch Lam thể hiện tấm


lịng cảm thơng, xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé, vô danh ở phố huyện
nghèo, nói rộng hơn là của những con người nhỏ bé sống trong xã hội cũ; trân trọng trước
những ước mơ, khát vọng muốn được thay đổi cuộc sống của những con người tưởng như
chưa bao giờ được biết đến niềm vui, ánh sáng và hạnh phúc.


Hai đứa trẻ thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của Thạch Lam. Đặt trong bối
cảnh xã hội lúc ấy, tác phẩm không chỉ thể hiện mối quan tâm sâu sắc của nhà văn trước
những mảnh đời nhỏ bé mà còn có tác dụng tích cực, góp phần làm lay tỉnh những tâm
hồn uể oải, đang lụi tàn.


Đọc truyện của Thạch Lam ta thấy nhà văn không đi vào tố cáo sự đàn áp bất công
của xã hội, cũng không khiến người đọc phải uất ức, căm giận những cảnh bóc lột, hành
hạ của giai cấp thống trị đương thời. Tư tưởng nhân đạo ấy được toát lên trước hết ở niềm
thương xót chân thành của nhà văn trước những cảnh đời đơn điệu, hắt hiu nơi phố huyện
nhỏ bé. Nhà văn xót xa bởi họ phải sống một cuộc sống vô nghĩa, họ đang tồn tại chứ
không phải đang sống bởi cuộc sống của họ quá buồn chán, lặp đi lặp lại những điều tẻ
nhạt chỉ vì cuộc sống mưu sinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

quá vãng… Cách kể chuyện tâm tình là một sáng tạo riêng của Thạch Lam góp phần tạo
nên sự độc đáo, hấp dẫn, góp phần làm nổi bật tinh thần nhân đạo của truyện.


Nhân vật trong tác phẩm Hai đứa trẻ không được xây dựng là những tính cách điển hình
mà được khám phá ở chiều sâu tâm trạng. Nghệ thuật phân tích tâm lí của ngịi bút Thạch
Lam tạo nên sự thành công của thiên truyện.Đối lập giữa ánh sáng và bóng tối tạo nên
những ám ảnh trong lịng người: bóng tối bao trùm tồn tác phẩm. Ngồi ý nghĩa tả thực
hình ảnh bóng tối rất ám ảnh. Cảnh phố phường chìm trong bóng tối được diễn tả chi tiết
khiến người đọc dễ liên tưởng tới xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.


Hai đứa trẻ là một truyện ngắn hấp dẫn người đọc bằng chính vẻ đẹp của cuộc sống
đời thường đã được khám phá, cảm nhận bằng chính ngịi bút tinh tế và giọng văn nhẹ


nhàng của tác giả. Hai đứa trẻ là một bài thơ trữ tình đượm buồn thể hiện những giá trị
nhân đạo mới mẻ và qua đó, chúng ta còn thấy được ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ
trang trọng trước sự sống.


<b>Bài làm 7</b>


Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, nhà văn đánh thức trong những tâm hồn mệt mỏi, cam
chịu những ước mơ mãnh liệt về một cuộc đời đẹp đẽ hơn, có ý nghĩa hơn. Nói cách khác,
đó là một lời nhắn gửi: ít ra thì trong cuộc sống tẻ nhạt, buồn chán, con người cũng phải
biết khao khát một điều gì đó; hãy cố gắng vượt lên, đừng buông xuôi theo số phận, đừng
để số phận chơn vùi, mỗi người có thể là vơ danh, song đừng sống vơ nghĩa.


Nhân đạo, lịng thương người (biểu hiện cụ thể: thấu hiểu, thơng cảm, xót thương,
nâng niu, trân trọng,... con người; lên án, phê phán những thế lực chà đạp con người).
Trước hết, qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, nhà văn đã phản ánh một cách chân thực về cuộc
sống mòn mỏi của những con người nơi phố huyện (mẹ con chị Tí, vợ chồng bác xẩm,
bác phở Siêu, cụ Thi điên,... đặc biệt là hai chị em Liên và An). Đặc điểm chung của
những con người này là phải sống một cuộc sống héo hắt, mòn mỏi trong hiện tại và có
những mong đợi mơ hồ về một tương lai xa xôi, gần như vô vọng. Viết về họ, nhà văn đã
thể hiện sự cảm thông và xót thương sáu sắc với những kiếp đời tàn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

niu một cách trìu mến những niềm vui, niềm hi vọng - dù mong manh - của những con
người nơi phố huyện vềmột cuộc sống hạnh phúc.


Đương thời, các nhà văn khác trong nhóm Tự lực văn đồn hăng hái viết những tác
phẩm đãphá lễ giáo phong kiến, cổ vũ cho tự do hôn nhân, hô hào cải cách xã hội. Các
nhà văn hiện thực như Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng,... cũng thể hiện tư tưởng
nhân đạo khi viết về con người, đặc biệt là người nông dân nhưng đối tượng mà họ hướng
tới là những "người lớn", nhân vật trung tâm của thời đại, với những vấn đề nóng hổi, lớn
lao như tình trạng con người bị bần cùng hoá, lưu manh hoầ; con người bị tha hoá bởi


đồng tiền;...


Truyện ngắn của Thạch Lam nói chung, Hai đứa trẻ nói riêng đã thể hiện những nét
đạc sắc trong tư tưởng nhân đạo của nhà văn. Đối tượng mà ông hướng tới là những kiếp
người nhỏ bé, đặc biệt là những đứa trẻ - những đối tượng tưởng như không phải là nhân
vật trung tâm của thời đại.


Qua tâm trạng của hai đứa trẻ, nhất là tâm trạng của Liên, tác phẩm thể hiện niềm xót
thương vơhạn đối với những kiếp người nhỏ bé, khơng bao giờ được biết đến ánh sáng và
hạnh phúc thực sự, đến trong ước mơ cũng chẳng biết ước mơ gì hơn một chuyên tàu đêm
vụt đi qua cái phố huyện tiêu điều, xơ xác của cuộc đời mình. Ơng đã phát hiện và trân
trọng những khát khao được đổi đời chính đáng của con người (dù chỉ trong giây lát),
nhất là ở những đứa trẻ - những mầm sống nhỏ nhoi đang có nguy cơ bị úa tàn trên mảnh
đất cằn cỗi.


Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, nhà văn đánh thức trong những tâm hồn mệt mỏi, cam
chịu những ước mơ mãnh liệt về một cuộc đời đẹp đẽ hơn, có ý nghĩa hơn. Nói cách khác,
đó là một lời nhắn gửi: ít ra thì trong cuộc sống tẻ nhạt, buồn chán, con người cũng phải
biết khao khát một điều gì đó; hãy cố gắng vượt lên, đừng bng xuôi theo số phận, đừng
để số phận chôn vùi, mỗi người có thể là vơ danh, song đừng sống vơ nghĩa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

- một con người nhân hậu, giàu tình thương, tinh tế, dịu dàng, nhạy cảm với nỗi buồn và
cái khổ của những người dân nghèo trong xã hội cũ.


Tác phẩm kết thúc nhưng còn để lại trong tâm hồn người đọc bao dư vị mơ hồ, man
mác mà ấm áp của tình quê hương, đúng như Nguyễn Tuân đã viết: "Đọc truyện ngắn Hai
đứa trẻ, thấy bận bịu vơ hạn về một tấm lịng q hương êm mát và sâu kín".


<b>Bài làm 8</b>



Thạch Lam là một cây bút nổi tiếng của văn học Việt Nam, thuộc nhóm Tự lực văn
đồn. Các tác phẩm của ơng ln ln chứa đựng những tình cảm ngọt ngào, sâu lắng về
cuộc sống thường ngày. Những câu chuyện mà ông kể thường khơng có cốt truyện, nó chỉ
xốy sâu vào nội tâm của nhân vật hay những mảnh đời cơ cực phải sống lầm lủi ngày
này qua tháng khác. Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm mang đậm phong cách của
nhà văn Thạch Lam. Đó là một bức tranh về phố huyện nghèo của Việt Nam được ông
dựng lên, ẩn sâu trong đó là một niềm cảm thương sâu sắc đối với những con người nơi
đây. Đó là điều đã tạo nên giá trị nhân đạo cho tác phẩm.


Thạch Lam là một cây bút nổi tiếng của văn học Việt Nam, thuộc nhóm Tự lực
văn đồn. Các tác phẩm của ơng ln ln chứa đựng những tình cảm ngọt ngào, sâu lắng
về cuộc sống thường ngày. Những câu chuyện mà ông kể thường khơng có cốt truyện, nó
chỉ xốy sâu vào nội tâm của nhân vật hay những mảnh đời cơ cực phải sống lầm lủi ngày
này qua tháng khác. Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm mang đậm phong cách của
nhà văn Thạch Lam. Đó là một bức tranh về phố huyện nghèo của Việt Nam được ông
dựng lên, ẩn sâu trong đó là một niềm cảm thương sâu sắc đối với những con người nơi
đây. Đó là điều đã tạo nên giá trị nhân đạo cho tác phẩm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

giả đã phát hiện những phẩm chất tốt đẹp bên trong những con người nơi đây, trân trọng
những khát vọng của những kiếp người lao động nghèo, đồng thời sâu kín trong đó là sự
lên án một xã hội thực dân Pháp thuộc đang đày ải người dân Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

nơi đây, thương cho cuộc sống quẩn quanh, tẻ nhạt, tù túng của những con người nơi phố
huyện nghèo.


Song bên cạnh đó, giá trị nhân đạo cịn thể hiện ở chỗ Thạch Lam phát hiện những
phẩm chất tốt đẹp bên trong những con người nơi phố huyện nghèo. Họ đều là những
người cần cù, chịu thương, chịu khó: Mẹ con chị Tí ngày mị cua bắt ốc, tối đến dọn hàng
nước dẫu chẳng bán được là bao. Hai chị em Liên thay mẹ trông coi gian hàng tạp hố.
Bác phở Siêu chịu khó bán phở gánh,…Khơng những là những con người cần cù để lo


cho cuộc sống đủ miếng cơm manh áo mà họ còn là những người giàu lịng thương u.
Dù khốn khó đấy, thiếu thốn nghèo khổ đấy nhưng họ vẫn ln u thương nhau, khơng
vì miếng ăn mà chà đạp, làm hại nhau. Họ còn là những con người giàu lòng trắc ẩn, yêu
thương những con người đồng cảnh ngộ với mình: Liên thương những đứa trẻ con nhà
nghèo phải "nhặt nhạnh" trên nền chợ tàn, dù rằng chính chi "cũng chẳng có tiền để cho
chúng"...


Chưa hết, giá trị nhân đạo cịn thể hiện ở sự tơn trọng của nhà văn trước những ước
mơ của người dân nghèo về một cuộc sống tốt đẹp, một tươi lai tươi sáng hơn. Ông trân
trọng những hoài niệm trong quá khứ tươi đẹp cunga như mơ ước trong tương lai của chị
em Liên "Hai chị em mong ước được thấy ánh sáng của đồn tàu, nhớ về q khứ tươi
đẹp khi gia đình cịn sống ở Hà Nội". Đồn tàu như đem đến cho hai chị em Liên “một
chút thế giới khác”. Ông muốn thức tỉnh những con người ở phố huyện nghèo, hướng họ
tới một cuộc sống tốt đẹp hơn, âm thanh chan hịa hơn khác với "tiếng trống thu khơng"
quạnh quẽ của phố huyện này. Đồng thời khi ông miêu tả một phố huyện nghèo của Việt
Nam thời Pháp thuộc là ông đang lên án chế độ xã hội cũ, không bảo đảm được quyền
sống cho con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

hiện sự tài hoa, xuất sắc của Thạch Lam trong viết truyện ngắn trước Cách mạng tháng
Tám 1945. Truyện còn lên án một xã hội đầy bóng tối, khơng cho con người thấy tương
lai.


</div>

<!--links-->

×