Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm, SKKN - Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh thông qua việc thiết kế, chế tạo các sản phẩm Vật lí phần cơ học lớp 10 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (835.4 KB, 10 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN CẤP TỈNH
Kính gửi : Hội đồng sáng kiến Tỉnh Ninh Bình
Tên tơi là: Trần Thi Thanh
Sinh ngày: 01/12/1980
Đơn vị công tác: Trường THPT Kim Sơn A, huyện Kim sơn, tỉnh Ninh Bình.
Chức vụ: Giáo viên.
Trình độ chun mơn: Cử nhân Vật lí.
Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến: 100%.
I. Tên sáng kiến, lĩnh vực áp dụng
1. Tên sáng kiến: “Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh thông
qua việc thiết kế, chế tạo các sản phẩm Vật lí phần cơ học lớp 10 THPT”
2. Lĩnh vực áp dụng
Sáng kiến được áp dụng vào lĩnh vực giáo dục nói chung và áp dụng trong dạy học
vật lí 10 nói riêng.
II. Nội dung
1. Giải pháp cũ thường làm
Theo quan sát và điều tra tôi thấy: Hiện nay, ở hầu hết các trường THPT trong và
ngồi tỉnh, việc dạy, học Vật lí trong chương trình chính khóa chủ yếu đang diễn ra như
sau:
* Về phía Giáo viên (GV)
- Hầu hết các giáo viên vẫn mang nặng phương pháp truyền thụ, thuyết trình,
thơng báo. Một giờ dạy được tiến hành lần lượt từng nội dung theo trình tự trong sách
giáo khoa. Hoạt động của giáo viên khi lên lớp cơ bản là mơ tả, giải thích, giảng giải rồi
đi đến kết luận về kiến thức mới, nhắc lại kiến thức liên quan của chủ đề này với các chủ
đề trước đã học khi cần thiết. Cuối mỗi giờ dạy GV củng cố kiến thức, cho bài tập ví dụ
để học sinh biết giải bài tập, giao bài tập về nhà cho học sinh làm. Kết quả là sau mỗi
buổi học sinh lại có một chuỗi kiến thức cần học thuộc, một hệ thống bài tập phải làm ở
nhà mà đa số là bài tập định lượng.
- Giáo viên rất ít thực hiện các thí nghiệm, ít liên hệ thực tế hoặc mở rộng kiến


thức, rất ít tổ chức đươc các hoạt động ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm sáng tạo về vật
lí cho học sinh. Trong các giờ dạy chưa tạo cho học sinh được những sân chơi bổ ích, lí
thú để tăng hứng thú học tập và rèn luyện các năng lực cần thiết cho HS. Học sinh học
như một cái máy: học thuộc lí thuyết, công thức, biết làm bài tập nhưng các em khơng có
thời gian liên tưởng với thực tế trong cuộc sống, khơng biết kiến thức mình học để làm
gì.
- Gần đây, dưới sự chỉ đạo của cấp trên, trong giờ dạy, cũng có một số giáo viên đã
tìm cách tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh với những câu hỏi phỏng vấn yêu
cầu học sinh suy nghĩ giải quyết nhưng phần lớn những câu hỏi đó ít địi hỏi ở học sinh
sự suy luận, phân tích, tìm tòi mà chỉ chủ yếu yêu cầu ở học sinh sự tái hiện thông
thường.
- Trong các giờ ôn tập, GV thường đi theo hướng: tóm tắt lí thuyết, cơng thức, nêu
các dạng bài tập và phương pháp giải các dạng bài tập thường gặp. Rèn kĩ năng vận dụng
kiến thức đã học vào bài tập cụ thể. Sau đó Giáo viên giao nhiệm vụ về nhà của học sinh

1


chủ yếu là làm bài tập, học thuộc công thức, khái niệm, định nghĩa, định luật... Rất ít khi
hướng dẫn học sinh tìm hiểu và giải thích các hiện tượng tự nhiên, chưa giao nhiệm vụ
cho học sinh tự làm thí nghiệm hay các sản phẩm ứng dụng lí thuyết vật lí ở nhà. Chưa
chú trọng đến việc phát huy các năng lực cho HS đặc biệt là năng lực thực hành, năng lực
giải quyết vấn đề và sáng tạo.
- Về hình thức kiểm tra đánh giá đang nặng về kiểm tra trí nhớ chưa đề cao việc
kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, việc kiểm tra hầu hết
đơn phương do giáo viên tự ra đề, chấm và đánh giá. Đối với môn Vật lí; một vấn đề
đang được quan tâm hiện nay là kiểm tra đánh giá thơng qua thí nghiệm thực hành, kĩ
năng thực hành nhưng vấn đề này cũng mới chỉ dành cho kỳ thi học sinh giỏi quốc gia.
* Về phía học sinh
- Đa số các em cho rằng Vật lí là mơn học khó, khơ khan, học mà không biết ứng

dụng. Các em chưa biết sắp xếp, bố trí thời gian học tập hợp lí.
- Việc học mang lại nhiều áp lực, nhiều HS lười cịn khơng học thuộc công thức
hay cũng không làm bài tập về nhà.
- Rất ít được làm việc theo nhóm và thảo luận với nhau về các kiến thức nên các
em không mạnh dạn và tự tin khi trình bày hoặc bảo vệ ý kiến của mình.
* Ưu điểm
- Học sinh nhớ lại kiến thức đã học, xâu chuỗi mối quan hệ của các kiến thức đã
học.
- Giải được các dạng bài tập liên quan đến kiến thức đã học và hình thành được kĩ
năng giải bài tập tốt.
- Đáp ứng được yêu cầu của các đề thi và kiểm tra hiện nay.
- Học sinh học thuộc các cơng thức vật lí.
- Biết đến một số ứng dụng của vật lí trong khoa học và đời sống.
- Một số rất ít HS biết được và đã làm được một số ứng dụng kĩ thuật của chương
trình.
* Nhược điểm
- HS khơng có cơ hội hình thành và phát triển năng lực của bản thân như: năng lực
thực hành, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự học, tự nghiên
cứu...
- Do giờ học trên lớp cịn nặng nề, khơng gây được hứng thú học tập cho học sinh
cho nên có nhiều học sinh thụ động trong việc tiếp thu kiến thức: Lười suy nghĩ, lười
hoạt động, chỉ ngồi nghe thầy giảng rồi ghi chép lại, ít hứng thú; rất ít học sinh mạnh dạn
đặt câu hỏi cho giáo viên về vấn đề đã được học, thậm chí cả vấn đề mà các em chưa
hiểu.
- Sau khi học xong phần Cơ học lớp 10 nhiều học sinh chưa hiểu các khái niệm
như: cân bằng bền, không bền, phiếm định, không hiểu được vai trị của các lực cơ học,
khơng hiểu đầy đủ bản chất của các định luật Niu tơn, định luật bản toàn động lượng…,
chưa hiểu được các yếu tố ảnh hưởng đến sự cân bằng của một vật rắn, các yếu tố ảnh
hưởng đến chuyển động của một vật đặc biệt là chưa giải thích đầy đủ chính xác cơ chế
của chuyển động bằng phản lực…

- Kĩ năng vận dụng kiến thức vật lí đã học vào giải thích các hiện tượng vật lí
trong đời sống và ứng dụng kĩ thuật còn kém. Hoạt động chủ yếu của học sinh là học
thuộc lí thuyết, viết đúng cơng thức và luyện giải bài tập. Học sinh khơng được quan sát
thí nghiệm cũng như trực tiếp làm thí nghiệm. Do đó, cơ hội để các em hiểu sâu kiến
thức, rèn luyện kĩ năng cũng như phát triển năng lực sáng tạo là không nhiều.

2


- Các em ở độ tuổi rất ham thích tìm hiểu những thứ mới lạ, tính cách đa phần ưa
hoạt động nhưng giờ học nội khóa cịn nặng nề về kiến thức, phương pháp truyền thụ
cứng nhắc, áp đặt không gây được hứng thú học tập tìm tịi nghiên cứu của các em.
- Nhiều em không tự tin với kiến thức vốn có của mình, các em khơng dám chắc kiến
thức mình có là đúng hay sai. Hoặc khi khơng biết các em cũng không mạnh dạn trao đổi
với giáo viên và bạn học. Khơng có khả năng nói trước đám đơng. Có em khi trình bày thí
nghiệm mà em đó chế tạo ở nhà thì nói lắp bắp khơng thành lời, diễn đạt lộn xộn không
thành ý.
- Học sinh chưa từng được giáo viên giao nhiệm vụ chế tạo sản phẩm vật lí hay
làm dụng cụ thí nghiệm vật lí, chưa bao giờ được tham gia các hoạt động mang tính chất
vừa học vừa chơi về vật lí. Như bài “Định luật I Niu - tơn” của SGK nâng cao, thí
nghiệm lịch sử của Ga-li-lê và thí nghiệm trên đệm khơng khí chỉ được giáo viên mơ tả
lại theo hình vẽ. Các thí nghiệm trong bài “Định luật II Niu-tơn” và bài “Định luật III
Niu-tơn” cũng chỉ dừng lại ở mức mô tả và đưa ra các kết luận.
- Đa số các em khơng có khả năng sáng tạo, thiết kế, chế tạo các thiết bị về ứng
dụng phần "Cơ học" vật lí 10. Học sinh ít có khả năng vận dụng kiến thức một cách sáng
tạo vào thực tiễn mà chủ yếu chỉ vận dụng được vào những tình huống quen thuộc.
- Khả năng làm việc tự lực, sinh hoạt nhóm, diễn đạt về một vấn đề của học sinh
còn rất kém, thường lúng túng khi diễn đạt ý tưởng của mình hoặc điều muốn hỏi, do các
em ít được trao đổi, tranh luận với bạn bè và thầy cô. Tất cả học sinh được hỏi đều cho
biết các em chưa từng được tham gia hoạt động trải nghiệm sáng tạo về vật lí và đều

muốn được tham gia hoạt động trải nghiệm sáng tạo (HĐTNST) thiết kế, chế tạo các
dụng cụ thí nghiệm và tiến hành thí nghiệm đặc biệt về phần " Cơ học".
- Về phía giáo viên(GV): Đa phần GV đã và đang rất quan tâm đến HĐTNST và
đồng thời đánh giá cao tầm quan trọng của vấn đề này trong hoạt động dạy học vật lí. Họ
chưa thực sự hiểu về HĐTNST, với họ HĐTNST tức là đưa học sinh đi đến các nhà máy, xí
nghiệp tham quan mơ hình sản xuất, chế tạo lắp ráp các sản phẩm ứng dụng vật lí. Họ rất
muốn tổ chức HĐTNST cho HS nhưng chưa nắm được phương pháp tổ chức thế nào cho
hiệu quả và đảm bảo là phát triển năng lực cho HS.
Chính vì những phân tích ở trên tơi nhận thấy phương pháp dạy học (PPDH) hiện nay
chưa phát triển được tính sáng tạo và các năng lực cần thiết của học sinh mà toàn ngành giáo
dục cũng như cả nước đang hướng tới.
2. Giải pháp mới cải tiến.
Mục đích của việc đổi mới PPDH ở trường THPT là thay đổi lối dạy học truyền
thụ một chiều sang dạy học theo PPDH tích cực nhằm: “Giúp học sinh phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây
dựng tư cách và trách nhiệm công dân...” (Khoản 2, Điều 28, Luật Giáo dục 2005).
Một trong những hình thức tổ chức dạy học tích cực mang lại sự sáng tạo, hứng
thú học tập, tích cực học tập, phát triển năng lực của học sinh, tơi thấy đó chính là hoạt
động trải nghiệm sáng tạo (HĐTNST). Đây là một hình thức dạy học tâp trung hình
thành, phát triển các năng lực đặc thù cho học sinh: Năng lưc tô ̉chức hoat động, năng lực
thực hành, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tổ chức và quản lí cuộc sống, năng lực tự
nhận thức và tích cực hoá bản thân, năng lực định hướng và lựa chọn nghề nghiêp...
Qua quá trình nghiên cứu và giảng dạy chương trình Vật lí 10, tơi thấy mục tiêu về
kiến thức, kĩ năng, thái độ và năng lực cần hình thành thức phần “Cơ học” học sinh cần
đạt được tương nhiều, kiến thức dài, trừu tượng khó nhớ nhưng lại có rất nhiều ứng dụng

3



trong đời sống và kĩ thuật, có thể hình thành và phát triển được rất nhiều năng lực thông
qua việc học tập nội dung này .
( Phụ lục 1 đính kèm)
Để HS hệ thống kiến thức đầy đủ, phát huy tính tự học, tự tìm tịi khám phá khoa
học thơng qua hoạt động học, tránh nhàm chán và thụ động trong việc tiếp thu kiến thức
và đặc biệt là đảm bảo học phải đi đơi với hành, Giáo viên có thể tổ chức cho các nhóm
học sinh nghiên cứu cấu tạo, công dụng, nguyên tắc hoạt động, tự thiết kế và chế tạo một
số sản phẩm ứng dụng phần cơ học (vật lí 10) ở nhà, tạo cơ hội rèn luyện kĩ năng, thao
tác thí nghiệm, kĩ năng tổ chức và lập kế hoạch làm việc nhóm, biết ứng dụng kiến thức
vào trong đời sống và kĩ thuật, điều này làm cho việc hiểu kiến thức của học sinh trở nên
sâu sắc và bền vững. Trong sáng kiến này tôi tổ chức HĐTNST cho HS thiết kế chế tạo 5
sản phẩm, với mỗi sản phẩm có mục tiêu khác nhau liên quan đến nội dung phần cơ học
vật lí 10 gồm:
1. Tên lửa nước đơn giản

2. Ơ tơ tự hành

3. Đồ chơi cân bằng;

4. Con quay và

spiner;

4


5. Mơ hình thả trứng,

( Phụ lục 2 đính kèm)
Thơng qua việc tham gia vào các HĐTNST, học sinh được phát huy vai trị chủ

thể, tính tích cực, chủ động, tự giác và sáng tạo của bản thân. Các em được chủ động
tham gia vào tất cả các khâu của q trình hoạt động: từ việc tìm kiếm thơng tin, xử lí
thơng tin, thiết kế, chế tạo, vận hành, thuyết trình trong hội thi đến việc theo dõi đánh giá
kết quả hoạt động đều rất phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và khả năng của HS. Các em
được trải nghiệm, được bày tỏ quan điểm, ý tưởng, được đánh giá và lựa chọn ý tưởng
hoạt động, được thể hiện, tự khẳng định bản thân, được tự đánh giá và đánh giá kết quả
hoạt động của bản thân, của nhóm mình và của bạn bè… Từ đó, hình thành và phát triển
cho các em những giá trị sống và các năng lực cần thiết.
Mỗi sản phẩm được thiết kế, chế tạo đều được thực hiện qua các giai đoạn:
+ Giai đoạn tìm kiếm thơng tin
Trong giai đoạn này HS thảo luận thống nhất những từ khoá cần thiết cho việc tìm kiếm
thơng tin, dựa trên các từ khố liên quan đến thơng tin HS tìm kiến những thơng tin cần
thiết cho việc thiết kế, chế tạo mỗi sản phẩm.
(Phụ lục 3 đính kèm)
+ Giai đoạn xử lí thơng tin
HS họp nhóm thống nhất thơng tin mà mỗi cá nhân đã tìm kiếm để đi đến thống nhất
chung về nội dung kiến thức cần thiết. Tổng hợp kết qủa dưới hình thức sơ đồ tư duy trên
khổ giấy A3. Trong sơ đồ tư duy phải thể hiện được các bộ phận chính của mỗi sản phẩm
làm bằng vật liệu gì, ngun lí hoạt động của chúng.
+ Giai đoạn xây dựng ý tưởng cho các sản phẩm, thiết kế sản phẩm
Lựa chọn mơ hình, bố cục cho từng sản phẩm.
Tính tốn thiết kế chi tiết cho mỗi sản phẩm.
Tìm kiếm vật liệu chế tạo, chuẩn bị công cụ cần thiết, dự trù kinh phí.
( Phụ lục 4 đính kèm)
+ Giai đoạn thực hiện chế tạo và lắp ráp sản phẩm
+ Giai đoạn hồn thiện và trình bày báo cáo sản phẩm
HĐTNST là hoạt động tự học của học sinh là chính nên việc đánh giá khơng chỉ
dựa vào điểm số mà cịn cần đánh giá về mọi khía cạnh trong q trình HS tham gia hoạt
động. Mặt khác HĐTNST về cơ bản mang tính chất của hoạt động tập thể trên tinh thần
tự chủ, với sự nỗ lực giáo dục nhằm phát triển khả năng sáng tạo và cá tính riêng của

mỗi cá nhân trong tập thể. Chính vì vậy hình thức đánh giá và tiêu chí đánh giá tơi đã xay
dựng và cho HS nghiên cứu trước khi tổ chức hoạt động, để mỗi HS đều cố gắng nỗ lực
tìm tịi và nghiên cứu để đưa ra phương án tối ưu cho sản phẩm của mình. Cụ thể:
* Tiêu chí và hình thức đánh giá về sản phẩm

5


+ Học sinh tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng với nhau theo các mẫu tiêu chí.
+ Giáo viên đánh giá theo các mẫu tiêu chí.
(Phụ lục 5 đính kèm)
* Hình thức tổ chức
Buổi 1: Gặp gỡ học sinh, giao nhiệm vụ cho học sinh
(Phụ lục 6 đính kèm)
Buổi 2: Họp nhóm thống nhất thơng tin và xử lí thơng tin tìm kiếm được
Sau thời gian gia hạn cho các nhóm, giáo viên hẹn gặp và làm việc cụ thể với từng
nhóm.
( Phụ lục 7 đính kèm)
Buổi 3: Thống nhất ý tưởng cho các sản phẩm, thiết kế sản phẩm
Theo đúng lịch hẹn, giáo viên tổ chức cho các nhóm họp bàn kế hoạch thống nhất
ý tưởng lựa chọn hình thức, kiểu dáng, vât liệu, dự trù kinh phí…cho từng sản phẩm một.
(Phụ lục 8 đính kèm)
Buổi 4: Các nhóm tham gia chế tạo sản phẩm
Các nhóm tập hợp mang theo dụng cụ, vật liệu… để bắt đầu chế tạo sản phẩm.
(Phụ lục 9 đính kèm)
Buổi 5: Tổ chức hội thi vật lí theo kế hoạch
GV lập kế hoạch chi tiết cho cuộc thi, chuyển kế hoạch cho các nhóm trước khi
diễn ra hội thi 3 dến 4 ngày để các nhóm chuẩn bị sẵn sàng về sản phẩm, cử người thuyết
trình,…chuẩn bị cho cuộc thi. Có 4 nội dung sẽ thi công khai trong hội thi gồm:
* Cuộc thi: “Tên lửa nước- đơn giản- thách thức”.

Thể lệ cuộc thi: Các tên lửa được chế tạo không đúng qui định sẽ bị loại. Các nhóm sẽ
tiến hành phóng tên lửa theo sự điều hành của ban tổ chức. Các tên lửa không được cản
trở hoạt động của tên lửa khác, tên lửa bị cản trở sẽ được đua lại ở đợt sau. Cuộc thi gồm
2 phần:
+ Đại diện các nhóm lên thuyết trình về ngun lí hoạt động, khí động học của tên
lửa.
+ Thi phóng tên lửa.
(Phụ lục 9 đính kèm)
Cuộc thi:Chế tạo và đua xe ơ tơ tự hành
+ Thể lệ: Các xe được chế tạo không đúng qui định sẽ bị loại (xe dùng nhiên liệu
hoặc pin). Các nhóm sẽ tiến hành đua xe theo cùng lúc. Các xe đua không được cản trở
hoạt động của xe khác, xe bị cản trở bị ngưng hoạt động sẽ được đua lại ở đợt sau. Xe
đua ngừng ở điểm nào thì thành tích sẽ được tính từ vạch xuất phát đến điểm dừng.
Báo cáo tóm tắt về ngun lí hoạt động, khí động học của xe.
(Phụ lục 10 đính kèm)
Cuộc thi “Chinh phục vũ trụ”
Trò chơi thả trứng là trị chơi thực nghiệm khoa học có tính thực tiễn, sáng tạo
cao. Trị chơi này mơ phỏng lại chuyến du hành khám phá của con người lên sao hoả (sao
hoả có điều kiện khí hậu gần giống với trái đất). Nhiệm vụ cho các đội chơi là phải thiết
kế mô hình khoang đổ bộ của tàu vũ trụ để giúp bảo vệ các quả trứng (phi hành gia) khi
được thả từ trên cao xuống mặt đất (bề mặt hành tinh) được an tồn.
Người chơi thả mơ hình từ trên cao xuống thấp nếu quả trứng (trứng sống) được
bảo vệ tốt (trứng khơng vỡ) thì được điểm. Các khoang đổ bộ được vận dụng các định
luật, các qui tắc vật lý để thiết kế như: ba định luật Newton, tổng hợp và phân tích lực,
lực đàn hồi, lực ma sát…
(Phụ lục 11 đính kèm)
* Triển lãm đồ chơi.

6



Thể lệ: Học sinh giới thiệu sản phẩm và thuyết trình về sản phẩm của nhóm mình.
Có 3 loại đồ chơi được đưa vào triển lãm gồm: lật đật (chú hề), con quay, spiner. Ban
giám khảo và các thành viên khác có thể đi khảo sát thực nghiệm về hoạt động của các đồ
chơi và đặt câu hỏi cho nhóm.
(Phụ lục 12 đính kèm)
Sau khi hội thi kết thức tơi yêu cầu các nhóm nộp bản nhận xét đánh giá sản phẩm
của các nhóm, u cầu HS về hồn thiện các phiếu đánh giá cá nhân, các nhóm hồn
thành phiếu đánh giá trong nhóm, chéo nhóm để tổng hợp kết quả cho mỗi thành viên.
Đây là HĐTNST tôi đã tổ chức cho HS lớp 10 mà tôi được phân công giảng dạy
tham gia và đạt được hiệu quả rất cao đúng theo những mục tiêu mà ngay từ đầu tôi đã
đặt ra, học sinh sau khi tham gia hoạt động hồ hởi phấn khởi, yêu bộ môn hơn, hiểu bài
hơn và đặt biệt là trong mỗi các em đều được khơi dậy tình u và say mê với khoa học.
Chính vì sự thành cơng trong hoạt động dạy học mà chính bản thân tơi đã tổ chức
cho các em, với mong muốn góp phần vào việc đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả
dạy học mơn Vật lí ở trường THPT đặc biệt là Vật lí 10 phần Cơ học, tôi muốn chia sẻ
sáng kiến với các bạn bè, đồng nghiệp nói riêng và với ngành giáo dục nói chung. Đó là
sáng kiến: “Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh thông qua việc
thiết kế, chế tạo các sản phẩm Vật lí phần cơ học lớp 10 THPT”.
III. Hiệu quả kinh tế, xã hội dự kiến đạt được
1. Hiệu quả kinh tế
Việc tính tốn để đưa ra một con số cụ thể về lợi ích kinh tế của sáng kiến ngành
giáo dục nói chung và sáng kiến này riêng thực sự rất khó khăn. Tuy nhiên với sáng kiến
này tơi có thể ước tính những lợi ích mà sáng kiến của tôi sẽ mang lại như:
Trước đây bằng phương pháp dạy học truyền thống, HS phải tốn rất nhiều thời
gian, công sức, tiền bạc khi ôn tập tổng hợp phần cơ học vật lí lớp 10. Bởi hầu hết các
em ôn tập lại bằng cách tham gia các lớp học thêm, học phụ đạo để các thầy cô ôn tập
và hệ thống kiến thức xong vẫn cảm thấy tồn lí thuyết, khơ khan, nhàm chán mà chẳng
hiểu học để làm gì. Khi tham gia hoạt động này một mặt các em vẫn đảm bảo nhớ lại
được tất cả các kiến thức đã học một cách đầy đủ, mặt khác còn phát triển đầy đủ mọi

mặt về năng lực và kĩ năng sống của bản thân. Tôi ước tính mỗi buổi HS tham gia các
lớp học thêm, học phụ đạo tính cho địa phương tơi cũng phải tốn khoảng 25000 đồng/1
buổi; để ôn tập hết kiến thức phần cơ học lớp 10 HS phải học khoảng 15 buổi, như vậy
mỗi HS sẽ tốn khoảng 375000 đồng. Khối 10 trường tơi có 400 HS, nếu tất cả HS được
tham gia HĐTNST này thì có thể mang lại lợi nhuận khoảng 150 triệu đồng cho HS,
còn nếu nhân rộng ra cả tỉnh hoặc nhiều tỉnh thì con số này lên tới vài chục tỉ đồng
trong khi mỗi em HS chỉ mất có vài chục nghìn đồng là có thể chế tạo ra đầy đủ các sản
phẩm đúng nguyên tắc vật lí em đã học.
Giáo viên hướng dẫn học sinh chế tạo được 4 bộ đồ chơi cho em, cháu của mình
với chi phí chỉ khoảng 20.000đ và tận dụng được những đồ phế liệu như chai, lọ, đồ
chơi hỏng, trong khi đó một bộ đồ chơi có vai trị tương đương giá vài trăm nghìn đồng.
Mặt khác nếu 1 lớp tổ chức đi tham quan các khu sản xuất, nhà máy, xí nghiệp thì
tiền xe, đi lại, ăn uống… như trường tơi ở xa khu cơng nghiệp có liên quan, chi phí mỗi
lớp cũng tiêu tốn khoảng 3 đến 8 triệu đồng, vậy 11 lớp tham gia thì tiêu tốn khoảng 33
đến 88 triệu đồng, vậy cả tỉnh sẽ tốn khoảng hơn 1 tỉ đồng, đó là số tiền không nhỏ giảm
tải chi tiêu cho phụ huynh HS.
Hơn nữa trong dự thảo chương trình THPT mới thì HĐTNST là một môn học bắt
buộc, xong nhiều thầy cô chưa biết phải tổ chức như thế nào, hoặc còn quá mơ hồ, cứ
nghĩ HĐTNST là phải đưa HS đi tham quan tại các viện Vật lí, phịng thí nghiệm, các cơ

7


sở sản xuất… Để GV hiểu được ý nghĩa, cách thức tổ chức HĐTNST có thể Bộ GD &
ĐT hoặc Sở GD sẽ phải tổ chức các lớp bồi dưỡng thường xuyên hàng năm tốn kém cả
vài trăm triệu đồng. Nếu sáng kiến này được nhân rộng ra tất cả các trường trong và
ngoài tỉnh để GV thực sự hiểu đầy đủ về HĐTNST mà không cần tham gia các lớp tập
huấn hay bồi dưỡng nữa, như vậy có thể mang lại lợi nhuận cho ngân sách nhà nước vài
tỉ đồng.
HĐTNST có vai trị rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách

của HS. Ngoài việc củng cố, bổ sung vào hệ thống tri thức, kỹ năng, thái độ được HS lĩnh
hội thông qua học ở trên lớp thì HĐTNST cịn tạo điều kiện cho HS vận dụng những điều
đã học vào thực tiễn cuộc sống, rèn luyện các phẩm chất, nhân cách và học hỏi thêm
nhiều tri thức ngoài sách vở, luyện tập được nhiều kỹ năng, thói quen cần thiết cho cuộc
sống. HĐTNST làm tăng hứng thú đối với mơn học vật lí nói chung và phần cơ học vật lí
lớp 10 nói riêng, làm cho mơn học vẫn được xem là khơ khan đó trở nên hấp dẫn hơn, ý
nghĩa hơn và thiết thực hơn. Đó thực sự là những hiệu quả vơ cùng to lớn mà khơng thể
tính bằng tiền.
2. Hiệu quả xã hội
HĐTNST Vật lí vai trị rất quan trọng trong cơng tác giáo dục ở nhà trường phổ
thơng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trên tất cả các mặt. Theo nghiên cứu tổ
chức HĐTNST về phần “Cơ học vật lí 10” , có thể rút ra các tác dụng của HĐTNST như
sau:
Về giáo dục nhận thức
HĐTNST giúp HS củng cố, đào sâu, mở rộng những tri thức đã học trong giờ học
chính khố; giúp cho HS vận dụng được những kiến thức đó vào giải quyết những vấn đề
thực tiễn trong cuộc sống, gắn lí thuyết với thực tiễn, thấy được những ứng dụng của kiến
thức đã được học trong đời sống và kĩ thuật.
Về rèn luyện kỹ năng
HĐTNST giúp cho HS được rèn luyện kỹ năng tự quản, kỹ năng tổ chức điều
khiển chế tạo các sản phẩm đơn giản , phát triển kỹ năng tiến hành lập kế hoạch, bước
đầu làm quen với việc lập bản thiết kế cho sản phẩm cần chế tạo, biết chế tạo sản phẩm
dựa trên thiết kế , kỹ năng giải quyết vấn đề; rèn luyện kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ
năng tự tổ chức, kỹ năng tự quản lí, kỹ năng điều khiển hoạt động nhóm… HĐTNST cịn
giúp HS phát triển kỹ năng giao tiếp, giải quyết vấn đề, rèn luyện ngôn ngữ và kỹ năng
phát biểu trước đám đông, đó là những kỹ năng rất cần khi các em trở thành người lao
động trong thời đại mới.
Về mặt giáo dục tinh thần, thái độ làm việc
HĐTNST kích thích sự hứng thú học tập, khơi dậy lòng ham hiểu biết, lơi cuốn
HS tự giác tham gia một cách nhiệt tình vào các hoạt động, phát huy tính tích cực,

tự lực của HS.
Về rèn luyện năng lực tư duy
Trong dạy học ta có thể rèn luyện cho HS nhiều loại tư duy, trong đó thường được
đánh giá cao nhất là tư duy sáng tạo. Sáng kiến này tôi đã trực tiếp thực hiện ở trường tơi,
đã có đối chứng với lớp khơng được tham gia và nó thực sự mang lại hiệu quả vô cùng to
lớn. Tư duy của các em tốt lên rất nhiều, nhiều em trước đó rụt rè nhút nhát, ngại trao đổi
giao tiếp với tôi hoặc bạn bè, học hành chểnh mảng… sau khi tham gia HĐTNST đã
mạnh dạn hơn, cởi mở hơn, tiến bộ hơn về mọi mặt, thậm chí các em thực sự có lịng say
mê và u mơn học, u thích nghiên cứu khoa học và kĩ thuật hơn gấp nhiều .
Như vậy, HĐTNST có mục đích tổng qt là hỗ trợ cho dạy học chính khố, giúp
phát triển và hồn thiện nhân cách người học một cách toàn diện nhất. Đặc biệt,

8


HĐTNST góp phần quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực có tính tích cực, tự lực
cao và có khả năng sáng tạo tốt trong công việc, đáp ứng được yêu cầu của nền giáo dục
đang trong giai đoạn tích cực đổi mới của nước ta hiện nay.
Sáng kiến được tổ chức thành công ở lớp 10B2 năm học 2016 - 2017 tại trường
tôi. Sáng kiến được các nhà quản lý và giáo viên trong trường tham dự đánh giá cao, đã
truyền cảm hứng và kinh nghiệm cho các thầy cơ tích cực tìm tịi, đổi mới phương pháp
giảng dạy, chuyển trong giai đoạn ngành giáo dục đã và đang hướng tới.
Về giáo dục đạo đức lối sống
Sau khi tham gia hoạt động trải nghiệm một số học sinh đã có ý tưởng sẽ chế tạo
bộ đồ chơi trẻ em với vật liệu cơ bản là phế liệu nhưng chú ý hơn đến sự tiện lợi và
thẩm mĩ với mục đích: trưng bày và bán hàng trong hội chợ triển lãm do trường tổ chức
vào dịp 26/3 năm sau, số tiền thu được các em sẽ sử dụng vào việc trao q cho các bạn
học sinh có hồn cảnh đặc biệt khó khăn; một số sản phẩm sẽ trao tặng cho các em học
sinh mồ côi, khuyết tật, nghèo khơng có tiền mua đồ chơi. Như vậy với kết qủa sáng
kiến đã giáo dục lịng nhân ái vì cộng đồng cho các em, nó như chiếc cầu nối các tâm

hồn với nhau, giúp cho mọi người được gắn kết, thắt chặt với nhau.
Với bản thân tơi, việc tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung, và việc
tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo vật lí nói riêng trong năm bản thân tơi đã đem
lại cho trường, cho học sinh những thành tích cụ thể như sau:
Trong kì thi HSG văn hóa cấp tỉnh năm học 2016-2017 tơi đã bồi dưỡng học sinh
giỏi mơn Vật lí đạt được kết quả rất cao: 1 giải nhất, 2 giải nhì và xếp thứ nhất tồn đồn.
Trong kì thi Violympic vật lí, tơi hướng dẫn học sinh tham dự kì thi và đạt được
kết quả thắng lợi, có 6 em dự thi cấp tỉnh thì cả 6 em nằm trong tốp 10 HS xuất sắc nhất
của Tỉnh và được chọn đi thi vòng Quốc gia, trong 6 em được thi vịng Quốc gia và kết
quả có 5 em đạt huy chương Vàng, 1 em đạt huy chương Bạc.
Chất lượng thi Đại học, Cao đẳng của trường chúng tôi được giữ vững và khẳng
định được vị trí tốp đầu các trường THPT của toàn quốc. Năm học 2016-2017, theo thống
kê của nhà trường có 56 em đạt điểm thi THPT quốc gia từ 26 điểm trở lên. Trong đó nếu
xét đến 05 khối truyền thống là A, B, C, D và A 1 thì nhà trường có 43 em đạt từ 26 điểm
trở lên, đứng thứ 2 trong khối THPT,trong đó có 26 em khối A, 11 em khối B, 01 em khối
C, 01 em khối D và 04 em khối A 1; có 1 em HS đạt 29,25 điểm khối A và 29,5 điểm khối
B. Cụ thể kết quả thi mơn vật lí lớp tơi chủ nhiệm đạt bình quân 8,41 điểm/ 1 học sinh, có
một học sinh đạt điểm 10 và 2 học sinh 9,75.
Kết quả HS lớp 10B2 trực tiếp tham gia hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong kì
thi kết thúc học kì 2 có 80% học sinh đạt điểm giỏi từ 8 trở lên, 18% học sinh đạt từ 7
điểm trở lên, khơng có HS trung bình ,yếu.
Sáng kiến này tơi gửi đi thi trong hội thi Giáo viên giỏi cấp Tỉnh năm 2017 -2018
đã đạt được kết quả cao nhất tỉnh : 9,75 điểm. Và nhờ việc tích cực đổi mới phương pháp
giảng dạy mà bản thân tôi đã đạt giải nhất trong hội thi giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh năm
2017 -2018.
Đó là những kết quả đạt được có thể nhìn thấy bằng mắt, còn những kết quả về
năng lực, phẩm chất, đạo đức mà các em đạt được dù không thể thống kê cụ thể nhưng
nó thực sự vơ cùng to lớn cho sự phát triển năng lực, nghề nghiệp và kĩ năng sống cho
các em trong tương lai.
VI. Điều kiện và khả năng áp dụng.

Sáng kiến được áp dụng ở tất các các trường THPT và cũng áp dụng được cho
mọi đối tượng học sinh có thể theo quy mơ lớp học, khối học hoặc tồn trường. Thậm chí
sáng kiến cịn là mơ hình gợi mở cho GV để tổ chức HĐTNST cho HS các khối lớp thiết

9


kế, chế tạo các sản phẩm nội dung khác như điện học, quang học, nhiệt học… Nó cịn là
mơ hình chung áp dụng cho các môn học thực nghiệm khác như hóa học, sinh học, cơng
nghệ…
Hiện nay hầu hết các trường THPT đều phân lớp theo năng lực của học sinh, ở
các lớp khá, có thể áp dụng ln sáng kiến, cịn với các lớp học sinh trung bình giáo viên
có thể linh động giảm bớt mức độ khó của một số yêu cầu trong các hoạt động, các em
vẫn có thể tiếp cận và đạt được các mục tiêu như mong muốn.
Sáng kiến này là tài liệu để các thầy cơ giáo đã và đang muốn tìm hiểu cách thức
tổ chức HĐTNST tham khảo và làm theo, vì khơng lâu nữa HĐTNST là hoạt động học
mới, bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thơng mới được xã hội quan tâm và ngành
giáo dục đang tích cực chỉ đạo .
Sáng kiến cịn có thể mở rộng tổ chức trên quy mơ tồn trường hoặc thành
chun đề hoạt động cho học sinh, tham gia vào hoạt động học sinh vẫn đảm bảo được
lượng kiến thức , kĩ năng và đáp ứng được yêu cầu về hình thức kiểm tra đánh giá hiện
nay. Bên cạnh đó sáng kiến đảm bảo yêu cầu phát triển đầy đủ năng lực, kĩ năng cần thiết
cho cuộc sống, giáo dục lòng say mê khoa học và có thể nó sẽ là tiền đề cho các em lựa
chọn nghiên cứu khoa học cho tương lai. Đặc biệt trong năm tới tôi dự kiến sẽ mở rộng
sáng kiến trong quy mơ tịan trường để các em học sinh khối 11, 12 có thể chuẩn bị cho
mình một lượng kiến thức vững vàng trong kì thi THPT Quốc gia nhất là với yêu cầu đề
thi của bộ đang tiến tới nội dung thi tồn cấp hiện nay.
Tơi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn
toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Kim Sơn, ngày 8 tháng 10 năm 2018

XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO ĐƠN VỊ
Người nộp đơn

Trần Thị Thanh

10



×