Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Hoạt động kiểm tra của bảo hiểm xã hội thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 126 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HÀ XUÂN DŨNG

HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

TP.HỒ CHÍ MINH – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HÀ XUÂN DŨNG

HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN QUỐC SỬU

TP.HỒ CHÍ MINH – 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã công
bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu,
phân tích một cách trung thực với sự kế thừa học hỏi, khách quan và phù hợp
với thực tiễn của Việt Nam.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hà Xuân Dũng


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành chương trình Cao học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
và viết luận văn tốt nghiệp, tơi đã nhận được hướng dẫn, giúp đỡ, góp ý nhiệt
tình và sự động viên của q thầy cơ tại Học viện Hành chính Quốc gia cùng với
gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.
Trước hết, tôi xin trân trọng bày tỏ sự kính trọng và lịng biết ơn tới các
Thầy, Cơ giáo tại Học viện hành chính quốc gia, đặc biệt là PGS.TS Nguyễn
Quốc Sửu - Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Hành chính Quốc gia, đã
nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập tại Học viện
cũng như quá trình thực hiện, hoàn thiện luận văn Cao học về đề tài “Hoạt
động kiểm tra của Bảo hiểm xã hội thành phố Hồ Chí Minh”.
Tơi xin gửi lời cảm ơn tới Ban Giám đốc, lãnh đạo và các đồng nghiệp tại

Bảo hiểm xã hội thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ, cung cấp số liệu về hoạt
động kiểm tra của cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố Hồ Chí Minh và tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian viết luận văn tốt nghiệp.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thiện luận văn bằng hết năng lực của mình nhưng
chắc chắn khơng thể tránh khỏi những sai sót, rất mong nhận được sự góp ý
q báu của q thầy cơ và các bạn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 02 năm 2018


DANH M C CÁC CHỮ VI

 BHTN : Bảo hiểm thất nghiệp
 BHXH : Bảo hiểm xã hội
 BHYT : Bảo hiểm y tế
 UBND: Ủy ban nhân dân

C


DANH M C CÁC ĐỒ THỊ, BẢNG BIỂU
Số hiệu
Hình/Bảng

Tên hình/bảng

Trang

Hình 1.1


Quy trình hoạt động kiểm tra

23

Hình 1.2

Giai đoạn chuẩn bị kiểm tra

23

Hình 1.3

Giai đoạn tiến hành kiểm tra

25

Hình 1.4

Giai đoạn kết thúc kiểm tra

27

Bảng 2.1

Thống kê kết quả kiểm tra các đơn vị từ năm 2013-2016

57

Bảng 2.2


Kết quả kiểm tra đơn vị sử dụng lao động từ năm 2013-2016.

58

Bảng 2.3

Kết quả kiểm tra đại lý thu đại diên chi trả từ năm 2013-2016.

61

Bảng 2.4

Kết quả kiểm tra cơ sở khám chữa bệnh từ năm 2013-2016

63


M CL C
Trang
MỞ ĐẦU……………………………………………………….…………

1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA
CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI…………………………………………………..

8

1.1. Một số vấn đề lý luận về hoạt động kiểm tra……................…….…


8

1.1.1. Khái niệm về kiểm tra………………………………….………..

8

1.1.2. Đặc điểm hoạt động kiểm tra…………………………….………

10

1.1.3. Vai trò của kiểm tra trong thực hiện pháp luật…………..………

11

1.2. Hoạt động kiểm tra của cơ quan BHXH…………………..………..

12

1.2.1. Một số nét khái quát về BHXH………………………………….

13

1.2.2. Khái niệm và đặc điểm hoạt động kiểm tra của cơ quan BHXH……..

17

1.2.3. Nội dung và hình thức kiểm tra của cơ quan BHXH………………….

21


1.2.4. Quy trình kiểm tra của cơ quan BHXH……………………………….

23

1.2.5. Vai trị hoạt động kiểm tra của cơ quan BHXH…………………..…..

30

1.3. Kinh nghiệm kiểm tra của BHXH ở một số tỉnh/thành phố…………..…

33

1.3.1. Kinh nghiệm của BHXH tỉnh Bình Phƣớc……………………....

33

1.3.2. Kinh nghiệm của BHXH tỉnh Đắk Lắk..........................................

34

1.3.3. Kinh nghiệm trong công tác phối hợp kiểm tra liên ngành của
BHXH thành phố Đà Nẵng……………………………………..

36

Tiểu kết Chƣơng 1…………………………………………..………….…

39

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA CỦA BẢO HIỂM

XÃ HỘI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH……………………………………..

40


2.1. Một số nét khái quát về BHXH thành phố Hồ Chí Minh………..…

40

2.1.1. Q trình hình thành và phát triển………………………...……..

40

2.1.2. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức………

41

2.2.

Thực trạng trạng pháp luật điểu chỉnh hoạt động kiểm tra của
BHXH thành phố Hồ Chí Minh.............................................................

45

2.2.1. Văn bản kiểm tra BHXH, BHYT của cơ quan Trung ƣơng..................

46

2.2.2. Văn bản kiểm tra của BHXH Việt Nam................................................


47

2.3. Thực trạng chủ thể, nội dung kiểm tra của BHXH thành phố Hồ Chí
Minh...........................................................................................................

49

2.3.1. Thực trạng chủ thể kiểm tra...................................................................

49

2.3.2. Nội dung kiểm tra..........................................................................

56

2.4. Thực trạng hình thức, phƣơng pháp kiểm tra của BHXH thành phố Hồ
Chí Minh....................................................................................................

64

2.4.1. Thực trạng hình thức kiểm tra...............................................................

64

2.4.2. Thực trạng phƣơng pháp kiểm tra.........................................................

66

2.5. Đánh giá kết quả hoạt động kiểm tra của BHXH thành phố Hồ Chí
Minh..........................................................................................................


68

2.5.1. Kết quả, ƣu điểm và nguyên nhân…………………………………….

68

2.5.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân……………….……………………..

73

Tiểu kết Chƣơng 2…………………………………….………..……………….

80

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HOẠT
ĐỘNG KIỂM TRA CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH HIỆN NAY......................................................................................

81


3.1. Phƣơng hƣớng bảo đảm hoạt động kiểm tra của BHXH thành phố Hồ
Chí Minh....................................................................................................

81

3.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động kiểm tra của cơ quan BHXH.....................

85


3.2.1. Nhóm giải pháp hồn thiện thể chế hoạt động kiểm tra........................

86

3.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao năng lực chủ thể
kiểm tra..................................................................................................

97

3.2.3. Nhóm giải pháp đổi mới hình thức, phƣơng pháp kiểm tra................... 104
3.2.4. Nhóm giải pháp tăng cƣờng bảo đảm kinh phí...................................... 105
3.2.5. Giải pháp khác.......................................................................................
Tiểu kết Chƣơng 3……………………………………………………….…….

105
110

KẾT LUẬN…………………………………………………….…………. 111
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………...………….. 113


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Tinh thần tương thân thương ái vốn là bản chất tốt đẹp của con người. Đó
chính là sự san sẻ, đùm bọc, cưu mang lẫn nhau của cộng đồng xã hội trước những
khó khăn, rủi ro trong cuộc sống đối với từng thành viên. Bên cạnh đó, sự trợ giúp
của cộng đồng xã hội đã dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức
khác nhau. Chính vì vậy, yếu tố đồn kết, nhân đạo đó đã đã tác động đến ý thức và
trách nhiệm của Nhà nước ở các chế độ xã hội khác nhau.

An sinh xã hội là sự bảo vệ của Nhà nước và xã hội đối với mọi người dân
thơng qua các chính sách, giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro
trước tác động tiêu cực của tự nhiên và xã hội nhằm đảm bảo cuộc sống ổn định của
mọi người dân, hòa nhập cộng đồng. Hiện nay, an sinh xã hội là một trong những
chính sách xã hội cơ bản thể hiện đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt
Nam hướng vào mục tiêu phát triển con người, nâng cao chất lượng cuộc sống của
Nhân dân. Ở nước ta, với đặc trưng của chế độ chính trị, yếu tố lịch sử, địa lý và
điều kiện kinh tế xã hội, có thể thấy cấu trúc của hệ thống an sinh xã hội gồm 03 trụ
cột: Bảo hiểm xã hội (bao gồm cả bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp); Ưu đãi xã
hội; Bảo trợ xã hội (bao gồm Trợ giúp xã hội và cứu trợ xã hội)[41]. Bảo hiểm xã
hội là một bộ phận trong chính sách An sinh xã hội của đất nước, đồng thời là trụ cột
chính của hệ thống an sinh xã hội. Điều này được thể hiện dựa trên cơ sở là đối
tượng tham gia bảo hiểm xã hội là lực lượng lao động xã hội-lực lượng đơng nhất và
có vai trị quyết định đối với sự ổn định, phát triển của một quốc gia và toàn thế
giới[42]. Do vậy, hệ thống bảo hiểm xã hội hoạt động hiệu quả thì mới có nền an
sinh xã hội vững mạnh.
Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế (BHXH,
BHYT) giai đoạn 2012-2020 đã khẳng định “BHXH và BHYT là hai chính sách xã
hội quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội góp phần thực hiện tiến

1


bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị-xã hội và phát triển kinh tế xã
hội”.
Thể chế hóa quan điểm của Đảng, Hiến pháp nước Cộng hịa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013, Điều 34 nêu rõ: “Cơng dân có quyền được bảo đảm An
sinh xã hội”, đồng thời Nhà nước xác định trách nhiệm của mình tại Điều 59 “Nhà
nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ

thống an sinh xã hội…”. Đây là một bước phát triển cao về quyền con người, làm
nền tảng cho việc phát triển luật pháp về An sinh xã hội ở nước ta[25]. BHXH,
BHYT là một hệ thống dự phòng do Nhà nước tao lập nên và dựa trên nghĩa vụ
BHXH (đã bao hàm chế độ bảo hiểm thất nghiệp-viết tắt :BHTN), BHYT có nhiệm
vụ ngăn ngừa rủi ro nhất định và điều tiết cân bằng toàn bộ hoặc từng phần mất
mát về thu nhập, những khoản chi phí khi gặp phải rủi ro không lường trước, nhằm
bảo đảm mục tiêu bình ổn xã hội.
Tuy nhiên, hiện nay tình trạng nợ đọng, trốn đóng BHXH, BHYT diễn ra liên
tục trong nhiều năm và chưa có xu hướng giảm, với mức độ ngày càng tinh vi,
phức tạp. Đồng thời, một số đối tượng lợi dụng kẻ hở của pháp luật có hành vi vi
phạm pháp luật nhằm trục lợi quỹ BHXH, BHYT. Điều này không chỉ gây thiệt hại
về tài sản cho cơ quan BHXH, gây rối loạn trong việc chi trả chế độ chính sách
BHXH, BHYT do việc chi trả tiền BHXH, BHYT không đúng với thực tế, gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quỹ BHXH, BHYT và việc thụ hưởng chính sách của
người lao động. Trên khía cạnh vĩ mơ, sự vi phạm chính sách pháp luật về BHXH,
BHYT ảnh hưởng rất lớn đến chính sách an sinh xã hội của đất nước và quyền đảm
bảo của công dân về an sinh xã hội.
Để bảo đảm chính sách BHXH, BHYT của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc
sống, góp phần vào an sinh xã hội của đất nước, các cơ quan Nhà nước và các đoàn
thể xã hội, bên cạnh tăng cường cơng tác tun truyền về chính sách pháp luật
BHXH, BHYT và sự nâng cao hiểu biết về quyền lợi, trách nhiệm của các cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong việc tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH, BHYT thì
hoạt động kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về chính sách BHXH, BHYT có ý

2


nghĩa quan trọng. Kiểm tra là hoạt động thường xuyên, tất yếu của cơ quan Nhà
nước nói chung và cơ quan BHXH nói riêng. Hoạt động kiểm tra của cơ quan
BHXH có mục tiêu đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của người tham gia BHXH,

BHYT, phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng tham gia BHXH,
BHYT trên cơ sở đó có biện pháp uốn nắn, chấn chỉnh và xử lý kịp thời, nghiêm
minh các trường hợp vi phạm pháp luật. Thực tiễn cho thấy nếu hoạt động kiểm tra
và xử lý vi phạm pháp luật về BHXH, BHYT được thực hiện một cách nghiêm túc,
có hiệu quả sẽ làm tăng tính tự giác tn thủ pháp luật về BHXH, BHYT. Ngược
lại, nếu hoạt động này lỏng lẻo, không coi trọng sẽ là điều kiện làm lan nhanh sự
không tuân thủ pháp luật về BHXH, BHYT, hậu quả không chỉ ảnh hưởng đến sự
thụ hưởng chính sách BHXH, BHYT của người tham gia mà cịn tạo ra sự bất công
đối với đối tượng chấp hành tốt nghĩa vụ chính sách BHXH, BHYT.
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng và
là đô thị đặc biệt lớn nhất Việt Nam cả về diện tích, dân số và chỉ tiêu phát triển
kinh tế-xã hội. BHXH thành phố Hồ Chí Minh là cơ quan trực thuộc BHXH Việt
Nam đặt tại thành phố Hồ Chí Minh, có chức năng giúp Tổng Giám đốc BHXH
Việt Nam tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT và quản lý quỹ
BHXH, BHYT trên địa bàn Thành phố theo quy định của pháp luật. Trong những
năm qua, hoạt động kiểm tra của BHXH Thành phố Hồ Chí Minh đã được coi
trọng theo đúng với vị trí, chức năng của nó. Thơng qua hoat động kiểm tra, cơ
quan BHXH thành phố Hồ Chí Minh đã ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những hành
vi vi phạm pháp luật; hạn chế, răn đe những hành vi vi phạm của các đối tượng
quản lý và khắc phục những kẽ hở của chính sách, pháp luật. Tuy nhiên, trong q
trình triển khai thực hiện vẫn cịn những tồn tại, hạn chế, những điểm bất cập này
cần được khắc phục, hoàn thiện như: Năng lực kiểm tra chưa đáp ứng qua thực tế;
phạm vi kiểm tra chưa bao phủ hết các mặt hoạt động; quy trình kiểm tra chưa
hồn thiện và đầy đủ; kết luận kiểm tra cịn mang tính chung chung... Mặt khác,
việc nghiên cứu về đề tài này tại BHXH thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa được
tiến hành. Vì vậy, học viên quyết định chọn đề tài: “Hoạt động kiểm tra của Bảo

3



hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh” là đề tài luận văn của mình với mong
muốn đem lại một số nét khái quát về hoạt động kiểm tra của ngành BHXH nói
chung và hoạt động kiểm tra tại BHXH Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Đồng
thời đánh giá lại hoạt động kiểm tra tại BHXH Thành phố Hồ Chí Minh để từ đó đề
xuất những giải pháp hồn thiện hoạt động kiểm tra, góp phần thúc đẩy sự phát
triển của Ngành.
2. Tình hình nghiên cứu
Xuất phát từ vị trí, vai trị của cơng tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động
quản lý nhà nước, ở nước ta nhiều năm qua đã có nhiều luận án, luận văn, bài viết,
cơng trình nghiên cứu khoa học xoay quanh vấn đề này từ nhiều khía cạnh và mức
độ khác nhau.
Thứ nhất, Cơng trình nghiên cứu lý thuyết về vấn đề nghiên cứu.
+ Giáo trình quản lý học đại cương (2015), Học viện Hành chính Quốc gia,
Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
+ Giáo trình thanh tra và giải quyết khiếu nại hành chính (2011), Học viện
hành chính, Nxb khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
+ Quyền an sinh xã hội và đảm bảo thực hiện trong pháp luật Việt Nam
(2014), PGS.TS Lê Thị Hoài Thu, Nxb.Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
+ Đổi mới và phát triển Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam (2015), TS Dương Văn
Thắng, Nxb.Văn hóa – Thơng tin, Hà Nội.
Trong các tác phẩm này đã cung cấp hệ thống kiến thức lý luận cơ sở cho tác
giả về chức năng kiểm tra trong quản lý; phân biệt Công tác thanh tra và kiểm tra;
kiến thức về an sinh xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội nói riêng; bảo đảm quyền
an sinh trong thực hiện pháp luật ở Việt Nam.
Thứ hai, Cơng trình nghiên cứu ứng dụng.
- Luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý công “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn trong tổ chức và hoạt động của thanh tra ở Việt Nam” của tác giả Lê Thị Thu
Oanh (2004);

4



- Luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý công “Tổ chức và hoạt động của
thanh tra khoa học công nghệ” của tác giả Trần Văn Nho (2011);
- Luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý kinh tế “Hoàn thiện công tác kiểm
tra, thanh tra thuế đối với doanh nghiệp tại Cục thuế Hà Tĩnh” của tác giả Nguyễn
Cảnh Bảy (2014);
Các luận văn trên đa phần nghiên cứu các vấn đề thanh tra, kiểm tra tại cơ
sở và đã nêu bật được thực trạng và các giải pháp chung liên quan đến thanh tra,
kiểm tra ngành hoặc tại cơ sở. Tuy nhiên, các đề tài này chỉ tập trung phân tích
thực trạng ngành và vai trị của thanh tra, kiểm tra của từng ngành cụ thể.
Thứ ba, Những bài báo khoa học, tạp chí chuyên ngành.
+ Bài viết “Nhận diện một số thủ đoạn thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực BHXH và biện pháp phòng ngừa”, Thạc sĩ Phan Tiến Anh, Trường
Cao đẳng Cảnh sát nhân dân II, tại www.tapchibaohiemxahoi.gov.vn đăng ngày
14/4/2017.
Bài viết trên đã nêu lên thực trạng các thủ đoạn hành vi vi phạm pháp luật
về BHXH, BHYT đối với các đối tượng vi phạm. Đồng thời, tác giả nêu lên các
biện pháp ngừa vi phạm pháp luật, trong đó tác giả nhấn mạnh đến việc thanh tra,
kiểm tra tại các doanh nghiệp-nơi có tình trạng xảy ra phổ biến và tinh vi nhất.
Nhìn chung, các bài viết, cơng trình khoa học đã tập trung nghiên cứu về công
tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan Nhà nước ở các khía cạnh khác nhau theo sự thay
đổi của pháp luật về hoạt động này. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có một cơng trình
khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về cả lý luận lẫn thực tiễn đối với vấn đề hoạt
động kiểm tra của BHXH Thành phố Hồ Chí Minh. Là một viên chức cơng tác trong
ngành BHXH, với mong muốn tìm hiểu một cách tương đối toàn diện, hệ thống về
hoạt động kiểm tra của BHXH Thành phố Hồ Chí Minh, tơi chọn đề tài này để đưa
ra các nhận định, giải pháp góp phần tiếp tục bảo đảm hoạt động kiểm tra tại cơ
quan BHXH Thành phố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu

5


Trên cơ sở hệ thống hóa các vấn đề lý luận, luận văn nghiên cứu, đánh giá thực
trạng hoạt động kiểm tra tại BHXH thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đề xuất những
giải pháp khả thi nhằm bảo đảm hoạt động kiểm tra tại BHXH Thành phố Hồ Chí
Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, đề tài có những nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, hệ thống hóa những vấn đề lý luận về hoạt động kiểm tra nói
chung và hoạt động kiểm tra của ngành BHXH nói riêng.
- Thứ hai, phân tích, đánh giá đúng thực trạng hoạt động kiểm tra tại BHXH
thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó chỉ ra nguyên nhân những ưu điểm, tồn tại, thiếu sót và
rút ra những kinh nghiệm trong hoạt động kiểm tra của BHXH thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay;
- Thứ ba, đề xuất những giải pháp khả thi nhằm bảo đảm hoạt động kiểm tra
của BHXH Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Quy định pháp luật và hoạt động thực hiện pháp luật về kiểm tra của BHXH
Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng: Do khn khổ của luận văn có hạn nên tác giả tập trung
nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và những vấn đề thực tiễn có liên quan đến
cơng tác kiểm tra với đối tượng là đơn vị sử dụng lao động; đại lý thu đại diện chi
trả và tổ chức khám bệnh, chữa bệnh BHYT.
- Về không gian: địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
- Về thời gian: từ 2013 đến tháng 10 năm 2017.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Triết
học Mác – Lê nin.

6


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích – tổng hợp
trong việc nghiên cứu các quy định của pháp luật liên quan tới hoạt động kiểm tra và
tác động của hoạt động này tới thực tiễn.
Phương pháp thống kê và mô hình hóa số liệu dưới dạng bảng, biểu c ng
được sử dụng để tìm hiểu chất lượng và số lượng về hoạt động kiểm tra tại BHXH
thành phố Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Hệ thống hóa, làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạt động kiểm tra của cơ quan
BHXH và đi đến thống nhất về nhận thức trong quá trình xây dựng và thực hiện hoạt
động kiểm tra của Ngành BHXH hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Làm sáng tỏ những ưu điểm, hạn chế về hoạt động kiểm tra của BHXH
Thành phố Hồ Chí Minh đối với các đối tượng tham gia BHXH, BHYT (cụ thể là
các đơn vị sử dụng lao động; đại lý thu đại diện chi trả và cơ sở khám chữa bệnh
BHYT) hiện nay. Tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm hoạt động kiểm
tra của BHXH Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó có thể áp dụng để bảo đảm
hoạt động kiểm tra của ngành BHXH.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với sinh viên, học
viên chuyên ngành Luật hiến pháp và luật hành chính và những ai quan tâm.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm có 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động kiểm tra của bảo hiểm xã hội
Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm tra của Bảo hiểm xã hội thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp bảo đảm hoạt động kiểm tra của Bảo
hiểm xã hội thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

7


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA
CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI

1.1. Một số vấn đề lý luận về hoạt động kiểm tra
1.1.1. Khái niệm về kiểm tra
Kiểm tra là một trong các chức năng của quy trình quản lý. Đồng thời, đó là
một trong những cơng việc thường xuyên, quan trọng của bất cứ nhà quản lý nào.
Thông qua chức năng kiểm tra mà chủ thể quản lý nắm bắt và điều chỉnh kịp thời
các hoạt động của đối tượng quản lý nhằm thực hiện tốt các mục tiêu của tổ chức đã
xác lập.
Hiện nay, Nhà nước ta chưa có văn bản quy phạm pháp luật có định nghĩa cụ
thể về kiểm tra nhưng trên phương diện lý luận thực tiễn thì kiểm tra là khái niệm
rộng thể hiện ở nhiều góc độ như:
Theo Từ điển tiếng pháp luật Anh-Việt thì kiểm tra là “xem xét tình hình thực
tế để đánh giá, nhận xét”[54]. Từ khái niệm này có thể hiểu kiểm tra là những hành
vi nhằm mục đích xem xét về mặt thực chất và thực tế theo yêu cầu của chủ thể
kiểm tra và để chỉ hoạt động của chủ thể tác động vào đối tượng kiểm tra (có thể
trực thuộc hoặc khơng trực thuộc).

Thuyết quản lý hành chính của Henry Fayol định nghĩa kiểm tra như sau: “
Kiểm tra là nắm vững tình hình tiến triển của cơng việc, sự phù hợp của nó so với kế
hoạch đã định nhằm phát hiện những khiếm khuyết trong công việc, áp dụng các
biện pháp điều chỉnh cần thiết, sửa chữa khuyết điểm để đảm bảo thực hiện thuận lợi
mục tiêu đề ra”[37].
Theo Harol Koontz: “Kiểm tra là đo lường và chấn chỉnh hoạt động các bộ
phận cấp dưới để tin chắc rằng các mục tiêu và kế hoạch thực hiện mực tiêu đó đã
đang được hoàn thành”[23].
Theo Nguyễn Hữu Luận (Khoa Nhà nước và Pháp luật-Học viện Hành chính
Quốc gia), kiểm tra là một khái niệm rộng, được thể hiện ở nhiều góc độ:

8


+ Kiểm tra là hoạt động thường xuyên của từng cơ quan Nhà nước, tổ chức
chính trị-xã hội, tổ chức kinh tế nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của chính mình.
Qua kiểm tra các cơ quan, tổ chức đánh giá đúng mực việc làm của mình, từ đó đề ra
chủ trương, biện pháp, phương hướng hoạt động tiếp theo một cách hợp lý hơn.
Trong trường hợp này, kiểm tra mang ý nghĩa xem xét, nhìn lại việc làm của chính
mình để tự điều chỉnh, hay tìm biện pháp thực hiện nhiệm vụ tốt hơn hiệu quả hơn.
+ Kiểm tra là hoạt động của cơ quan, tổ chức, thủ trưởng cấp trên với cấp
dưới của mình nhằm đánh giá mọi mặt hoặc từng vấn đề do cấp dưới đã thực hiện.
Trong trường hợp này, kiểm tra thực hiện trong quan hệ trực thuộc, vì thế cơ quan
hoặc thủ trưởng cấp trên sau khi kiểm tra có quyền áp dụng các biện pháp như: biểu
dương, khen thưởng khi cấp dưới làm tốt hoặc các biện pháp cưỡng chế để xử lý đối
với cấp dưới khi họ có khuyết điểm hoặc vi phạm pháp luật.
+ Kiểm tra là hoạt động của các cơ quan Đảng, các tổ chức xã hội, các tổ
chức quần chúng tham gia hoạt động giám sát công việc hành chính nhà nước.
Trong trường hợp này, kiểm tra hầu như khơng mang tính quyền lực nhà nước;
khơng trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế mà chỉ tác động đến hoạt động

quản lý nhà nước bằng những biện pháp mang tính xã hội [58].
Từ các khái niệm trên chúng ta thấy rằng kiểm tra bao gồm các yếu tố sau:
- Chủ thể kiểm tra: đây là tác nhân tạo ra các tác động kiểm tra, bao gồm cá
nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền trong tổ chức
- Đối tượng kiểm tra: đây là các thực thể tiếp nhận tác động từ chủ thể kiểm
tra. Đối tượng kiểm tra có thể là cá nhân hoặc tổ chức có trách nhiệm thực thi công
việc, nhiệm vụ trong tổ chức.
- Khách thể kiểm tra: là những hoạt động, hành vi của đối tượng kiểm tra.
- Mục tiêu kiểm tra: là sự nhận định, đánh giá, xử lý trong hoạt động, hành vi
của đối tượng kiểm tra.
Từ những nội dung trên, ta có thể hiểu khái niệm kiểm tra như sau: “Kiểm tra
là hoạt động của chủ thể quản lý nhằm tiến hành xem xét, đánh giá, xử lý hoạt động

9


của đối tượng quản lý trên cơ sở phù hợp hay không phù hợp với trạng thái định
trước”
Kiểm tra vốn là một chức năng quản lý, một chu trình quản lý, do vậy mọi
chủ thể quản lý của tổ chức trong quá trình hoạt động đều phải tiến hành kiểm tra ở
một mức độ nhất định. Chủ thể kiểm tra thuộc các cấp bậc khác nhau trong tổ chức
thì quy mơ, tính chất và nội dung kiểm tra sẽ khác nhau. Việc tiến hành kiểm tra một
cách tích cực sẽ giúp cho các hoạt động của tổ chức làm đúng theo những chuẩn
mực, quy tắc và quy định của tổ chức. Chính vì vậy, kiểm tra là phải được tiến hành
thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình quản lý.
Kiểm tra là một chức năng cuối cùng của quá trình quản lý: kế hoạch, tổ
chức, nhân sự, lãnh đạo và kiểm tra (hay kiểm sốt)[37]. Kiểm tra khơng phải là
chức năng thứ yếu mà ngược lại là một chức năng quan trọng, nó có ý nghĩa to lớn
trong q trình quản lý. Do vậy, trong quá trình kiểm tra cần phải công khai, minh
bạch để đảm bảo các kế hoạch được thực hiện đầy đủ, đúng tiến độ nhằm đáp ứng

hoặc vượt các mục tiêu đã định.

1.1.2. Đặc điểm hoạt động kiểm tra
Thứ nhất, kiểm tra là một quá trình trong hoạt động quản lý. Quản lý là một
quá trình nhằm hướng tổ chức tới mục tiêu định trước. Quá trình quản lý bao gồm
các chức năng: Kế hoạch; tổ chức; nhân sự; lãnh đạo; kiểm tra[37]. Kiểm tra là một
chức năng trong hoạt động quản lý nhằm hướng đến mục tiêu chung. Do vậy, đây là
một quá trình trong hoạt động quản lý của tổ chức nhằm đảm bảo cho tổ chức đạt
được mục tiêu đã xác định
Thứ hai, tính thường xuyên, liên tục. Hoạt động quản lý trong tổ chức được
tiến hành thường xuyên, liên tục nhằm đạt tới mục tiêu của tổ chức. Do vậy, để đảm
bảo được điều này thì mọi chức năng trong quá trình quản lý phải được tiến hành
thường xuyên, liên tục. Chính vì vậy, đây c ng chính là đặc điểm thường xuyên liên
tục của hoạt động kiểm tra, trong đó bao gồm hoạt động kiểm tra của chủ thể kiểm
tra và quá trình tự kiểm tra của đối tượng kiểm tra nhằm đạt được mục tiêu chung.

10


Thứ ba, tính độc lập khách quan. Hoạt động kiểm tra tuy là một chức năng
của quản lý, tuy nhiên trong q trình kiểm tra đồi hỏi phải có tính độc lập khách
quan so với các chức năng khác nhằm điều chỉnh chính xác những sai lệch trong q
trình thực hiện tránh ảnh hưởng đến mục tiêu chung của tổ chức.
Thứ tư, tính tồn diện, hệ thống. Hoạt động kiểm tra bao quát tất cả mọi hoạt
động chủ yếu của tổ chức, đây không phải đơn thuần kiểm tra từng chức năng riêng
lẻ. Kiểm tra bao gồm một chuỗi những hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý các tiêu
chí theo một trình tự nhất định, bao qt tồn bộ môi trường hệ thống của tổ chức.
Kết quả kiểm tra nhằm chỉ ra những nhận định, đánh giá, xử lý và có những cải tiến
cần thiết nhất. Chúng được thể hiện thành một kế hoạch các biện pháp chấn chỉnh
trong cả ngắn hạn lẫn dài hạn nhằm để nâng cao hiệu quả chung của tổ chức.


1.1.3. Vai trò của kiểm tra trong thực hiện pháp luật
Hoạt động quản lý Nhà nước là hoạt động ban hành văn bản pháp luật và tổ
chức thực hiện chính sách pháp luật. Kiểm tra là một chức năng của quản lý Nhà
nước, do vậy kiểm tra có vai trị quan trọng trong thực hiện pháp luật.
Thứ nhất, kiểm tra là phương thức bảo đảm pháp chế.
Hành vi vi phạm pháp luật đã, đang và vẫn cịn là một thực tế với nhiều hình
thức, phạm vi và lý do khác nhau. Thông qua hoạt động kiểm tra, chủ thể kiểm tra
đánh giá được đối tượng kiểm tra trong việc thực hiện, chấp hành pháp luật có vi
phạm pháp luật hay khơng, vi phạm ở mức độ nào... Từ đó đề ra những biện pháp xử
lý thích hợp[8]. Do vậy, kiểm tra là một phương thức bảo đảm pháp chế. Nguyên tắc
pháp chế là việc chấp hành pháp luật cả từ phía các cơ quan Nhà nước và từ phía các
cá nhân, tổ chức là đối tượng chịu sự quản lý của Nhà nước. Một mặt, Các cơ quan
Nhà nước tuân thủ pháp luật thể hiện ở việc các cán bộ, công chức, viên chức Nhà
nước thực thi đúng chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà pháp luật đã quy
định. Mặt khác, các đối tượng quản lý, mọi công dân, cá nhân, tổ chức trong mọi
mặt của đời sống kinh tế-xã hội đều phải thực hiện theo các quy định của pháp luật.
Với tư cách là một chức năng của quản lý Nhà nước, kiểm tra chính là hoạt động
xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức cá nhân có đúng chính sách, pháp luật

11


hay không. Nếu đối tượng làm sai hoặc làm chậm thì giúp đối tượng đó sửa chữa và
làm cho đúng. Mục đích của kiểm tra là phát huy nhân tố tích cực, phịng ngừa xử lý
những vi phạm, bảo đảm để các cơ quan, tổ chức và cá nhân tuân thủ và chấp hành
một cách chính xác, đầy đủ và nghiêm chỉnh pháp luật Nhà nước.
Thứ hai, kiểm tra là một biện pháp ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những hành
vi vi phạm pháp luật.
Kiểm tra là hoạt động phân tích, mổ xẻ một cách sâu sắc, đầy đủ nhất các

nguyên nhân, động cơ, mục đích, tính chất, mức độ của một hành vi vi phạm pháp
luật[36]. Do vậy, ngoài các giải pháp như các đề nghị, kiến nghị, u cầu…được đưa
ra thì hoạt động kiểm tra khơng chỉ hướng vào việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật
mà nó phát hiện được mà cịn có tác dụng khắc phục các kẽ hở của chính sách, pháp
luật, ngăn ngừa tận gốc mầm mống phát sinh những vi phạm pháp luật tương tự xảy
ra ở một nơi khác hoặc vào một thời điểm khác. Đồng thời, công tác kiểm tra ln
có tính định hướng và tính xây dựng[36]. Vai trò phòng ngừa của kiểm tra được đề
cập ở đây là vai trị phịng ngừa mang tính chủ động. Trong rất nhiều trường hợp
kiểm tra mà có thể dự báo được một hành vi vi phạm pháp luật sẽ xảy ra trong tương
lai nếu khơng có sự chấn chỉnh, khơng có sự định hướng lại cho các đối tượng một
cách kịp thời.
Thứ ba, kiểm tra là cơ sở hoàn thiện chính sách pháp luật
Xã hội ln vận động và phát triển, do vậy pháp luật không bao giờ đủ để
điều chỉnh quan hệ xã hội vốn rất nhiều, đa dạng và phong phú[38]. Thông qua hoạt
động kiểm tra những lỗ hổng trong chính sách pháp luật dần bộc lộ, phơi bày.
Những lỗ hổng, kẽ hở trong chính sách pháp luật c ng chính là cơ hội cho những đối
tượng có hành vi vi phạm pháp luật nhằm trốn tránh trách nhiệm và trục lợi. Do vậy,
các giải pháp mà các chủ thể kiểm tra đưa ra không chỉ hướng vào các hành vi vi
phạm mà còn là cơ sở khắc phục những sơ hở, bất cập trong chính sách pháp luật
của Nhà nước[36].

1.2. Hoạt động kiểm tra của cơ quan BHXH

12


1.2.1. Một số nét khái quát về BHXH
1.2.1.1. Sự cần thiết khách quan và bản chất của BHXH
BHXH là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm và đến nay đã
được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. So với các loại hình bảo hiểm khác thì

đối tượng, chức năng và tính chất của BHXH có những điểm khác biệt do bản chất
của nó chi phối.
Tinh thần tương thân tương ái vốn là bản chất tốt đẹp của con người, nhất là
khi đối mặt với những rủi ro trong đời sống. Tuy nhiên, cuộc sống của con người lại
phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên và môi trường sống và đôi khi có những
điều kiện tự nhiên và xã hội khơng thuận lợi (thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh...) đã
làm cho một bộ phận người dân rơi vào tình cảnh bất lợi, bên cạnh những biện pháp
tự khắc phục thì con người ln cần phải có sự trợ giúp nhất định từ xã hội để bảo
đảm cuộc sống bình thường. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới
nhiều hình thức khác nhau và được thể hiện thơng qua những hội cứu tế, hội tương
trợ của những nhóm xã hội khác nhau. Tinh thần đoàn kết, nhân đạo đã tác động tích
cực đến vai trị và trách nhiệm của Nhà nước ở các chế độ xã hội khác nhau.
Hệ thống an sinh xã hội ra đời sớm nhất ở Châu Âu, được đánh dấu bằng
Luật Cứu trợ người nghèo ở nước Anh từ thế kỷ XVI. Nền kinh tế hàng hố phát
triển, việc th mướn nhân cơng trở nên phổ biến thì mối quan hệ kinh tế giữa người
lao động làm thuê và giới chủ c ng trở nên phức tạp. Sự hụt hẫng tiền lương của
những người lao động làm thuê trong các trường hợp bị ốm đau, bệnh tật, tai nạn,
mất việc…đã trở thành mối đe dọa đối với cuộc sống của những người lao động này
khi khơng có nguồn thu nhập khác ngồi lương[41]. Khi đứng trước sự bắt buộc
phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc những người làm công
ăn lương tìm cách khắc phục bằng những hành động tương trợ lẫn nhau như lập các
quỹ tương tế, các hội đồn. Đồng thời, những người lao động địi hỏi giới chủ và
Nhà nước phải có biện pháp để trợ giúp trước những mối đe dọa đó nhằm bảo đảm
cuộc sống của họ. Do vậy, Nhà nước với vai trò quản lý tồn bộ xã hội của mình đã
phải đứng ra can thiệp. Sự can thiệp của Nhà nước đã buộc cả giới chủ và giới công

13


nhân phải đóng góp một khoản tiền nhất định trong khoản thời gian xác định và

được tính tốn chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê.
Số tiền đóng góp của cả chủ và giới cơng nhân hình thành một quỹ tiền tệ tập trung
trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần
thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi.
Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động
được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình ngày càng được đảm bảo ổn
định. Bên cạnh đó, giới chủ c ng thấy mình có lợi vì hoạt động sản xuất kinh doanh
diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn khơng cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ
tiền tệ tập trung được thiết lập và được sự bảo trợ của Nhà nước ngày càng lớn và
nhanh chóng. Nguồn quỹ này giúp cho khả năng giải quyết các phát sinh lớn của
quỹ ngày càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ như trên
được quan niệm là BHXH đối với người lao động. Như vậy, BHXH là sự đảm bảo
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải
những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình
thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung dưới sự bảo trợ của Nhà nước nhằm đảm
bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần bảo đảm an tồn xã hội.
Tại Việt Nam, Luật BHXH năm 2014 nêu khái niệm về BHXH như sau “BHXH là
sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị
giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”[32].
Với cách hiểu như trên, bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung
chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất
là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ
thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế thị trường càng phát
triển thì BHXH càng đa dạng và hồn thiện. Vì vậy, kinh tế được xem là nền tảng
của BHXH và BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước.

14



Thứ hai, mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ
lao động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, cơ quan BHXH và bên được
BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và
người sử dụng lao động. Cơ quan BHXH (bên tổ chức thực hiện BHXH) thông
thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là
người lao động và thân nhân của người lao động khi có đủ các điều kiện ràng buộc
cần thiết.
Thứ ba, những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động trong BHXH có
thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: mất
việc, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Hoặc c ng có thể là những trường
hợp xảy ra khơng hồn tồn ngẫu nhiên như: Tuổi già, thai sản v.v . Đồng thời,
những rủi ro về lao động có thể diễn ra cả trong và ngồi q trình lao động.
Thứ tư, phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải
những rủi ro, bất thường sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập
trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng góp là chủ
yếu, bên cạnh đó cịn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.
Thứ năm, BHXH có mục tiêu là nhằm thảo mãn những nhu cầu thiết yếu của
người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu
của BHXH đã được tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hoá như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu
cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu
đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Từ mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền con người và
được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên ngôn Nhân quyền
ngày 10/12/1948 rằng: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có
quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh

tế, xã hội và văn hoá nhu cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người”[24].

15


Ở nước ta, BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách an sinh xã hội.
Ngồi BHXH, chính sách an sinh xã hội cịn có; cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội.
Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều
kiện sinh sống khác đối với mọi thành viên của xã hội, trong những trường hợp bị
bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, khơng đủ khả năng để tự lo cuộc sống tối thiểu của bản
thân và gia đình. Sự giúp đỡ này được thực hiện bằng các nguồn quỹ dự phòng của
Nhà nước, bằng tiền hoặc hiện vật đóng góp của các tổ chức xã hội và những người
hảo tâm.
Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt cả về vật chất và tinh thần của Nhà nước,
của xã hội nhằm đền đáp công lao đối với những người hay một bộ phận xã hội có
nhiều cống hiến cho xã hội. Chẳng hạn những người có công với nước, liệt sĩ và
thân nhân liệt sĩ, thương bệnh binh v.v . đều là những đối tượng được hưởng sự đãi
ngộ của Nhà nước và xã hội. Ưu đãi xã hội tuyệt nhiên không phải là sự bố thí, ban
ơn mà nó là một chính sách xã hội có mục tiêu chính trị-xã hội, góp phần c ng cố
thể chế chính trị của Nhà nước trước mắt và lâu dài, đảm bảo sự công bằng xã hội.
Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về đối tượng, phạm vi và cách thức thực
hiện, song BHXH, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội đều là những chính sách xã hội
không thể thiếu được của một quốc gia hiện nay. Những chính sách này ln bổ
sung cho nhau, hỗ trợ nhau và tất cả đều góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
1.2.1.2. Sự ra đời và phát triển của BHXH
BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền cơng nghiệp và kinh tế
hàng hố đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước châu Âu. Từ năm 1883, ở nước
Phổ (Cộng hòa liên bang Đức ngày nay) đã ban hành luật BHYT. Châu Âu và Bắc
Mỹ mãi đến cuối năm 1920 mới có đạo luật về BHXH.
Ở Việt Nam, BHXH đã có mầm mống từ những năm 30 của thế kỷ XX dưới

thời phong kiến và Pháp thuộc. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hồ-nay là Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ban
hành sắc lệnh số 29/SL ngày 12/3/1947 thực hiện bảo hiểm ốm đau, tai nạn lao động
và hưu trí. Các chế độ này được thực hiện đối với những người làm việc trong các

16


×