Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

một số giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong cơ quan bảo hiểm xã hội thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.33 KB, 92 trang )

32

MỞ ĐẦU
1.

Lý do nghiên cứu đề tài
Từ khi ra đời cho đến nay, chế độ bảo hiểm Xã hội (BHXH) luôn phát huy

được tác dụng tích cực của mình, từng bước khẳng định đây là biện pháp hỗ trợ
cho người lao động một cách ổn định nhất, chắc chắn nhất khi họ bị mất hoặc
giảm thu nhập.
Chế độ BHXH phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế – xã hội
của đất nước. Chính sách BHXH hiện nay được mở rộng đến mọi người lao động
thuộc các thành phần kinh tế. Vì thế, số người lao động tham gia BHXH ngày
càng tăng.
Trong số các đơn vị BHXH ở Việt Nam, BHXH Thành phố Hồ Chí Minh
(TP HCM) là đơn vị BHXH có mức đóng góp vào Quỹ BHXH Việt Nam cao
nhất. Với địa bàn quản lý rộng, số lượng các doanh nghiệp nhiều, đa dạng và
ngày càng phát triển đang là một vấn đề khó khăn đặt ra cho Cơ quan trong quá
trình quản lý hoạt động BHXH.
Tất cả các lý do trên đòi hỏi Cơ quan BHXH TP HCM phải có một hệ
thống kiểm soát nội bộ (KSNB) hữu hiệu. Việc dựa trên các lý thuyết hiện đại
về KSNB để hoàn thiện hệ thống KSNB tại Cơ quan BHXH TP HCM là yêu cầu
tất yếu.
Thách thức của đề tài là nghiên cứu việc ứng dụng KSNB trong một đơn
vị hành chính sự nghiệp hoạt động trong hệ thống các chính sách pháp lý của
Việt Nam. Các kết quả của đề tài được mong đợi sẽ đóng góp một phần vào
việc hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn cho hoàn thiện KSNB trong các khu
vực công ôû Vieät Nam.



33

2.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn này tâïp trung nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ tại Cơ quan

BHXH Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó hai hoạt động đáng quan tâm là thu và
chi BHXH.
3.

Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu nhằm để ứng dụng vào hoạt động quản lý tại đơn vị hành

chính sự nghiệp, mục đích chính là:
-

Hệ thống hóa các lý luận cơ bản về KSNB trong đơn vị hành chính

sự nghiệp, một vấn đề còn ít được đề cập đến trong hoạt động quản lý tại Việt
Nam. Xem xét các yêu cầu của KSNB đối với hoạt động BHXH.
-

Khảo sát, đánh giá thực trạng hệ thống KSNB tại Cơ quan BHXH

TP HCM. Đặc biệt đối với hoạt động thu và chi BHXH tại Cơ quan BHXH TP
HCM.
-

Trên cơ sở phân tích các ưu, nhược điểm nghiên cứu đề xuất các


giải pháp hoàn thiện hệ thống KSNB đối với hoạt động BHXH tại Cơ quan
BHXH TP HCM.
4.

Phương pháp luận nghiên cứu

Trong phần đánh giá thực trạng, chúng tôi phải tiến hành các cuộc khảo sát
như sau:
Sử dụng Bảng câu hỏi về hệ thống KSNB để khảo sát thực trạng
KSNB đối với hoạt động BHXH tại Cơ quan BHXH TP HCM.
-

Thảo luận với một số lãnh đạo và cán bộ tại Cơ quan BHXH TP

HCM về một số thuận lợi và khó khăn trong việc quản lý các rủi ro hoạt động
thu và chi BHXH. Đồng thời, trao đổi các biện pháp KSNB hiện tại đang áp
dụng tại Cơ quan và cũng như những giải pháp KSNB trong tương lai.


34

-

Tổng hợp các tài liệu hội thảo và tạp chí liên quan đến ngành để

rút ra các nguyên nhân dẫn đến các rủi ro hoạt động BHXH và các bài học kinh
nghiệm từ các quốc gia khác.
Tóm lại, toàn bộ đề tài sử dụng chủ yếu phương pháp quy nạp, dựa trên
khảo sát để rút ra nguyên tắc chung và kết hợp một số kỹ thuật thống kê, phân

tích định lượng để làm cơ sở cho các kết luận.
5.

Nội dung đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài bao gồm 3 chương:

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI
BỘ TRONG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ
TẠI CƠ QUAN BẢO HIỂM XÃ HỘI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG KIỂM SOÁT
NỘI BỘ TRONG CƠ QUAN BẢO HIỂM XÃ HỘI THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH.


35

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ
TRONG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI

1.1.

LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KIỂM SOÁT NỘI BỘ
TRONG KHU VỰC CÔNG

1.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của các lý thuyết kiểm soát nội bộ
Để thực hiện chức năng kiểm soát, nhà quản lý sử dụng công cụ chủ yếu là
kiểm soát nội bộ (KSNB) của đơn vị. Trong hơn một thế kỷ qua, khái niệm

KSNB đã phát triển từ chỗ được xem là một phương pháp giúp cho kiểm toán
viên độc lập xác định phương pháp hiệu quả nhất trong việc lập kế hoạch kiểm
toán đến chỗ được coi là một bộ phận chủ yếu của hệ thống quản lý hữu hiệu.
Khái niệm KSNB bắt đầu được sử dụng vào đầu thế kỷ 20 trong các tài
liệu về kiểm toán. Từ thập niên 1940, các tổ chức kế toán công và kiểm toán nội
bộ Hoa Kỳ đã xuất bản một loạt các báo cáo, hướng dẫn và tiêu chuẩn về tìm
hiểu KSNB trong các cuộc kiểm toán.
Đến thập niên 1970, kiểm soát nội bộ được quan tâm đặc biệt trong các lónh
vực thiết kế hệ thống và kiểm toán, chủ yếu hướng vào cách thức cải tiến hệ
thống KSNB và vận dụng trong các cuộc kiểm toán. Đạo luật chống hành vi hối
lộ ở nước ngoài 1977, các báo cáo của Cohen Commission và FEI (Financial
Executive Institute) đều đề cập đến việc hoàn thiện hệ thống kế toán và KSNB.
Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ (SEC)

(1)

cũng đưa ra các điều luật bắt buộc các

nhà quản trị phải báo cáo về hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức. Năm 1979,

(1)

Securities and Exchange Commission – Viết tắt SEC


36

Hiệp hội kế toán viên công chứng Hoa Kỳ (AICPA) (1) đã thành lập một Ủy ban
tư vấn đặc biệt về kiểm toán nội bộ nhằm dưa ra các hướng dẫn về việc thiết lập
và đánh giá hệ thống KSNB.

Giai đoạn từ năm 1980 đến 1985, Hiệp hội kế toán viên công chứng Hoa
Kỳ đã tiến hành sàng lọc, ban hành và sửa đổi các chuẩn mực về sự đánh giá
của kiểm toán viên độc lập về KSNB và báo cáo về KSNB. Hiệp hội kế toán
nội bộ (IIA) (2) cũng ban hành chuẩn mực và hướng dẫn kiểm toán viên nội bộ về
bản chất của kiểm soát và vai trò của các bên liên quan trong việc thiết lập, duy
trì và đánh giá hệ thống KSNB.
Từ năm 1985 về sau, sự quan tâm tập trung vào KSNB càng mạnh mẽ hơn.
Hội đồng quốc gia chống gian lận về báo cáo tài chính (Treadway Commision)
được thành lập năm 1985. Hoạt động này cũng đã đưa ra một loạt các vấn đề về
KSNB, nhấn mạnh tầm quan trọng của môi trường kiểm soát, các quy tắc về đạo
đức, các Ủy ban Kiểm toán và chức năng của kiểm toán nội bộ. Vì thế Ủy ban tổ
chức đồng bảo trợ (COSO) (3) của Hôïi đồng quốc gia chống gian lận về báo cáo
tài chính đã được thành lập nhằm nghiên cứu KSNB:
- Thống nhất định nghóa về KSNB để phục vụ cho nhu cầu của các đối
tượng khác nhau.
- Cung cấp đầy đủ một hệ thống tiêu chuẩn để giúp các đơn vị có thể đánh
giá hệ thống KSNB để tìm giải pháp hoàn thiện.
Báo cáo COSO năm 1992 đã tạo lập một nền tảng lý luận cơ bản về KSNB.
Trên cơ sở đó, hàng loạt các nghiên cứu về KSNB ở nhiều lónh vực ra đời như:
- Phát triển theo hướng quản trị: năm 2001, dựa trên Báo cáo COSO 1992,
COSO nghiên cứu hệ thống đánh giá rủi ro doanh nghiệp.
American Institute of Certified Public Accountants – Viết tắt AICPA
Institute of Internal Auditor – Viết tắt IIA
(3)
Committee of Sponsoring Organizations – Viết tắt COSO
(1)
(2)


37


- Phát triển theo hướng chuyên sâu vào những ngành nghề cụ thể: Báo cáo
Basle 1998 của Ủy ban Basle các Ngân hàng Trung ương công bố về khuôn khổ
KSNB trong ngân hàng, dựa vào lý luận cơ bản của báo cáo COSO 1992.
- Phát triển theo hướng quốc gia: nhiều quốc gia trên thế giới có khuynh
hướng xây dựng một khuôn khổ lý thuyết riêng về KSNB. Điển hình là Báo cáo
COCO 1995 (Canada), báo cáo Turnbull 1999 (Anh). Các báo cáo này không có
sự khác biệt lớn so với Báo cáo COSO 1992.
1.1.2. Lịch sử ra đời và phát triển của KSNB trong khu vực công
Trong lónh vực công, KSNB rất được xem trọng, nó là một đối tượng được
quan tâm đặc biệt của kiểm toán viên Nhà nước.
Một số Quốc gia như Mỹ hoặc Canada đã có những công bố chính thức về
KSNB áp dụng cho các cơ quan hành chính sự nghiệp. Chuẩn mực về kiểm toán
của Tổng Kế toán Nhà nước Hoa Kỳ (GAO) (1) (1999) có đề cập đến vấn đề
KSNB đặc thù trong tổ chức hành chính sự nghiệp. GAO đưa ra năm yếu tố về
KSNB bao gồm các quy định về môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro, các hoạt
động kiểm soát, thông tin và truyền thông, giám sát.
Về kiểm toán Nhà nước, hệ thống chuẩn mực kiểm toán Nhà nước do Tổ
chức Quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao (INTOSAI) (2) ban hành. Tổ chức
này bao gồm 178 thành viên. Hệ thống chuẩn mực kiểm toán do INTOSAI ban
hành bao gồm quy tắc đạo đức nghề nghiệp và chuẩn mực kiểm toán.
Năm 1992, bản Hướng dẫn về chuẩn mực KSNB của INTOSAI đã hình
thành một tài liệu đề cập đến việc nâng cấp các chuẩn mực KSNB, hỗ trợ cho
việc thực hiện và đánh giá KSNB.

(1)
(2)

United States General Accounting Office – Viết tắt GAO
International Organization of Supreme Audit Institutions – Viết tắt INTOSAI



38

Năm 2001, bản Hướng dẫn của INTOSAI 1992 đã cập nhật thêm về các
chuẩn mực KSNB để phù hợp với tất cả các đối tượng và phù hợp với sự phát
triển gần đây trong KSNB. Điều cần lưu ý là tài liệu này đã tích hợp các lý luận
chung về KSNB của Báo cáo COSO.
Bên cạnh việc cải thiện định nghóa KSNB và xây dựng một sự hiểu biết
thông thường về KSNB, tài liệu của INTOSAI trình bày những vấn đề đặc thù
về khu vực công.
1.1.2.1. Định nghóa về kiểm soát nội bộ của INTOSAI
Hướng dẫn chuẩn mực của KSNB của INTOSAI 1992 đưa ra định nghóa về
KSNB như sau:
KSNB là cơ cấu của một tổ chức, bao gồm nhận thức, phương pháp, quy
trình và các biện pháp của người lãnh đạo nhằm bảo đảm sự hợp lý để đạt được
các mục tiêu của tổ chức:
- Thúc đẩy các hoạt động hữu hiệu, hiệu quả và có kỷ cương cũng như chất
lượng của sản phẩm, dịch vụ phù hợp với nhiệm vụ của tổ chức.
- Bảo vệ các nguồn lực không bị thất thoát, lạm dụng, lãng phí, tham ô và
vi phạm pháp luật.
- Khuyến khích tuân thủ pháp luật, quy định của Nhà nước và nội bộ.
- Xây dựng và duy trì các dữ liệu tài chính và hoạt động và lập báo cáo
đúng đắn và kịp thời.
Tài liệu hướng dẫn của INTOSAI được cập nhật lại vào năm 2001, trình
bày về định nghóa về KSNB như sau:
KSNB là một quá trình xử lý toàn bộ được thực hiện bởi nhà quản lý và các
cá nhân trong tổ chức, quá trình này được thiết kế để phát hiện các rủi ro và



39

cung cấp một sự đảm bảo hợp lý để đạt được nhiệm vụ của tổ chức. Sau đây là
những mục tiêu cần đạt được:
- Thực hiện các hoạt động một cách có kỷ cươngï, có đạo đức, có tính kinh
tế, hiệu quả và thích hợp.
- Thực hiện đúng trách nhiệm.
- Tuân thủ theo luật pháp hiện hành và các nguyên tắc, quy định.
- Bảo vệ các nguồn lực chống thất thoát, sử dụng sai mục đích và tổn thất.
So với định nghóa của báo cáo COSO và Hướng dẫn năm 1992, khía cạnh
giá trị đạo đức trong hoạt động được thêm vào. Mục tiêu của KSNB được nhấn
mạnh thêm, đó chính là tầm quan trọng của hành vi đạo đức cũng như sự ngăn
chặn và phát hiện sự gian trá và tham nhũng trong khu vực công.
Ngân sách của Nhà nước được phân bố rộng rãi, chính vì vậy cần có các
kiểm soát nhằm đảm bảo ngân sách được sử dụng đúng mục đích, các tài sản
không bị thất thoát hay lãng phí. Vì vậy, việc bảo vệ nguồn lực cần được nhấn
mạnh thêm tầm quan trọng trong KSNB đối với khu vực công.
Trong tài liệu này còn nhấn mạnh đến những thông tin phi tài chính. Bởi
vì sự sử dụng rộng rãi của hệ thống thông tin ngày càng tăng trong các tổ chức
Nhà nước, kiểm soát công nghệ thông tin ngày càng trở nên quan trọng hơn.
Mục tiêu của tài liệu này là thiết lập và duy trì KSNB hữu hiệu trong khu
vực công. Vì vậy, các nhà lãnh đạo của Chính phủ rất quan tâm đến tài liệu này.
Các nhà lãnh đạo các tổ chức của Nhà nước xem tài liệu này là một nền tảng để
thực hiện và giám sát KSNB trong tổ chức.
INTOSAI đưa ra hai nhóm chuẩn mực về KSNB: Chuẩn mực chung và
chuẩn mực cụ thể. Chuẩn mực chung bao gồm các quy định về bảo đảm hợp lý,


40


tinh thần tuân thủ, năng lực và phẩm chất, mục tiêu kiểm soát và giám sát.
Chuẩn mực cụ thể đi vào các quy định về tổ chức hồ sơ, tài liệu; ghi chép kịp
thời và đúng đắn các nghiệp vụ, phân chia trách nhiệm, tiếp cận và báo cáo về
nguồn lực và sổ sách.
1.1.2.2. Các yếu tố của hệ thống KSNB theo tổ chức INTOSAI
Tương tự như Báo cáo COSO, INTOSAI đưa ra năm yếu tố của KSNB bao
gồm môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro, các hoạt động kiểm soát, thông tin
và truyền thông và giám sát. Tuy nhiên, có những khác biệt nhất định vềø chi
tiết.
Môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát đã tạo nên một sắc thái chung cho một tổ chức, ảnh
hưởng đến ý thức kiểm soát của các nhân viên. Môi trường kiểm soát là nền
tảng cho tất cả các yếu tố khác trong KSNB, tạo lập một nề nếp kỷ cương, đạo
đức và cơ cấu cho tổ chức. Các nhân tố trong môi trường KSNB bao gồm:
• Sự liêm chính và giá trị đạo đức cá nhân và chuyên môn của nhà lãnh đạo
và đội ngũ nhân viên
Sự liêm chính và tôn trọng giá trị đạo đức của nhà lãnh đạo và đội ngũ
nhân viên xác định thái độ cư xử chuẩn mực trong công việc của họ. Tinh thần
tôn trọng đạo đức thể hiện qua tất cả các cá nhân, mọi cá nhân phải tuân thủ các
điều lệ, quy định và đạo đức về cách thức ứng xử của cán bộ công chức Nhà
nước. Thí dụ như công khai tài sản, các vị trí kiêm nhiệm công việc bên ngoài,
quà tặng và báo cáo các mâu thuẫn về lợi ích.
Đồng thời, phải cho công chúng thấy được tinh thần này trong sứ mệnh và
trong tiêu chuẩn đạo đức của tổ chức công thông qua các văn bản chính thức.


41

• Năng lực nhân viên
Năng lực nhân viên bao gồm trình độ hiểu biết và kỹ năng làm việc cần

thiết để đảm bảo việc thực hiện có kỷ cương, trung thực, tiết kiệm, hiệu quả và
hữu hiệu, cũng như có một sự am hiểu đúng đắn về trách nhiệm của bản thân
trong việc thiết lập hệ thống KSNB.
Lãnh đạo và nhân viên phải duy trì một trình độ đủ để hiểu được việc xây
dựng thực hiện, duy trì của KSNB, vai trò của KSNB và trách nhiệm của họ
trong việc thực hiện sứ mệnh chung của tổ chức. Mỗi cá nhân trong tổ chức đều
giữ một vai trò trong hệ thống KSNB bởi trách nhiệm của họ.
Lãnh đạo và nhân viên cũng cần có những kỹ năng cần thiết để đánh giá
rủi ro. Việc đánh giá rủi ro đảm bảo hoàn thành trách nhiệm của họ trong tổ
chức.
Đào tạo là một phương thức hữu hiệu để nâng cao trình độ cho các thành
viên trong tổ chức. Một trong những nội dung đào tạo là hướng dẫn về mục tiêu
KSNB, phương pháp giải quyết những tình huống khó xử trong công việc.
• Triết lý quản lý và phong cách lãnh đạo
Triết lý quản lý và phong cách lãnh đạo thể hiện qua cá tính, tư cách và
thái độ của nhà lãnh đạo khi điều hành. Nếu nhà lãnh đạo cấp cao cho rằng
KSNB là quan trọng thì những thành viên khác trong tổ chức cũng sẽ cảm nhận
được điều đó và sẽ theo đó mà tận tâm xây dựng hệ thống KSNB. Tinh thần này
biểu hiện ra thành những quy định đạo đức ứng xử trong cơ quan. Thí dụ như
việc xây dựng kiểm toán nội bộ trong KSNB thể hiện sự quan tâm của lãnh đạo
đến KSNB.


42

Ngược lại, nếu các thành viên trong tổ chức cho rằng KSNB không quan
trọng có nghóa là lãnh đạo chưa quan tâm đúng mức đến KSNB. Kết quả là
KSNB chỉ còn là hình thức chứ không có ý nghóa thực sự, dẫn đến mục tiêu,
nhiệm vụ của đơn vị không còn đạt được như mong muốn.
• Cơ cấu tổ chức

Cơ cấu tổ chức bao gồm:
- Sự phân chia quyền và trách nhiệm báo cáo.
- Hệ thống báo cáo phù hợp.
Trong cơ cấu tổ chức cũng bao gồm bộ phận kiểm toán nội bộ, được tổ chức
độc lập với các đối tượng kiểm toán và báo cáo trực tiếp đến lãnh đạo cao nhất
trong cơ quan.
• Chính sách nhân sự
Chính sách nhân sự bao gồm sự tuyển dụng, huấn luyện, giáo dục, đánh
giá, bổ nhiệm, khen thưởng hay kỷ luật, kềm cặp nhân viên.
Mỗi cá nhân đóng vai trò quan trọng trong KSNB. Khả năng, sự tin cậy của
nhân viên rất cần thiết để kiểm soát được hữu hiệu. Vì vậy, cách thức tuyển
dụng, huấn luyện, giáo dục, đánh giá, bổ nhiệm, khen thưởng hay kỷ luật là một
phần quan trọng trong môi trường kiểm soát. Việc ra quyết định tuyển dụng
nhân viên phải đảm bảo được về tư cách đạo đức cũng như kinh nghiệm để thực
hiện công việc được giao.
Nhà lãnh đạo cần thiết lập các chương trình động viên khuyến khích bằng
các hình thức khen thưởng và nâng cao mức khuyến khích cho các hoạt động cụ
thể. Đồng thời, các hình thức kỷ luật nghiêm khắc cho các hành vi vi phạm cũng
cần được các nhà lãnh đạo quan taâm.


43

Đánh giá rủi ro
KSNB phục vụ để đạt mục tiêu tổ chức, việc đánh giá rủi ro là rất quan
trọng vì nó ghi nhận các sự kiện quan trọng đe dọa đến mục tiêu, nhiệm vụ của
đơn vị.
Phân tích đánh giá rủi ro này để thu hẹp vào những rủi ro chủ yếu mà thôi.
Việc nhận dạng rủi ro chủ yếu hết sức quan trọng, không chỉ vì nó liên quan đến
những đe dọa của rủi ro mà còn liên quan đến sự phân chia trách nhiệm và

nguồn lực đối phó rủi ro.
Đánh giá rủi ro bao gồm quá trình nhận dạng và phân tích các rủi ro một
cách thích hợp để đạt được mục tiêu của tổ chức và xác định biện pháp xử lý
phù hợp.
• Nhận dạng rủi ro
Nhận dạng rủi ro bao gồm rủi ro từ bên ngoài và bên trong, rủi ro ởù cấp
toàn đơn vị và từng hoạt động, rủi ro được xem xét liên tục trong suốt quá trình
hoạt động của đơn vị.
Liên quan đến khu vực công, các cơ quan Nhà nước phải quản trị rủi ro ảnh
hưởng đến mục tiêu giao phó, bao gồm cả các chỉ tiêu được giao trong kế hoạch
của đơn vị.
• Đánh giá rủi ro
Để kiểm soát được rủi ro, vấn đề quan trọng không chỉ là nhận ra các rủi ro
tồn tại, mà còn là đánh giá tầm quan trọng, tác hại mà rủi ro gây ra và khả năng
xảy ra rủi ro.
Có nhiều phương pháp đánh giá rủi ro tùy theo mỗi loại rủi ro, tuy nhiên,
phải đánh giá rủi ro một cách có hệ thống. Thí dụ, phải xây dựng các tiêu chí


44

đánh giá rủi ro, sau đó sắp xếp thứ tự các rủi ro, dựa vào đó nhà lãnh đạo sẽ
phân bổ nguồn lực đối phó rủi ro.
• Phát triển các biện pháp đối phó
Có bốn biện pháp đối phó với rủi ro: phân tán rủi ro, chấp nhận rủi ro,
tránh né rủi ro và xử lý hạn chế rủi ro. Trong phần lớn các trường hợp các rủi ro
phải được xử lý hạn chế và đơn vị duy trì KSNB để có biện pháp thích hợp, bởi
vì doanh nghiệp Nhà nước phải làm theo nhiệm vụ được giao. Các biện pháp xử
lý hạn chế rủi ro ở mức độ hợp lý vì mối liên hệ giữa lợi ích và chi phí nhưng
nếu nhận dạng được và đánh giá được rủi ro thì có sự chuẩn bị tốt hơn.

Khi môi trường thay đổi như các điều kiện về kinh tế, chế độ của Nhà nước,
công nghệ, luật pháp sẽ làm rủi ro thay đổi thì việc đánh giá rủi ro cũng nên
thường xuyên xem xét lại, điều chỉnh theo từng thời kỳ.
Hoạt động kiểm soát
Hoạt động kiểm soát là những chính sách và những thủ tục đối phó rủi ro
và đảm bảo đạt được mục tiêu, nhiệm vụ của đơn vị.
Để đạt được hiệu quả, hoạt động kiểm soát phải phù hợp, nhất quán giữa
các thời kỳ, có hiệu quả, dễ hiểu được, đáng tin cậy và liên hệ trực tiếp đến mục
tiêu kiểm soát.
Hoạt động kiểm soát có mặt xuyên suốt trong tổ chức, ở các mức độ và các
chức năng. Hoạt động kiểm soát bao gồm các loại hoạt động kiểm soát phòng
ngừa và phát hiện rủi ro.
Cân bằng giữa thủ tục kiểm soát phát hiện và phòng ngừa thông thường là
phối hợp các hoạt động kiểm soát để hạn chế, bổ sung lẫn nhau giữa các thủ tục
kiểm soaùt.


45

• Thủ tục phân quyền và xét duyệt
Việc thực hiện các nghiệp vụ chỉ được thực hiện bởi người được ủy quyền
theo trách nhiệm và phạm vi của họ. Ủy quyền là một cách thức chủ yếu để đảm
bảo rằng chỉ có những nghiệp vụ có thực mới được phê duyệt đúng mong muốn
của người lãnh đạo. Các thủ tục ủy quyền phải được tài liệu hoá và công bố rõ
ràng, phải bao gồm những điều kiện cụ thể.
Tuân thủ những quy định chi tiết của sự ủy quyền nói trên, nhân viên hành
động đúng theo hướng dẫn, trong giới hạn được quy định bởi người lãnh đạo và
pháp luật.
• Phân chia trách nhiệm
Để giảm rủi ro về việc sai sót, lãng phí, những hành động cố ý làm sai và

rủi ro không ngăn ngừa được thì không một bộ phận hay cá nhân nào được giao
một công việc từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc. Trách nhiệm phải được giao
một cách có hệ thống cho từng cá nhân để đảm bảo sự kiểm tra có hiệu quả.
Bốn trách nhiệm chủ yếu bao gồm ủy quyền, phê chuẩn, ghi chép, xử lý và đánh
giá các nghiệp vụ. Tuy nhiên, cần lưu ý sự thông đồng làm giảm hoặc phá hủy
sự hữu hiệu của KSNB.
Trong một số trường hợp đơn vị có quy mô nhỏ, có quá ít nhân viên để thực
hiện việc phân chia phân nhiệm. Khi đó, nhà lãnh đạo phải nhận biết được rủi ro
và bù đắp bằng những biện pháp kiểm soát khác như sự luân chuyển nhân viên.
Sự luân chuyển nhân viên đảm bảo rằng một người không xử lý mọi mặt nghiệp
vụ trong một thời gian dài. Cũng như, việc khuyến khích và yêu cầu những ngày
nghỉ hàng năm cũng giúp giảm rủi ro bằng cách đem lại luân chuyển tạm thời.


46

• Kiểm soát việc tiếp cận tài sản và sổ sách
Việc tiếp cận tài sản và sổ sách phải được giới hạn trong những cá nhân mà
họ được giao trách nhiệm bảo quản hoặc sử dụng tài sản. Trách nhiệm của người
bảo quản tài sản thể hiện qua chứng từ, hàng tồn kho, ghi chép sổ sách. Hạn chế
việc tiếp cận tài sản làm giảm rủi ro lạm dụng hoặc làm thất thoát tài sản của
Nhà nùc. Mức độ giới hạn tùy thuộc vào rủi ro thất thoát tài sản. Mức độ giới
hạn phải được xem xét định kỳ.
• Kiểm tra
Các nghiệp vụ và sự kiện phải được kiểm tra trước và sau khi xử lý. Thí dụ,
khi hàng hóa bán ra được kiểm tra phù hợp với số lượng đặt hàng hay không. Số
lượng trên hoá đơn sẽ được kiểm tra, đối chiếu với hàng hoá nhận về, số lượng
trong kho đối chiếu với thẻ kho.
• Đối chiếu
Sổ sách được đối chiếu với các chứng từ thích hợp một cách định kỳ. Thí

dụ, sổ sách ghi chép tiền gửi ngân hàng đối chiếu với sổ phụ ngân hàng.
• Rà soát việc thực hiện các hoạt động
Việc thực hiện các hoạt động được rà soát dựa trên một loạt các chuẩn mực
nguyên tắc cơ bản, đánh giá hiệu quả và tính hữu hiệu. Nếu sự rà soát cho thấy
rằng các hoạt động thực hiện không phù hợp với mục tiêu của tổ chức hoặc các
tiêu chuẩn, thì quy trình thực hiện để đạt các mục tiêu cần phải rà soát lại để
đưa ra cải tiến cần thiết.
• Rà soát sự điều hành, xử lý và hoạt động
Việc điều hành, xử lý và hoạt động nên được rà soát định kỳ để đảm bảo
chúng tuân thủ nguyên tắc, chính sách, thủ tục và những đòi hỏi hiện hành khác.


47

• Giám sát nhân viên (giao việc, soát xét và chấp thuận, hướng dẫn và huấn
luyện)
Việc giám sát kỹ càng giúp đảm bảo rằng mục tiêu của tổ chức sẽ được
thực hiện. Sự giao việc, soát xét, và chấp thuận công việc của nhân viên bao
gồm:
- Sự thông báo rõ ràng, nghóa vụ, trách nhiệm và sự chịu trách nhiệm giao
cho mỗi thành viên.
- Đánh giá một cách hệ thống công việc của mỗi thành viên trong phạm vi
cần thiết.
- Chấp thuận công việc theo những tiêu chuẩn để đảm bảo công việc được
thực hiện theo đúng định hướng.
Người giám sát cung cấp cho nhân viên những hướng dẫn cần thiết và huấn
luyện họ để đảm bảo rằng sự sai sót, lãng phí và hành động sai trái được giảm
thiểu và làm cho các nhà lãnh đạo trực tiếp hiểu được và đạt được kết quả.
Thông tin và truyền thông
Thông tin và truyền thông cần thiết để thực hiện mục tiêu của KSNB.

• Thông tin
Điều kiện đầu tiên đảm bảo thông tin thích hợp và đáng tin cậy là thông tin
phải được ghi chép kịp thời, phân loại đúng đắn các nghiệp vụ và sự kiện, được
chuyển đi dưới những biểu mẫu và lộ trình bảo đảm nhân viên thực hiện chức
năng trong KSNB. Do đó, hệ thống KSNB đòi hỏi tất cả các nghiệp vụ phải lập
các chứng từ đầy đủ.


48

Khả năng ra quyết định của các nhà lãnh đạo bị ảnh hưởng bởi các chất
lượng của những thông tin như tính thích hợp, tính kịp thời, cập nhật, chính xác
và có thể sử dụng được.
Một hệ thống thông tin thích hợp phải tạo ra các báo cáo về hoạt động, tài
chính, những vấn đề tuân thủ hỗ trợ cho việc điều hành và kiểm soát những hoạt
động. Nó không chỉ bao gồm những dữ liệu bên trong mà còn xem xét các thông
tin bên ngoài, những điều kiện và hoạt động cần thiết ra quyết định và báo cáo.
• Truyền thông
Truyền thông hữu hiệu là việc cung cấp thông tin từ cấp trên xuống cấp
dưới hoặc từ cấp dưới lên cấp trên hoặc ngang hàng giữa các bộ phận, thông tin
xuyên suốt toàn bộ tổ chức.
Các cá nhân nhận được thông báo rõ ràng từ nhà lãnh đạo cấp cao về trách
nhiệm của bản thân họ trong KSNB. Họ phải hiểu được vai trò của bản thân đối
với hệ thống KSNB, đối với các thành viên khác trong tổ chức. Ngoài ra, cũng
cần có sự truyền thông hiệu quả từ bên ngoài tổ chức.
Giám sát
Hệ thống KSNB cần được giám sát để đánh giá chất lượng hoạt động của
hệ thống qua thời gian. Việc giám sát được thực hiện thường xuyên, định kỳ
hoặc kết hợp cả hai.
• Giám sát thường xuyên

Giám sát thường xuyên KSNB được thiết lập cho những hoạt động thông
thường và lặp lại của tổ chức. Bao gồm cả những hoạt động giám sát và quản lý
mang tính chất định kỳ ngay trong quá trình thực hiện của các nhân viên trong
công việc hàng ngày. Giám sát thường xuyên được thực hiện trên tất cả các yeáu


49

tố của KSNB và liên quan đến việc ngăn chặn và phát hiện tất cả những hiện
tượng vi phạm luật lệ, không tiết kiệm, không hiệu quả, hữu hiệu của hệ thống.
• Giám sát định kỳ
Phạm vi và tần suất giám sát định kỳ phụ thuộc vào sự đánh giá mức độ rủi
ro và hiệu quả của thủ tục giám sát thường xuyên. Giám sát định kỳ bao phủ
toàn bộ sự đánh giá sự hữu hiệu hệ thống KSNB và đảm bảo KSNB đạt kết quả
như mong muốn dựa trên các phương pháp và thủ tục.
Những yếu kém của hệ thống KSNB phải được thông báo cho lãnh đạo cấp
cao. Giám sát này bao gồm cả việc xem xét các phát hiện kiểm toán và các kiến
nghị của kiểm toán viên để chúng thực hiện được trong thực tế một cách hữu
hiệu.
1.2.

KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI

1.2.1. Khái niệm
“Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động và
gia đình họ khi có nguy cơ mất an toàn về kinh tế do bị giảm hoặc mất khả năng
lao động thông qua sử dụng nguồn quỹ huy động từ người tham gia và sự tài trợ
của Nhà nước” (1) . Định nghóa này chỉ rõ mục đích của bảo hiểm xã hội (BHXH)
là đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ thông qua sử dụng quỹ
huy động từ người tham gia và sự tài trợ của Nhà nước để trợ cấp cho người lao

động bị giảm sức lao động hoặc mất sức lao dộng.
1.2.2. Sơ lược lịch sử phát triển của bảo hiểm xã hội nói chung
BHXH là nhu cầu khách quan của người lao động, nó đảm bảo thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ gặp phải những sự

Định nghóa trích từ Giáo trình Bảo hiểm – Trường ĐHKT Quốc dân – Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm –
Chủ biên TS. Nguyễn Văn Định (Trang 14)
(1)


50

kiện bảo hiểm làm giảm hoặc mất khả năng lao động nhằm đảm bảo đời sống
cho người lao động và gia đình họ.
BHXH mang tính cộng đồng và nhân đạo và nhân văn sâu sắc – BHXH
phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và thể hiện mối quan hệ ba bên: bên tham
gia BHXH, bêân BHXH và bên được BHXH. Trách nhiệm về quyền lợi các bên
được luật pháp quy định rõ ràng.
Bảo hiểm y tế (BHYT) được tách ra từ chế độ “chi phí y tế” trong hệ thống
các chế độ BHXH. Do đó, nó mang đầy đủ của tính chất của BHXH. BHYT đáp
ứng nhu cầu khám và chữa bệnh của mọi thành viên trong xã hội nên nó không
chỉ dừng lại ở lực lượng lao động mà mở rộng đến mọi đối tượng có nhu cầu dưới
hình thức tự nguyẹân.
BHXH xuất hiện khá sớm và phát triển theo quá trình phát triển của xã hội.
Năm 1883, ở nước Phổ (Cộng hòa Liên bang Đức ngày nay) đã ban hành luật
bảo hiểm ốm đau đầu tiên trên thế giới, đánh dấu sự ra đời của BHXH. Một số
nước châu Âu và Bắc Mỹ mãi đến cuối năm 1920 mới có đạo luật về BHXH.
BHXH lần lượt xuất hiện ở các nước dưới mức độ khác nhau nhưng cũng chung
mục đích là đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ.
BHXH đã trở thành một trong những quyền của con người và được xã hội

thừa nhận. Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc (10/08/1945) đã ghi:
“Tất cả mọi người lao động với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng
bảo hiểm xã hội…”. Ngày 4 tháng 6 năm 1952, Tổ chức lao động quốc tế đã ký
công ước Giơ – ne – vơ (Công ước số 102) về “Bảo hiểm xã hội cho người lao
động” và khuyến nghị các nước thực hiện BHXH cho người lao động theo khả
năng và điều kiện kinh tế của mỗi nước. Từ đó, các nước vận dụng khuyến nghị
của Tổ chức lao động quốc tế, đã có chính sách, biện pháp phù hợp với từng
điều kiện cụ thể, tạo môi trường cho BHXH phát triển không ngừng.


51

1.2.3. Hệ thống các chế độ BHXH
Chế độ BHXH là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy định
cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối
với người lao động. Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế đã nêu
trong Công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơ – ne - vơ, hệ thống các chế độ
BHXH gồm:
- Chăm sóc y tế (1)
- Trợ cấp ốm đau (2)
- Trợ cấp thất nghiệp (3)
- Trợ cấp tuổi già (4)
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (5)
- Trợ cấp gia đình (6)
- Trợ cấp sinh đẻ (7)
- Trợ cấp khi tàn phế (8)
- Trợ cấp cho người còn sống ( trợ cấp người nuôi dưỡng) (9)
Tùy điều kiện kinh tế – xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơ – ne vơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện
được ba chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ: (3), (4), (5), (8),
(9).

1.2.4. Quỹ BHXH
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà
nước nhưng được sự quan tâm, chỉ đạo của Nhà nước và các quy định pháp lý.
Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Quỹ BHXH ra đời, tồn tại và phát triển gắn
với sự phát triển kinh tế hàng hóa, với các mối quan hệ thuê mùn nhân công.
Mặc dù thu và chi đều được Nhà nước quy định bằng các văn bản pháp luật,


52

nhưng chủ yếu dựa vào quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích giữa các bên tham gia
theo nguyên tắc có tham gia mới được hưởng quyền lợi BHXH.
Quỹ BHXH hoạt động không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời, thu và
chi là những hoạt động tài chính chủ yếu của quỹ BHXH. Quỹ BHXH là một quỹ
tiền tệ nhằm mục đích tiêu dùng để đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao
động tham gia khi gặp rủi ro. Mức tiêu dùng của quỹ BHXH phụ thuộc vào khả
năng nguồn thu tạo lập quỹ BHXH và chi quỹ BHXH không được vượt quá số
thu của quỹ BHXH, để thực hiện nguyên tắc cân đối thu, chi quỹ BHXH. Vì thế
trong quá trình quản lý quỹ BHXH phải luôn xem xét tính cân đối của quỹ, đặc
biệt là các chế độ dài hạn, không chỉ có biện pháp bảo toàn và phát triển số vốn
tạm thời nhàn rỗi, mà còn phải dự báo, dự phòng được các biến cố thay đổi trong
tương lai làm mất cân đối thu, chi quỹ BHXH.
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các
nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng góp.
- Người lao động đóng góp.
- Nhà nước đóng góp và hỗ trợ thêm.
- Các nguồn khác (cá nhân, tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần quỹ
nhàn rỗi).
Tuy nhiên phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia

BHXH có khác nhau. Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử
dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động. Chính phủ
trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người
sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nước
khác lại quy định Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí
quản lý BHXH…


53

1.2.5. Mục tiêu kiểm soát nội bộ của hoạt động BHXH
KSNB là quá trình được thực hiện bởi các nhà lãnh đạo và toàn thể các
nhân viên trong tổ chức. Các nhà quản lý có trách nhiệm tạo ra môi trường thuận
lợi cho quá trình KSNB được hiệu quả và việc theo dõi sự hiệu quả đó được diễn
ra một cách liên tục. Mỗi thành viên trong tổ chức phải tham gia vào quá trình
đó. Những mục tiêu chủ yếu của quá trình KSNB bao gồm:
- Thực hiện các hoạt động có hiệu quả.
- Cung cấp các thông tin tài chính đáng tin cậy, đầy đủ và kịp thời.
- Tuân thủ các quy định và luật hiện hành.
- Bảo vệ các tài sản, các nguồn lực để chống thất thoát, lãng phí.
Chính vì thế, tại một số quốc gia đã vận dụng hệ thống chuẩn mực KSNB
do INTOSAI ban hành để soạn thảo các chuẩn mực, hướng dẫn riêng về KSNB
cho các tổ chức BHXH của Quốc gia mình, có thể nói đến một số trường hợp
như:
- Yêu cầu kiểm toán báo cáo tài chính liên bang (Audit Requirements for
Federal Financial Statement) tuân thủ theo mục tiêu KSNB của Bộ Quản lý và
Ngân sách (Office Management and Budget).
- Chuẩn mực kiểm toán Nhà nước của Hoa Kỳ ( Government Auditing
Standards) được ban hành bởi Tổng kiểm soát (Comptroller General) và Bộ
quản lý và Ngân sách (Office Management and Budget).

- Chuẩn mực KSNB trong Nhà nước liên bang ( Standards for Internal
Control in the Federal Government) do Tổng kiểm soát ban hành (Compotroller
General).
- Quản lý chủ yếu những rủi ro chng trình và thách thức trong quản lý an
ninh xã hội (Major Management Challenges and Program Risks: Social Security
Administration) do GAO ban hành về vấn đề kế hoạch nguồn nhân lực.


54

- Mô hình chiến lược quản lý nguồn nhân lực (A Model of Strategic Human
Capital Management) do GAO (U.S. General Accounting Office) ban hành.
- GAO cũng cho ra đời Chế độ tính bảo hiểm cho Quỹ an ninh Xã hội.
1.2.6. Những yếu tố cơ bản của hệ thống KSNB trong hoạt động BHXH.
1.2.6.1. Môi trường kiểm soát
Chúng ta nhận thấy rằng, môi trường kiểm soát là nền tảng của KSNB
trong hoạt động BHXH. Các yêu cầu về môi trường kiểm soát trong hoạt động
BHXH về cơ bản khá tương đồng với hoạt động của doanh nghiệp mặc dù có
một số điểm khác biệt.
Sự liêm chính và các giá trị đạo đức
Mục tiêu phục vụ của hoạt động BHXH khác với các hoạt động của các
doanh nghiệp thông thường. Mục đích cuối dùng của hoạt động BHXH là đem
lại lợi ích cho người lao động khi tham gia BHXH. Hoạt động BHXH hoạt động
không vì mục tiêu lợi nhuận, mà mong muốn đem lại cho người lao động những
chế độ khi gặp những trường hợp không thể hoặc ngưng tạo ra thu nhập. Người
làm công tác BHXH phải xác định được mục tiêu phục vụ chính của mình, đối
tượng phục vụ chủ yếu của mình làm nền tảng cho chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp trong giải quyết công việc. Tránh những trường hợp mâu thuẫn về quyền
lợi của người làm công tác BHXH.
• Năng lực đội ngũ nhân viên

Hoạt động BHXH là hoạt động có sự tham gia của ba bên: đơn vị sử dụng
lao động, người lao động và Cơ quan BHXH. Đối với đơn vị sử dụng lao động
thường có xu hướng muốn né tránh hoặc tham gia BHXH với mức thấp để tiết
kiệm chi phí vì mục tiêu kinh doanh của đơn vị. Đối với người lao động khi tham


55

gia BHXH họ lại mong muốn được hưởng đầy đủ các chế độ và thậm chí một số
người sẵn sàng cố ý cung cấp sai thông tin để hưởng chế độ BHXH. Từ những lý
do trên Cơ quan BHXH nên nắm bắt được những nhu cầu của từng đối tượng
tham gia BHXH và cần nhận thức đúng đắn về những khó khăn trong việc quản
lý các đối tượng để đưa ra các tiêu chuẩn về năng lực và đạo đức của người làm
công tác BHXH. Có thể đó là những cam kết về đạo đức và năng lực làm việc
của nhân viên khi tuyển dụng để có thể thực hiện được tốt công việc được giao.
Đồng thời, Cơ quan BHXH cũng đảm bảo được những rủi ro xuất phát từ sự
thông đồng của người làm công tác BHXH với các đối tượng tham gia BHXH.
• Phong cách lãnh đạo và chính sách nhân sự
Nhà lãnh đạo Cơ quan BHXH phải đưa ra quan điểm rõ ràng về mục tiêu
chung của hoạt động BHXH là chủ yếu phục vụ người lao động, thực hiện chính
sách chính trị xã hội của Chính phủ. Từ đó xác định thái độ làm việc đúng đắn
khi giải quyết công việc cho người làm công tác BHXH đảm bảo giải quyết
đúng người, đúng việc và bảo tồn quỹ BHXH.
Nhà lãnh đạo cần có những chính sách khen thưởng cho những trường hợp
phát hiện được các sai phạm, gian lận. Bên cạnh đó cũng cần đề ra các mức kỷ
luật cụ thể đối với các trường hợp sai phạm của người làm công tác BHXH.
Đồng thời, cũng cần có các chính sách tuyển dụng, đào tạo nhân sự phù hợp với
yếu cầu của hoạt động BHXH.
• Quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước
Duy trì và thực hiện trách nhiệm báo cáo đối với các cơ quan quản lý trực

tiếp và gián tiếp của Nhà nước, Chính phủ đối với tổ chức BHXH.


56

1.2.6.2. Đánh giá rủi ro
Việc nhận dạng các rủi ro và đánh giá tầm quan trọng của các rủi ro có thể
xảy ra là một bộ phận quan trọng của hệ thống KSNB. Không giống như các
doanh nghiệp, hoạt động BHXH có các rủi ro chủ yếu được ghi nhận ở hoạt động
thu chi BHXH. Ngoài các rủi ro xuất phát từ năng lực và đạo đức nhân viên
BHXH, rủi ro thu BHXH không đủ do các đơn vị sử dụng lao động không cung
cấp thông tin đầy đủ, rủi ro chi BHXH không đúng đối tượng do người lao động
khai man thông tin.
Ngoài ra, hoạt động BHXH còn đứng trước rủi ro cân đối thu chi BHXH.
Với số thu BHXH hiện nay trong quỹ BHXH nếu không có sự đầu tư thích hợp
và an toàn thì trong tương lai với sự tăng giá, điều chỉnh thu nhập thì liệu Quỹ
BHXH có còn khả năng chi trả các chế độ BHXH cho người lao động và còn tồn
tại được bao lâu. Điều này đặt ra sự cần thiết của một đội ngũ chuyên viên tính
BHXH để sớm có biện pháp khắc phục rủi ro xuất phát từ cân đối thu chi
BHXH.
1.2.6.3. Các hoạt động kiểm soát
Bao gồm các chính sách, thủ tục, kỹ thuật và cơ chế nhằm thực hiện các chỉ
đạo của người lãnh đạo. Các hoạt động kiểm soát cũng hỗ trợ cho việc đối phó
với rủi ro. Có rất nhiều các loại hoạt động kiểm soát khác nhau ở tất cả các cấp
quản lý trong tổ chức.
Cơ quan BHXH là cơ quan Nhà nước, trực thuộc Chính phủ nên các hoạt
động kiểm soát tất nhiên sẽ được quy định chặt chẽ trong hệ thống thông qua
các văn bản hướng dẫn, quyết định, quy định,… Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là các
hoạt động kiểm soát được quy định có được áp dụng theo đúng nguyên tắc
hướng dẫn trong thực tế hoạt động của BHXH hay không. Nếu không thực hiện



×